LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới, BHXH xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Ngày nay, BHXH đã
trở thành một công cụ hữu hiệu, mang tính xã hội to lớn,mang tính nhân văn sâu
sắc để giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh trong cuộc sống
và trong quá trình lao động như bị ốm đau, chăm sóc y tế, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, mất khả năng lao động, già cả hoặc bị chết,
bằng việc lập các quỹ BHXH từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và Nhà
nước để trợ giúp cho họ khi gặp các rủi ro trên. Vì thế, BHXH ngày càng trở thành
nền tảng cơ bản cho an sinh xã hội của mỗi quốc gia,của mọi thể chế nhà nước và
được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới.
Ở nước ta, Đảng và Chính phủ luôn xác định chính sách BHXH là chính sách
xã hội lớn ,có tính nhân văn sâu sắc, có tầm quan trọng và vai trò to lớn đối với
cuộc sống con người:BHXH góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao
động ,ổn định sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp,ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc….
Như vậy vai trò to lớn của BHXH là không thể phủ nhận,đó cũng là lý do để
em đi vào tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề này, với mục đích:Phân tích làm sáng tỏ
vai trò của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội,những thành tựu và hạn chế trong
việc thực thi vai trò của BHXH và giải pháp để nâng cao vai trò của BHXH ở Việt
Nam hiện nay.
Chương I Tổng quan về BHXH ở Việt Nam
1. Khái niệm BHXH:
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao
động khi họ gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất đi khả năng thu nhập từ lao động
hoặc mất việc làm thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ do sự
đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm đảm bảo an toàn đời sống của người
lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Về bản chất:
BHXH là hình thức bảo hiểm thu nhập cho người lao động ,là sản phẩm tất yếu
khách quan của xã hội phát triển,là hình thức dịch vụ công để quản lý và đáp ứng
nhu cầu chia sẻ rủi ro trong cộng đồng,là quyền cơ bản của người lao động.
Bảo hiểm xã hội vừa để thực hiện mục đích xã hội ,vừa để thực hiện các mục
đích kinh tế trong mỗi cộng đồng quốc gia.Trong đó,mục đích kinh tế và mục đích
xã hội luôn luôn được thực hiện đồng thời,đan xen lẫn nhau,là hai mặt không thể
tách rời của BHXH.Khi đề cập đến các lợi ích kinh tế của BHXH đối với người lao
động và đối với xã hội là đã bao hàm cả mục đích xã hội của nó .Ngược lại,các
mục đích xã hội của BHXH cũng chỉ đạt được khi nó đồng thời mang lại các lợi
ích kinh tế thiết thực cho người tham gia.
Về chức năng:
Thứ nhất:BHXH bảo đảm bù đắp hoạc thay thế một phần thu nhập cho người
lao động.
Thứ hai:BHXH phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH.
Thứ ba:BHXH góp phần kích thích nâng cao năng suất lao động của cá nhân và
toàn xã hội.
Thứ tư:BHXH góp phần thu hút lao động,hình thành và phát triển thị trường
lao động,gắn bó các lợi ích ngưòi lao động với người sử dụng lao động và lợi ích
xã hội.
2. Hình thức và đối tượng áp dụng BHXH và chế độ BHXH.
2.1. Hình thức và đối tượng áp dụng BHXH.
Theo quy định tại điều lệ BHXH ban hành theo quy định số 12/CP ngày
26/01/1995 của chính phủ quy định BHXH ở nước ta bao gồm 2 loại hình BHXH
bắt buộc và BHXH tự nguyện. Đối tượng áp dụng cụ thể cho từng loại hình BHXH
như sau:
BHXH bắt buộc
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp của Nhà nước.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần linh tế
ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam trong các khu chế xuất, khu công nghiêp, trong các cơ
quan tổ chức nước ngoài hoắc tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
- Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan
hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp tổ chức dịch vụ thuộc lực
lượng vũ trang .
- Người giữ chức vụ dân cử trong các cơ quan: Đảng chính quyền, các cấp từ
cấp huyện trở lên.
BHXH tự nguyện:
- Những người làm nghề tự do: bác sĩ, luật sư, những người buôn bán nhỏ, thợ
thủ công
- Những người lao động làm ở những nơi sử dụng dưới 10 lao động. những
công việc có thời hạn dưới 3 tháng,,, công việc theo mùa vụ hoặc công việc có tính
chất tạm thời khác.
