Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN VỐN (CAR) CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (975.44 KB, 50 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

BÀI TIỂU LUẬN
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN
VỐN (CAR) CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI
VIỆT NAM

GV: Th. Nguyễn Thị Hai Hằng
Lớp: K09404A
Nhóm 1:
1. Võ Thị Như K094040583
2. Lê Thị Quy K094040593
3. Nguyễn Thị Tươi K094040633
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 4 năm 2013
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM 3
1. Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam 3
2. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hiện nay (bối cảnh tái cơ cấu kinh tế) 3
CHƢƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA HIỆP ƢỚC BASEL VÀ VIỆT NAM VỀ AN
TOÀN VỐN (CAR) 8
1. Các quy định của hiệp ước Basel về an toàn vốn (CAR) 8
1.1. Quá trình ra đời của hiệp ước Basel 8
1.2. Những đặc điểm của hiệp ước Basel 9
2. Các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về an toàn vốn 18
2.1. Những tiến bộ so với Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN 18
2.2. Những điểm tích cực trong Thông tư 13 và các thông tư sửa đổi liên quan 19
2.3. Một vài bất cập 21
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ MỨC ĐỘ ĐÁP ỨNG QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN
VỐN CỦA CÁC NHTM TẠI VIỆT NAM 26


1. Giai đoạn áp dụng quyết định 297/1999/QĐ-NHNN5 quy định về các tỉ lệ đảm bảo
an toàn trong hoạt động của NHTM 26
2. Giai đoạn thực hiện quyết định 457/2005/QĐ-NHNN quy định tỉ lệ an toàn vốn tối
thiểu 8% 28
3. Giai đoạn thực hiện đảm bảo an toàn vốn tối thiểu theo tinh thần của Thông tư
13/2010/TT-NHNN 29
Chƣơng 4: KHUYẾN NGHỊ VỀ ĐẢM BẢO AN TOÀN HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM THEO TIÊU CHUẨN BASEL II VÀ BASEL
III 34
1. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo tính khả thi trong việc áp dụng các chuẩn mực Basel
liên quan đến đảm bảo an toàn vốn tại các NHTM 34
1.1. Hoàn thiện Thông tư 13/2010/TT-NHNN 34
1.2. Kiến nghị lộ trình dự kiến áp dụng Basel II và III 35
1.3. Các quy định khác về an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 35
2. Giải pháp tăng trưởng vốn bền vững cho các NHTM 36
2.1. Tăng vốn đi kèm với sử dụng vốn hợp lý 36
2.2. Chuẩn bị tiềm lực tài chính để sẵn sàng áp dụng các quy điịnh về an toàn vốn
mới theo quy chuẩn Basel III 36
KẾT LUẬN 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38
PHỤ LỤC 39
1. Các Ngân hàng thương mại Nhà nước 39
2. Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam 39
3. Các Ngân hàng thương mại cổ phần 40
4. Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam 43
5. Ngân hàng liên doanh 46
6. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 46
1

LỜI NÓI ĐẦU

Hệ thống ngân hàng được coi là “huyết mạch” của nền kinh tế, đóng vai trò quan
trọng nhất trong hệ thống trung gian tài chính. Bởi vậy, hoạt động ngân hàng cần phải
luôn thông suốt, hiệu quả và an toàn để duy trì sự vận hành trôi chảy các hoạt động trong
nền kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Quy mô vốn tự có là một trong nhưng tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ an
toàn trong hoạt động dinh doanh ngân hàng theo thông lệ quốc tế. Tại Việt Nam, sự tăng
trưởng vốn của ngân hàng luôn được sự quan tâm đặc biệt của các nhà quản trị ngân hàng
trong các mục tiêu, chiến lược, kế hoạch thực hiện. Các tổ chức như Cơ quan thanh tra
giám sát Ngân hàng, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cũng như Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam luôn đưa ra nhiều cơ chế, chính sách đánh giá năng lực tài chính của ngân hàng,
trong đó nhấn mạnh việc tăng vốn tự có để đảm bảo an toàn hệ thống tài chính. Đối với tỷ
lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR), quy định cụ thể liên quan đến quyết định đầu tiên là
Quyết định 297/1999/QĐ-NHNN5 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động
của Ngân hàng thương mại (NHTM). Tại quy định này, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được
xác định là 8% nhưng phương pháp tính đơn giản và chưa phản ánh chính xác tinh thần
Basel I. Đến năm 2005, NHNN đã ban hành Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN với tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu vẫn là 8% nhưng phương pháp tính toán đã tiếp cận tương đối toàn
diện Basel I. Năm 2010, NHNN ban hành Thông tư số 13/TT-NHNN thay thế Quyết định
457/2005/QĐ-NHNN, nâng tỷ lệ an toàn tối thiểu lên 9% và phương pháp tính toán đã
từng bước tiếp cận Basel II. Như vậy, quản lý nhà nước đối với mức độ đủ vốn của các
NHTM luôn hướng theo chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, thực trạng việc quản lý an toàn
vốn xét cả góc độ cơ quan quản lý vĩ mô cũng như từ góc độ quản trị công ty của các
NHTM đã cho thấy nhiều tồn tại cần giải quyết để đảm bảo một hệ thống ngân hàng an
toàn và lành mạnh.
Bài tiểu luận này hướng tới giải quyết 3 vấn đề chính: một là, giới thiệu sơ qua về
quy định mức an toàn vốn tối thiểu của hiệp ước Basel và của NHNN Việt Nam; hai là,
đánh giá mức độ đáp ứng quy định về an toàn vốn tối thiểu của các NHTM tại Việt Nam
2

theo từng giai đoạn; cuối cùng là đưa ra giải pháp nhằm áp dụng tốt quy định về an toàn

vốn tối thiểu của các NHTM tại Việt Nam.
Mặc dù đã cố gắng thực hiện tiểu luận một cách tốt nhất nhưng không thể tránh
khỏi sai sót. Kính mong có sự đóng góp, bổ sung của Giảng viên cũng như các bạn Sinh
viên để bài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cám ơn!
Tập thể nhóm 1

