Tải bản đầy đủ (.pptx) (37 trang)

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN VỐN (CAR) CỦA CÁC NHTM TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.73 KB, 37 trang )

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG QUY ĐỊNH
VỀ AN TOÀN VỐN (CAR) CỦA CÁC NHTM
TẠI VIỆT NAM
CHƯƠNG 1: TỈ LỆ AN TOÀN VỐN TỐI THIỂU
(CAPITAL ADEQUACY RATIO)
Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu là một thước đo độ an toàn vốn của ngân
hàng. Nó được tính theo tỉ lệ phần trăm của tổng vốn cấp 1 và vốn cấp
2 so với tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng.
CAR = [(Vốn cấp I + Vốn cấp II) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%
Khi tính toán tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, người ta xét đến hai loại vốn: vốn cấp
I(vốn nòng cốt) và vốn cấp II(vốn bổ sung), trong đó vốn cấp I được coi là có độ
tin cậy và an toàn cao hơn. Ngoài yêu cầu đảm bảo cho CAR từ 8% trở lên, các
ngân hàng còn phải đảm bảo tổng vốn cấp II không được vượt quá 100% vốn
cấp I.
Vốn cấp I
Tier 1 capital

Tỉ lệ an toàn vốn cấp 1 = Vốn cấp 1 / Tổng tài sản điều
chỉnh rủi ro

Vốn cấp 1 là thước đo chủ yếu đánh giá sức mạnh,
tiềm lực tài chính của một ngân hàng từ quan điểm của
cơ quan quản lý, được định nghĩa trong Basel.

Vốn cấp 1 bao gồm các loại nguồn lực tài chính có độ
tin cậy cao nhất và có tính thanh khoản tốt nhất, chủ
yếu đề cập đến vốn cổ đông. Các ví dụ về vốn cấp 1 có
thể kể đến: cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi không
hoàn lại và không tích luỹ, lợi nhuận giữ lại. Theo nghĩa
này, vốn cấp 1 không hoàn toàn giống nhưng có liên
quan mật thiết đến khái niệm vốn cổ đông, đây là phần


chính nhưng không phải tất cả vốn cấp 1.
Quyết Định số
457/2005/QĐ-NHNN

Vốn cấp 1 về cơ bản gồm:(i) vốn điều lệ, (ii) lợi nhuận
không chia và (iii) các quỹ dự trữ được lập trên cơ sở
trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng như quỹ dự
trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ
đầu tư phát triển.

Vốn cấp 1 là một trong những thước đo tỉ lệ đủ vốn của
Ngân hàng, đó là tỉ lệ giữa vốn nòng cốt của ngân hàng
với tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro. Tài sản điều chỉnh
rủi ro là tổng tất cả các tài sản do ngân hàng nắm giữ
được tính toán theo trọng số đối với rủi ro tín dụng
theo một công thức do cơ quan quản lý đưa ra. Hầu hết
các ngân hàng Trung ương đều theo chuẩn BIS - Ngân
hàng thanh toán quốc tế - để đặt ra những trọng số
này. Các tài sản như tiền mặt, tiền xu thường có trọng
số rủi ro là 0, trong khi các khoản vay không có bảo đảm
có trọng số 100%.
Vốn cấp 2

Vốn cấp 2 là thước đo tiềm lực tài chính của một ngân
hàng liên quan đến các dạng nguồn lực tài chính có độ
tin cậy ở hàng thứ hai (sau vốn cấp 1), xét từ quan
điểm của cơ quan quản lý ngành ngân hàng. Các dạng
nguồn lực tài chính này được tiêu chuẩn hóa rất rõ
ràng trong Basel I và không có gì thay đổi trong Basel II.


So với vốn cấp 1, vốn cấp 2 được coi là có độ tin cậy,
an toàn thấp hơn. Cơ quan quản lý của hầu hết các
quốc gia, kể cả ban thống đốc của FED, đều áp dụng
tiêu chuẩn về vốn này trong hệ thống pháp lý của mình
Tier 2 capital
Hiệp ước tín dụng quốc tế Basel
Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel
Committee on Banking supervision - BCBS) được
thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các ngân
hàng Trung ương và cơ quan giám sát của các nước
phát triển (GIO) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm
tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các
ngân hàng vào thập kỷ 80.

Vào năm 1988, ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó được đề
cập như hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I.

Đến ngày 26/6/2004, bàn Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức
được ban hành và có hiệu lực vào tháng 1/2007.