BHXH thất nghiệp.
Đối tượng tham gia: là người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là công
dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các
hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng
đến ba mươi sáu tháng với người sử dụng lao động.
2.2. Chế độ BHXH.
Các chế độ BHXH có thể coi như việc cụ thể hóa việc thực hiện mục đích của
BHXH mà bộ luật lao động đã nêu rõ: nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc
đảm bảo vật chất góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ
trong các trường hợp người lao động gặp các rủi ro bất ngờ. Do đó, số lượng các
chế dộ bảo hiểm xã hội thể hiện mức độ đảm bảo của xã hội với đời sống người lao
động.
Hiện nay, ở nước ta có 5 chế độ BHXH áp dụng cho các đối tượng bắt buộc sau:
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp
- Chế độ hưu trí
- Tiền mai táng và chế độ tuất.
- Trợ cấp thai sản
BHXH tự nguyện bao gồm các chế độ sau đây:
- Chế độ hưu trí - Trợ cấp tử tuất.
BHXH thất nghiếp bao gồm các chế độ sau đây:
- Hỗ trợ học nghề
- Hỗ trợ tìm việc làm
- Trợ cấp thất nghiệp
3. Vai trò của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội:
Là một hình thức bảo hiểm với mục đích xã hội, phi lợi nhuận, BHXH vừa thực
hiện vai trò chung của bảo hiểm, vừa thực hiện vai trò đặc biệt của mình trong đời
sống kinh tế, xã hội. Đó là các vai trò cơ bản sau:
3.1. Vai trò của bảo hiểm:
Các hình thức bảo hiểm nói chung, bao gồm cả BHXH, trong qua trình tồn tại
đã thực hiện các vai trò to lớn sau:
- Nhanh chóng góp phần ổn định cuộc sống, khôi phục sản xuất và làm cho sản
xuất kinh doanh của những người tham gia bảo hiểm tiếp tục phát triển bình
thường nếu như đối tượng bảo hiểm của họ gặp rủi ro, sự cố gây tổn thất.
- Nếu tham gia bảo hiểm, các cá nhân, tổ chức kinh tế - xã hội sẽ được nhà bảo
hiểm phối hợp quản lý rủi ro, thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn
thất.
- Do đặc điểm của bảo hiểm là cần phải có các quỹ dự trữ, dự phòng, quỹ bồi
thường hoặc chi trả…Khi các loại quỹ này chưa sử dụng đến, chúng sẽ là nguồn
vốn đầu tư đáng kể góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế. Các hoạt động bảo
hiểm đề được thực hiện theo “nguyên tắc ứng trước”, vì vậy, các tổ chức BHXH và
các công ty bảo hiểm thương mại thường nắm giữ một quỹ tiền tệ rất lớn. Nguồn
quỹ nhàn rỗi còn biến họ thành những nhà đầu tư lớn, là trung gian tài chính quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, bảo hiểm còn góp phần giảm nhẹ gánh
nặng cho ngân sách nhà nước và tăng cường tích lũy xã hội.
- Các tổ chức và các doanh nghiệp bảo hiểm còn thu hút một lực lượng lao động
đáng kể và tạo thêm công ăn việc làm cho họ. Điều này làm giảm bớt tình trạng lao
động bị thất nghiệp trong xã hội.
- Thông qua hoạt động tái bảo hiểm, bảo hiểm còn có vai trò to lớn thúc đẩy
kinh tế đối ngoại giữa các nước trong điều kiện hội nhập để phát triển ngày nay.
Tuy nhiên, theo thời gian, các điều kiện kinh tế - xã hội của các quốc gia đã
thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là từ giữa thế kỷ XIX. Trong bối cảnh đó, các hoạt
động bảo hiểm cũng phát triển đa dạng hơn và đã có sự chuyên biệt hơn. Vì vậy,
ngoài các vai trò chung, BHXH còn thực hiện vai trò chuyên biệt của mình.
3.2. Vai trò của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội.
3.2.1. Đối với người lao động
Mục đích chủ yếu của BHXH là đảm bảo thu nhập cho người lao động và gia
đình họ khi gặp những khó khăn trong cuộc sống làm giảm hoặc mất thu nhập. Vì
vậy, BHXH có vai trò to lớn đối với người lao động. Trước hết, đó là điều kiện cho
người lao động được cộng đồng tương trợ khi ốm đau, tai nạn…Đồng thời, BHXH
cũng là cơ hội để mỗi người thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn
của các thành viên khác.
Tham gia BHXH còn giúp người lao động nâng cao hiệu quả trong chi dung cá
nhân, giúp họ tiết kiệm những khoản nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết
chi dùng khi già cả, mất sức lao động…góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân
và cho gia đình. Nhờ có BHXH, cuộc sống của những thành viên trong gia đình
người lao động, nhất là trẻ em, những người tàn tật, góa bụa… cũng được đảm bảo
an toàn.
3.2.2. Đối với tổ chức sử dụng lao động.
BHXH giúp cho các tổ chức sử dụng lao động, nói chung, hay các doanh
nghiệp, nói riêng, ổn định hoạt động, ổn định sản xuất kinh doanh thông qua việc
phân phối các chi phí cho người lao động một cách hợp lý. Qua việc phân phối chi
phí cho người lao động hợp lý, BHXH góp phần làm cho lực lượng lao động trong
mỗi đơn vị ổn định, sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả, các bên của quan
hệ lao động cũng gắn bó với nhau hơn.
BHXH tạo điều kiện để người sử dụng lao động có trách nhiệm với người lao
động, không chỉ khi trực tiếp sử dụng lao động mà trong suốt cuộc đời người lao
động, cho đến khi già yếu. Như vậy, BHXH làm cho quan hệ lao động có tính nhân
văn sâu sắc.
BHXH còn giúp cho đơn vị sử dụng lao động ổn định nguồn chi, ngay cả khi có
rủi ro lớn xảy ra thì cũng không lâm vào tình trạng nợ nần hay phá sản. Tuy nhiên,
BHXH hầu như không mang lại lợi ích trực tiếp nên không phải bao giờ người sử
dụng lao động cũng nhận thức đúng được vai trò của nó.
3.2.3. Đối với xã hội.
Đúng như tên gọi đã phản ánh, BHXH luôn mang lại những vai trò to lớn. Tác
dụng đầu tiên của hình thức bảo hiểm này đối với xã hội là việc tạo ra cơ chế chia
sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng xã hội, củng cố truyền thống đoàn kết, gắn bó
giữa các thành viên trong xã hội.
Hiện nay, khi đã trở thành một cấu phần cơ bản nhất trong hệ thống an sinh xã
hội, BHXH là cơ sở để phát triển các bộ phận an sinh xã hội khác. Trên cơ sở đó,
BHXH là căn cứ để đánh giá trình độ quản lý rủi ro của từng quốc gia và mức độ
an sinh xã hội đạt được trong mỗi nước.
BHXH còn là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia.
Thông qua hệ thống BHXH, trình độ tổ chức, quản lý rủi ro xã hội của các nhà
nước cũng ngày càng được nâng cao thể hiện bằn việc mở rộng đối tượng tham gia,
đa dạng về hình thức bảo hiểm, quản lý được nhiều trường hợp rủi ro trên cơ sở
phát triển các chế độ BHXH…
Hoạt động BHXH cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị
trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội phát triển.
Ở Việt Nam, thông qua chính sách bảo hiểm bắt buộc đối với khu vực chính
thức, BHXH còn góp phần làm cho quá trình từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn
nhanh chóng hơn. Với chức năng của mình, BHXH là một khâu không thể thiếu
trong việc thực hiện mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh”, góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế đất nước.
Chương II :THỰC TRẠNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA
BHXH.
a,Kết quả đạt được:
Kết quả đạt được lớn nhất đó là Luật BHXH có hiệu lực từ năm 2007,Luật
Bảo hiểm xã hội thực sự đi vào cuộc sống, trong đó bảo hiểm xã hội tự nguyện
được thực hiện từ ngày 1-1-2008 ,bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện từ ngày 1-
1-2009,đã hướng đối tượng phục vụ tới từng người dân, bao gồm gần như toàn bộ
lực lượng lao động 46 triệu người của nước ta hiện nay. Đây là những hình thức
bảo hiểm có ý nghĩa xã hội rất lớn, mở ra cơ hội được thụ hưởng dịch vụ này tới
đông đảo người dân, nhất là bộ phận có thu nhập thấp, vốn phải gánh chịu nhiều
rủi ro như: nông dân, thợ thủ công ,những người lao động có nguy cơ thất
nghiệp cao trong điều nền kinh tế đang rơi vào khủng hoảng như hiện nay.