Và vào ngày 12-9-2010 các nhà quàn lý ngân hàng các nước thuộc ủy ban Basel về giám
sát ngân hàng đã đồng thuận một quy định mới có tính lịch sử về quản lý ngân hàng
nhằm xây dụng hệ thống tài chính toàn cầu ổn định hơn. Quy định mới, gọi là Hiệp định
Basel III.
Basel 1
Mục đích Tiêu chuẩn

Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân
hàng quốc tế; thiết lập một hệ thống ngân hàng
quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh

tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc
tế.

Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro - "Tỉ lệ Cook“: ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất
8% của rổ tài sản

Tỉ lệ an toàn vốn (CAR) : ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức
vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và
thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%
Basel 1
thành tựu hạn chế

Đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế
chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi
là tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng.

Tiêu chuẩn này quy định: vốn cấp 1 > vốn cấp 2
+ vốn cấp 3

Basel I vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điếm hạn chế cơ bản của
Basel I là không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với mức độ
ngày càng tăng lên, đó là rủi ro vận hành (không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận
hành). Ngoài ra, còn một số điểm hạn chế khác, như: không phân biệt theo loại rủi ro,
không có lợi ích từ việc đa dạng hóa
Basel II

Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng
quốc tế, tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các
ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế, đẩy mạnh việc
chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản

lý rủi ro.
Mục tiêu
Tiêu chuẩn

Sử dụng khái niệm"Ba trụ cột":

Trụ cột thứ 1: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc.

Trụ cột thứ 2: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân
hàng, trì trên mức tối thiểu.

Trụ cột thứ 3: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một
cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường.
BASEL II

Trên cơ sở kế thừa Basel I, trụ cột thứ nhất của Basel II cũng yêu cầu CAR >=
8%. Ngoài ra, Basel II có những điểm mới so với Basel I:

Thêm vào vốn cấp 3 (Short-term subordinated debt covering market) là các
khoản vay ngắn hạn.

Bổ sung phương pháp đo lường rủi ro thị trường (phương pháp chuẩn hóa và
phương pháp mô hình nội bộ).

Bên cạnh rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường, Basel II bổ sung thêm rủi ro hoạt
động (rủi ro vận hành) với các phương pháp đo lường: phương pháp chỉ số cơ
bản, phương pháp chuẩn hóa, phương pháp nâng cao.

Việc xác định hệ số rủi ro của tài sản có sự thay đổi: thay vì quy định hệ số rủi ro
có 4 mức là 0%, 20%, 50%, 100% và ưu đãi hơn với các nước thuộc OECD, Basel

II quy định hệ số rủi ro có 5 mức là 0%, 20%, 50%, 100%, 150% và không còn
đặc quyền nào với các nước OECD. Bên cạnh đó, hệ số rủi ro không áp dụng
cứng nhắc như quy định của Basel I mà được chi tiết theo độ nhạy cảm rủi ro
trong mỗi loại và phụ thuộc vào hệ số tín nhiệm của các đối tượng.
Ngoài ra, theo Basel II, mẫu số của công thức tính hệ số an toàn vốn CAR sẽ bao
gồm 2 phần: tổng tài sản đã điều chỉnh theo hệ số rủi ro tín dụng cộng với 12,5 lần
tổng vốn quy định cho dự phòng rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động
Tiêu chuẩn
BASEL II
Tuy nhiên, cũng như Basel I, Basel II cũng không tránh khỏi
những thiếu sót:

Thêm vào vốn cấp 3 → Hệ lụy: nguyên nhân dẫn đến cuộc
khoảng tài chính 2008-2010.

Đánh giá mức độ rủi ro dựa trên đánh giá mức độ tín nhiệm,
tuy nhiên, các cơ quan xếp hạng tín nhiệm chưa thực sự làm
việc công tâm, chạy theo lợi nhuận → Tạo điều kiện cho
các tổ chức được đánh giá tín nhiệm tốt tăng cường thực
hiện các khoản đầu tư mạo hiểm → Rủi ro tăng lên.

Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chung tính đến
chu kỳ kinh doanh.