Mặt khác tính pháp lý của luật cao và ổn định,giúp người sử dụng lao động và
người lao động yên tâm trong việc đóng góp và hưởng quyền lợi. Trước đây, khi
chưa có luật, chế độ, chính sách BHXH ở nước ta thường xuyên có sự thay đổi, mà
sự thay đổi này bản chất của nó không thuộc về sự điều chỉnh của chính sách
BHXH mà thuộc về sự điều chỉnh của các chính sách xã hội khác như: chính sách
ưu đãi người có công, dân số và kế hoạch hóa gia đình, sắp xếp lại lực lượng lao
động tinh giản biên chế, quy đổi thời gian công tác những chính sách này đã phá
vỡ sự tương quan giữa đóng góp và hưởng thụ và là nguyên nhân làm mất cân đối
quỹ, giảm lòng tin của các đối tượng tham gia, đây cũng là yếu tố thuận lợi đối với
Bảo hiểm xã hội Việt Nam khi tổ chức thực hiện Luật BHXH.
Ðồng thời hệ thống BHXH đã phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ
quan Tuyên giáo, truyền thông ở Trung ương và địa phương tăng cường thời lượng
tuyên truyền các nội dung liên quan đến Luật BHXH. Thực hiện nhiệm vụ này, cơ
quan BHXH từ Trung ương đến địa phương đã phối hợp với các báo, đài truyền
hình, đài phát thanh thực hiện nhiều phóng sự, chương trình, các chuyên trang,
chuyên đề và nhiều tin bài tuyên truyền về Luật BHXH. Giúp cho dư luận xã hội
hiểu được rõ quyền lợi và trách nhiệm tham gia BHXH, của các bên tham gia, lộ
trình từng bước thực hiện các quy định mới về BHXH đó là mức đóng BHXH,
BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian tới.
Bởi vậy,Chỉ một năm sau khi luật có hiệu lực, số đối tượng tham gia BHXH
tăng từ 6.759.723 người năm 2006 lên 8.148.123 người năm 2007 ( tăng 20,7%).
Trong đó lao động ở các cơ quan hành chính, sự nghiệp tăng 4%: doanh nghiệp dân
doanh tăng 25,7%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,3%; doanh
nghiệp nhà nước chỉ tăng 2%. Như vậy số lao động tham gia BHXH tăng thêm
trong năm 2007 chủ yếu thuộc khu vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài và lực lượng vũ trang.
Ðể phù hợp với tình hình mới, BHXH Việt Nam đã sớm sửa đổi, bổ sung quy
trình giải quyết các chế độ BHXH phù hợp với quy định của Luật theo hướng cải
cách thủ tục hành chính; thủ tục hồ sơ đơn giản, dễ thực hiện nhưng vẫn đáp ứng
yêu cầu quản lý, quy định cụ thể các loại giấy tờ cần phải có trong từng loại hồ sơ;
quy định rõ quyền và trách nhiệm của cá nhân người lao động, của chủ sử dụng lao
động và của cơ quan BHXH trong thực hiện chế độ, chính sách BHXH; giảm bớt
các thủ tục, giấy tờ, biểu mẫu không cần thiết đem lại nhiều thuận lợi cho người
lao động và chủ sử dụng lao động. Tất cả các bước giải quyết đều được thực hiện
trong cơ chế một cửa thuộc lộ trình cải cách hành chính của Bảo hiểm xã hội Việt
Nam.
Những kết quả nhìn từ các con số:
Nếu như năm 2007 mới có 3,2 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc,
thì đến năm 2013, con số đó đã lên tới 8,15 triệu người, tăng 2,5 lần so với năm
2007, chiếm 67% đối tượng thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.Nếu
năm 2013 số lao động tham gia BHXH đạt 8,15 triệu người thì số lao động tham
gia BHXH đến cuối năm 2014 đạt gần 20,50 triệu người.
Lương hưu liên tục được điều chỉnh, trong 3 năm (2010 - 2014) đã điều chỉnh 5
lần, tăng từ 164,8% đến 228,8% so với trước tháng 12-2002.
Trong năm 2012, các tỉnh, thành phố trong cả nước đã chi trả các chế độ
BHXH nói trên với số kinh phí lên tới 63.951 tỉ đồng, trong đó chi cho chế độ hưu
trí là 37.702 tỷ đồng chiếm 81,5% tổng chi. Trong năm có thêm 120.315 người
hưởng chế độ hang tháng, 208.710 người hưởng chế độ một lần, hơn 2 triêu người
hưởng trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, 750000 lượt
người hưởng trợ cấp dưỡng sức và 35.000 người qua dời được mai táng phí.Năm
2008 có gần 60 nghìn người hưởng chế độ BHXH hằng tháng, gần 200 nghìn
người hưởng chế độ BHXH một lần và gần 4 triệu lượt người hưởng trợ cấp ốm
đau, thai sản, trợ cấp mai táng và hưởng trợ cấp dưỡng sức đã được giải quyết. Với
số chi hơn 33 nghìn tỷ đồng, số tiền này góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
b,Khó khăn,hạn chế,tồn tại:
Thứ nhất: Mức độ bao phủ của bảo hiểm xã hội còn thấp, tỷ lệ lao động tham
gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mới chiếm khoảng 16% tổng lao động xã hội và 67%
đối tượng thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.Người về hưu có mức lương
hưu, trợ cấp hưu còn thấp, năm 2012 lương hưu bình quân của công nhân viên
chức là 2 triệu đồng.Trong khi đó, hiện nay giá cả đang tăng, tỷ lệ lạm phát rất
cao,năm 2013 so với năm 2006 tăng 12,6%, bình quân 5 tháng đầu năm 2013 so
với cùng kỳ năm 2013 tăng hơn 19%, nhất là giá các mặt hàng thiết yếu (lương
thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh ), ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến đời
sống của người có thu nhập thấp, người nghèo.
Thứ hai: Tình trạng các doanh nghiệp vi phạm Luật BHXH chưa có chiều
hướng giảm, hàng trăm ngàn tỷ đồng tiền BHXH vẫn bị nhiều chủ sử dụng lao
động chiếm dụng, chiếm đoạt. nợ đọng đóng bảo hiểm xã còn lớn.Theo thống kê
chưa đầy đủ, hiện có 80% doanh nghiệp với 73% lao động khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh thuộc diện BHXH bắt buộc nhưng vẫn chưa tham gia. Ở hầu hết các
doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, tình trạng man trá trong thu chi
BHXH xảy ra khá phổ biến. Hình thức chủ yếu vẫn là giả mạo hồ sơ hoặc khai
không đúng tuổi đời, năm công tác, mức lương để hưởng chế độ BHXH; chậm cắt
giảm đối tượng hưởng chế độ mất sức lao động khi hết thời hạn được hưởng ở một
số địa phương, tình trạng cắt chậm từ 1-6 tháng là phổ biến, việc cắt giảm định suất
tuất khi hết hạn hưởng cũng xảy ra tương tự; lập chứng từ giả hoặc khai không
đúng thời gian để thanh toán chế độ ốm đau thai sản, vừa hưởng tiền từ quỹ BHXH
vừa hưởng tiền lương từ ngân sách; trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH hoặc khai
giảm số lao động và quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH ,làm cho BHXH mất
đi vai trò của nó.
Thứ ba: Bảo hiểm xã hội chưa có sự tách bạch giữa khu vực hành chính sự
nghiệp và khu vực thị trường; chưa thực hiện đầy đủ nguyên tắc đóng - hưởng; còn
gắn chặt vào điều chỉnh tiền lương tối thiểu và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Việc
triển khai thực hiện chính sách BHXH trong các đơn vị, tổ chức, các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn gặp nhiều khó hạn chế,chưa đáp ứng
được yêu cầu đề ra.
Thứ tư: Quỹ Bảo hiểm xã hội dài hạn (thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất)
thiếu vững chắc,tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất cân đối thu –chi trong dài hạn.Theo dự
báo của các chuyên gia nếu quỹ BHXH vẫn tính toán như bây giờ thì tới năm 2035
quỹ sẽ mất khả năng chi trả.Hiện nay quỹ BHXH được dùng để chi trả cho quá
nhiều chế độ như: thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, lương hưu,
tử tuất, khám sức khoẻ và vô vàn các khoản chi khác như chi cho quản lý bộ máy
và chi hoạt động đầu tư quỹ. Nhưng mức thu vẫn dừng lại ở con số khiêm tốn 20%
mức lương cơ bản thì hệ quả tất yếu sẽ xảy ra. Nếu vậy, từ năm 2022 trở đi số chi
hàng năm sẽ lớn hơn số thu và sẽ phải sử dụng quỹ BHXH tồn từ những năm trước
- đây chính là sự mất cân đối của quỹ.