Các quy định về vốn yêu cầu trung bình được quy định
trong Basel II bị đánh giá là khá thấp trong khi những ràng
buộc để có cơ sở vốn chất lượng cao lại chưa được quy định
chặt chẽ.
Tiêu chuẩn
Ưu điểm của Basel II

so với Basel I:
Về cấu trúc và nội dung: Basel I
tập trung vào một giải pháp
quản lý rủi ro duy nhất là "yêu
cầu vốn tối thiểu". Trong khi,
Basel II tập trung nhiều hơn vào
các phương pháp nội bộ của
chính ngân hàng, đánh giá hoạt
động thanh tra, giám sát và kỷ
luật trên nguyên tắc thị trường.
Do đó, quyền lực của các nhà
quản lý quốc gia được tăng lên
Về tính linh động của ứng dụng:
Basel I quy định chung một chọn
lựa cho tất cả các ngân hàng.
Basel II linh hoạt hơn với một
danh sách các phương pháp, các
biện pháp khuyến khích để các
nhà quản lý quốc gia và các ngân
hàng chọn lựa.
Về tính nhạy cảm với rủi ro:
Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ.
Basel II nhạy cảm hơn với rủi ro
thông qua độ nhạy cảm của yêu
cầu vốn đối với mức độ rủi ro
tăng lên và sự công khai bắt
buộc một cách chi tiết về độ
nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi
ro.
Về trọng số rủi ro: Basel I quy

định từ 0 - 100 và ưu đãi hơn
với các nước thuộc Tổ chức họp
tác và phát triển kinh tế (OECD-
Organisation for Economic Co-
operation and Development).
Basel 2 quy định từ 0- 150 hoặc
hơn và không có đặc quyền nào,
bao gồm cả phân cấp bên trong
và bên ngoài.
Basel III
Nội dung bao trùm của Basel III là:

Nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu (cổ phần phổ thông) từ 2% lên 4,5%.

Nâng tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu từ 4% lên 6%.

Bổ sung phần vốn đệm dự phòng tài chính đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu 2,5%.

Tùy theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo chu kỳ kinh tế có
thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0 - 2,5% và phải được đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu phổ thông (common
equity).
Có thể thấy rằng, loại trừ khoản vốn đệm phòng ngừa rủi ro tài chính 2,5%, tiêu chuẩn an toàn vốn tối
thiểu không thay đổi (vẫn là 8%). Tuy nhiên, kết cấu của các loại vốn đã có sự thay đổi đáng kể theo
hướng tăng tỷ trọng vốn cấp 1, đồng thời tăng tỷ trọng vốn chủ sở hữu phổ thông trong vốn cấp 1.
Hiệp định Basel III, buộc các ngân hàng có hoạt động quốc tế phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 7%, cao
hơn nhiều lần so với tiêu chuẩn 2% hiện hành và cao hơn cả tỷ lệ 4% mà các ngân hàng Mỹ áp dụng sau
khi kiểm tra sức chịu đựng của ngân hàng vào năm 2009.
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG MỨC ĐỦ VỐN CỦA
CÁC NHTM VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ ĐỐI CHIẾU VỚI
CHUẨN MỰC VIỆT NAM VÀ CHUẨN MỰC QUỐC TẾ

BASEL
Theo chuẩn mực việt nam
Áp dụng Quyết định
297/1999/QÐ-NHNN5
Thực hiện Quyết định
457/2005/QÐ-NHNN
Thực hiện Thông tư số
13/2010/TT-NHNN
Tình hình thực hiện chia làm 3
giai đoạn :
Áp dụng Quyết định
297/1999/QÐ-NHNN5
Thời kỳ này, khối NHTM Nhà nước không đảm bảo
được mức an toàn vốn tối thiểu. Tại thời điểm năm
2000, trước thực trạng tỷ lệ nợ xấu quá cao, có nguy cơ
dẫn đến sự phá sản của các NHTM Nhà nước, Chính
phủ đã trực tiếp cấp 12.000 tỷ đồng dưới dạng cấp trái
phiếu đặc biệt thời với hạn 20 năm để tăng vốn tự có
cho 4 NHTM Nhà nước đưa tổng mức vốn tự có của
khối này lên mức hơn 18.000 tỷ VND, chiếm 51% vốn
tự có của toàn hệ thống. (Xem Bảng 1)
STT Tên ngân hàng Tổng TS có Vốn tự có CAR (%)
1 VCB
136.721 4.279 7,32
2 Vietinbank
116.373 3.405 5,35
3 BIDV
121.404 3.971 5,51
4 Agribank
179.281 6.411 4,79