Thứ năm: Năng lực chuyên môn, phương pháp làm việc của một số cán bộ
công chức trong ngành còn hạn chế, hành chính, cứng nhắc, chưa đạt mục tiêu
phục vụ người lao động, phục vụ đối tượng làm đích phấn đấu trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ được giao. Việc chuyển đổi tác phong làm việc từ hành chính, thụ
động sang tác phong phục vụ còn chậm, hiệu quả chưa cao và chưa đồng đều trong
toàn ngành; có nơi, có lúc còn gây phiền hà cho đối tượng tham gia và hưởng các
chế độ BHXH,BHYT.
Thứ sáu:Trong bảo hiểm tự nguyện:việc thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện
còn nhiều khó khăn, xuất phát từ một số nguyên nhân. Thứ nhất, các chế độ của
bảo hiểm tự nguyện ít hơn bảo bắt buộc.Thứ 2,mức đóng còn cao, trong khi thu
nhập của đại đa số người dân còn tấp, không ổn định. Mức đóng thấp nhất bằng
16% mức lương tối thiểu chung, tương ứng 86.400 đồng (từ năm 2010 trở đi, cứ
hai năm một lần đóng thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%). Thứ 3,công tác
tuyên truyền đưa vào cuộc sống của bhtn còn hạn chế dẫn đến nhận thức của
người dân về về vai trò của BHTN còn nhiều hạn chế.Thứ 4,Hiện thời thu nhập của
người lao động là rất khác nhau nên BHXH tự nguyện khó triển khai hơn so với
BHXH bắt buộc. Vì BHXH bắt buộc có thể thu tại cơ quan, doanh nghiệp còn bảo
hiểm xã hội tự nguyện là phải thu của từng người một…
Thứ bảy: Một số chế độ BHXH đối với người LĐ còn chưa hợp lý; hệ thống
chế độ chính sách BHXH chưa đồng bộ và tính pháp lý chưa cao; quyền lợi của
người LĐ chưa được quan tâm thoả đáng; trong thực hiện còn thiếu sự phối hợp
chặt chẽ giữa BHXH với các cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức công đoàn; cơ
chế quản lý chưa hoàn thiện…
Chương III NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA BHXH
.
Thứ nhất: Tăng cường, mở rộng về phạm vi, hình thức và nội dung thông tin
tuyên truyền về các chính sách, chế độ, luật về BHXH đến mọi tầng lớp nhân dân
trong xã hội, tập trung vào các đối tượng là người lao động trong các doanh nghiệp
có sử dụng dưới 10 lao động, hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác; người lao
động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động trong các hợp
tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã; các cơ sở bán công, dân lập, tư
nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, thể dục thể thao
và các ngành sự nghiệp khác. Phương pháp tuyên truyền phải dễ hiểu, dễ nhớ, sát
cơ sở, sát người lao động, phù hợp với từng loại đối tượng.
Thứ hai: Với tình trạng các doanh nghiệp vi phạm Luật BHXH thì phải tiếp tục
duy trì, đẩy mạnh hoạt động kiểm tra trên tất cả các lĩnh vực BHXH; tăng cường
phối hợp giữa kiểm tra của ngành với Thanh tra lao động, Thanh tra y tế và tổ chức
kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, đồng thời kiên quyết xử lý những hành
vi tiêu cực hoặc vi phạm pháp luật về BHXH.
Thứ ba: Nghiên cứu tách bảo hiểm xã hội đối với khu vực hành chính sự
nghiệp và khu vực doanh nghiệp; bổ sung, sửa đổi các chế độ bảo hiểm xã hội còn
bất hợp lý; điều chỉnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội theo cơ chế tạo nguồn,
độc lập tương đối với chính sách tiền lương, giảm dần phần hỗ trợ từ ngân sách
nhà nước; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm tự nguyện khác nhằm
mở rộng vững chắc, tiến tới mọi người lao động ở mọi thành phần kinh tế đều
được tham gia bảo hiểm xã hội; bảo đảm cân đối thu - chi bảo hiểm xã hội trên cơ
sở mức đóng - hưởng tăng lên theo lộ trình quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, áp
dụng các biện pháp đầu tư hiệu quả từ Quỹ Bảo hiểm xã hội để bảo toàn và tăng
trưởng bền vững quỹ.