5 MHB
12.676 910 8,48
Bảng 1: Vốn tự có và hệ số CAR (hệ số an toàn vốn) của các
NHTM NN thời điểm 31/12/2005
chúng ta có thể thấy hầu hết các NHTM NN đều chưa đạt được
yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% (trừ MHB - Ngân hàng
Phát triển Nhà đồng bằng song Cửu Long). Nếu xét trên toàn
bộ hệ thống ngân hàng có thể nhận thấy, trong khi các NHTM
NN gặp khó khăn trong việc đạt chuẩn an toàn vốn thì các
NHTMCP thời điểm này lại đảm bảo được mức an toàn vốn.
Các định chế tài chính Tổng nguồn vốn Vốn tự có CAR
Hê thống NHTM 872.062 44.03 5,5
NHTM Nhà nước 617.786 23.581 4,1
NHTMCP đô thị 156.14 11.198 8,0
NHTMCP nông thôn 3.043 667 24,0
NH liên doanh 13.192 1.522 12
Chi nhánh NH nước ngoài 81.899 7.059 9,2
Bảng 2: Bảng tổng hợp vốn tự có của hệ thống NHTM đến 31/12/2005
Mặc dù các NHTM Việt Nam đã nỗ lực và hầu hết các NHTM cổ phần đều đạt được hệ số an
toàn vốn trên 8%, song nếu so sánh với cách tính hệ số an toàn của Basel II, tức là mẫu số
phải cộng thêm cả vốn dành cho rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động (RRHÐ) thì chắc chắn
rất ít NHTM Việt Nam giai đoạn này đạt được tỷ lệ an toàn vốn ở mức trên 8%.
Thực hiện Quyết định
457/2005/QÐ-NHNN
Trong giai đoạn này, vốn tự có của các NHTM
đã gia tăng nhanh chóng nhờ sự thuận lợi của
môi trường kinh doanh cũng như sự bùng nổ
của thị trường chứng khoán thời kỳ 2006-2008.
Nếu xem xét trên số liệu của các NHTM có quy
mô hoạt động lớn trong Bảng 3 có thể nhận

thấy nhiều NHTM đạt được yêu cầu về hệ số an
toàn vốn 8%.
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
VCB 9.57 12.6 9.2 8.9 8.11 9 11.14 14.83
Agribank 0.41 4.9 7.2 7.9 4.86 6 8 9.49
Vietinbank 6.07 5.18 11.62
12.02 8.06 8.02 10.57 10.33
BIDV 3.36 5.5 6.67 8.94 7.55 9.32 11.7
Techcomban
k 15.72 17.28 14.3 13.99 9.6 13.11 11.4 12.6
ACB
12.1 10.89 16.19 12.44 9.97 9 9.25 13
Bảng 3: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của một số NHTM
Thực hiện Quyết định
457/2005/QÐ-NHNN
theo Nghị định 141/2006/NÐ-CP (ngày 22/11/2006),
thì đến cuối năm 2010, các NHTMCP phải đạt mức
vốn pháp định tối thiểu là 3.000 tỷ VND. Một số ngân
hàng đã thực hiện tăng mức vốn pháp định theo qui
định để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Nhưng
còn nhiều ngân hàng vẫn đang trong quá trình triển
khai kế hoạch tăng vốn pháp định. Do đó, tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu của toàn hệ thống ngân hàng có
tăng lên, nhưng vẫn chưa đảm bảo mức tăng theo
tiêu chuẩn tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Vấn đề đáng
lưu ý ở giai đoạn này là do tác động của chính sách
kích cầu cũng như việc thực hiện nới lỏng tiền tệ của
NHNN nên tín dụng tại các NHTM đã tăng đột biến.
Ðiều này dẫn đến hệ lụy tổng tài sản rủi ro của các
NHTM tăng lên và kết quả là các NHTM trong nhóm

trên đều có xu hướng sụt giảm tỷ lệ an toàn vốn,
trong đó, VCB đã tụt xuống gần mức an toàn tối
thiểu 8% trong năm 2009.
Thực hiện Thông tư số
13/2010/TT-NHNN
Trong giai đoạn này, bức tranh về đảm bảo an toàn vốn
là khá phức tạp. Nếu nhìn vào mức tính toán cho toàn hệ
thống, hệ thống NHTM Việt Nam đã đảm bảo được hệ số
an toàn vốn tối thiểu 9%.
Năm 2010 Năm
2011
Tháng 10
năm
2012
Tỷ lệ an toàn vốn 11.02% 11.92% 13.7%
Bảng 4: Tỷ lệ an toàn vốn của toàn ngành Ngân hàng năm 2010 - 2012
CAR VCB CTG ARG BIDV TCB STB ACB EAB
2010 9 8.02 6.09 9.32 13.11 10.32 10.4 10.84
Bảng 5: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của một số NHTM năm
2010
Ðối với khối NHTMCP, các ngân hàng quy mô lớn đều có xu thế đạt
được yêu cầu mới của NHNN về tỷ lệ an toàn vốn. Trái lại, các NHTMCP
nhỏ thực sự gặp khó khăn trước yêu cầu tăng vốn tự có nhằm đảm bảo an
toàn

×