Thứ tư: Xây dựng một hệ thống bảo hiểm xã hội hoàn chỉnh, theo nguyên tắc
đóng - hưởng (bao gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm nghề nghiệp). Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức bên
trong của hệ thống BHXH Việt Nam theo hướng hình thành các tổ chức dịch vụ
bảo hiểm theo từng loại hình bảo hiểm: bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm thai sản, ốm đau, BHYT, tai nạn lao động…, hoặc nghiên cứu tổ chức
theo loại hình BHXH: bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện (kể cả BHYT tự
nguyện).
Thứ năm: Tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, cán bộ
làm công tác BHXH theo hướng có năng lực chuyên môn cao, đạo đức trong sáng
và thái độ phục vụ tận tuỵ, chu đáo, góp phần làm ổn định xã hội, củng cố lòng tin
của nhân dân với Đảng, Nhà nước và đối với bản chất tốt đẹp của các chính sách
BHXH.
Thứ sáu: Tiếp tục tổ chức tốt công tác chi trả các chế độ BHXH cho người lao
động và người được thụ hưởng chế độ bảo hiểm theo phương châm "chi đúng, chi
đủ, chi kịp thời đến tay người lao động". Tuyệt đối không để xảy ra mất mát và tiêu
cực trong chi trả dẫn đến nảy sinh các vấn đề xã hội phức tạp. Phải xác định được:
Làm tốt công tác chi trả là một trong những biện pháp tuyên truyền tốt nhất để tăng
nhanh số người tham gia bảo hiểm…Chỉ có như vậy chức năng của BHXH mới
được thực hiện đầy đủ và vai trò của BHXH với đời sống kinh tế xã hội mới được
bảo đảm.
KẾT LUẬN
Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới bắt đầu từ năm 1986 thực hiện quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN đã đưa ra các nguyên tắc phát triển kinh tế gắn với giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội, trong đó đặt vấn đề phát triển
hệ thống an sinh xã hội (trong đó bảo hiểm xã hội là trụ cột) như một tất yếu đảm
bảo cho các giá trị của CNXH được thể hiện trong quá trình chuyển đổi đầy khó
khăn, phức tạp bởi các rủi ro và nguy cơ của các xung đột xã hội. Chính vì vậy,
trong nhiều kỳ Đại hội Đảng , vấn đề BHXH, được xác định như một trọng tâm
trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.BHXH là hoạt động sự
nghiệp dịch vụ công - một trong những chức năng của quản lý nhà nước, là một
chính sách xã hội lớn của đảng và nhà nước ta nhằm từng bước nâng cao việc bảo
đảm vật chất ,góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình khi họ
gặp phải các rủi ro hoặc các khó khăn trong cuộc sống.Như vậy vai trò củ BHXH
đối với xã hội là vô cùng to lớn.
Ngày nay khi kinh tế thị trường ngày càng phát triển, tăng trưởng ngày càng
cao thì nguy cơ phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, nạn thất nghiệp gia
tăng, tiềm ẩn bất ổn định xã hội lớn… Bởi vậy một hệ thống chính sách BHXH
phù hợp là cơ sở để tạo ra hình thức chia sẻ rủi ro hữu hiệu, tạo ra nguồn thu nhập
thay thế, góp phần bảo đảm an toàn cuộc sống cho người lao động,giúp cho các tổ
chức sử dụng lao động nói chung hay các doanh nghiệp nói riêng sẽ ổn định được
hoạt động, ổn định hoạt động sản suất kinh doanh thông qua việc phân phối một
cách hợp lý các chi phí cho người lao động….Làm giảm sự phân hoá giàu nghèo,
bất bình đẳng xã hội, nạn thất nghiệp ,bất ổn định xã hội.Là điều kiện để phát triển
kinh tế xã hội của đất nước,nâng cao hơn nữa vai trò của BHXH trong đời sống
kinh tế xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1:Giáo trình Bảo hiểm xã hội 1(Đại học Lao động xã hội).
2:Tạp chí Bảo hiểm xã hội.
3:Giáo trình Nhập môn an sinh xã hội (Đại học Lao động xã hội).