3

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
TẠI VIỆT NAM
1. Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam
Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay bao gồm 5 Ngân hàng thương mại Nhà
nước, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 35 Ngân hàng thương mại cổ phần, 50 Chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, 4 Ngân hàng liên doanh và 5 ngân hàng có 100% vốn nước ngoài.
(Xem cụ thể tại phụ lục)
2. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hiện nay (bối cảnh tái cơ cấu kinh
tế)
- Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nặng nề vào khu vực ngân hàng: Tỷ lệ tổng tài
sản của hệ thống TCTD/GDP cao hơn nhiều so với các nước có trình độ phát triển tương
đương trong khu vực, cho thấy khi khu vực ngân hàng không thực hiện được tốt chức
năng dẫn vốn với quy mô từng đảm đương thì nền kinh tế tất yếu sẽ bị suy giảm mạnh và
ngược lại, hệ thống ngân hàng dễ dàng bị tổn thương khi kinh tế vĩ mô bất ổn. Tính đến
cuối năm 2011, tỷ lệ tổng tài sản của hệ thống TCTD/GDP đạt 200% và tỷ lệ dư nợ tín
dụng cho nền kinh tế/GDP đạt trên 100%.
- Tổng tài sản của hệ thống TCTD tăng trưởng nhanh qua các năm, tuy nhiên,
rất không đồng đều giữa các khối và chứa đựng yếu tố “tăng ảo”. Nhìn chung toàn hệ
thống, tài sản của khối NHTMCP thường dẫn đầu, tiếp đến là khối ngân hàng thương mại
nhà nước (NHTMNN), khối nước ngoài bao gồm ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước
ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài (NHLD&Nngoài); sau cùng là khối các TCTD

phi ngân hàng và các tổ chức khác. Điều này hàm ý, tổng tài sản đã bị tăng ảo mạnh và
quy mô bảng tổng kết tài sản thường bị “thổi phồng”.
- Cơ cấu tài sản và nguồn vốn của hệ thống diễn biến theo chiều hướng xấu đi,
khi mà hoạt động lõi của các ngân hàng - huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ chức
kinh tế và dân cư để cho vay ra nền kinh tế, ngày càng chiếm tỷ trọng giảm dần tương
ứng so tổng nguồn vốn và tổng tài sản. Nguồn vốn của nhiều TCTD giờ đây phụ thuộc
4

nặng nề hơn vào thị trường liên ngân hàng và các nguồn vay mượn khác (từ nước ngoài,
từ NHNN,…). Hệ số đòn bẩy tài chính gia tăng những năm gần đây cũng chỉ ra quy mô
vốn chủ sở hữu đang giảm sút tương đối so tổng tài sản. Bên vế sử dụng vốn, tỷ trọng đầu
tư vốn trên thị trường, đầu tư giấy tờ có giá, góp vốn, mua cổ phần cũng tăng đáng kể qua
các năm. Điều này đưa đến câu hỏi: phải chăng các NHTM Việt Nam đang sao nhãng
dần bản chất “thương mại” vốn có của nó? liệu có cần các quy định nhằm tách bạch giữa
hai hoạt động ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư, khi mà trình độ quản lý của
các cơ quan điều tiết và giám sát thường không theo kịp thị trường?
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng thường rất cao trong những năm trước đây, đã suy
giảm mạnh trong các năm 2010 và 2011(Từ mức 40% năm 2009, xuống 29% năm 2010
và còn 13% năm 2011, rồi -2.1% cuối Quý I-2012) và thậm chí chuyển sang âm trong
suốt 5 tháng đầu năm 2012, đi kèm theo là tỷ lệ nợ xấu gia tăng nhanh, đạt mức 10% theo
công bố của Thống đốc tại kỳ họp 3 Quốc hội khóa XIII. Tốc độ tăng trưởng tín dụng còn
có thể thấp hơn nữa nếu loại bỏ hư số do hiện tượng tiền ảo hay do nhiều ngân hàng cố ý
“làm đẹp” số liệu kế toán cuối các năm tài chính gần đây. Đồng thời, con số tăng trưởng
này cũng có thể sẽ tăng lên đáng kể khi hiện tượng các TCTD “lách” hạn mức tín dụng
phi sản suất hoặc “che đậy” tài sản kém chất lượng bằng cách biến tướng các khoản thực
chất là cho vay thành đầu tư vào chứng khoán nợ của các tổ chức kinh tế, hay dưới dạng
ủy thác đầu tư, phải thu khác, đặt cọc, ký quỹ,… Nợ xấu ngày càng đáng quan ngại
không chỉ ở quy mô gia tăng nhanh, mà còn ở việc nợ nghi ngờ và nợ có nguy cơ mất vốn
chiếm tỷ trọng cao. Nợ cần chú ý cũng chiếm tỷ trọng lớn, tuy chưa phải tính vào nợ xấu,
nhưng rõ ràng ẩn chứa nguy cơ nhanh chóng trở thành nợ xấu nếu tình hình kinh tế tiếp

tục diễn biến xấu và/hoặc nếu việc phân loại nợ được làm “thực chất” hơn.
- Cơ cấu tín dụng cho thấy những quan ngại đáng kể. Số liệu báo cáo phân loại
tín dụng theo kỳ hạn chỉ ra, dư nợ cho vay trung dài hạn toàn hệ thống chiếm tỷ lệ cao
trong khi nguồn vốn huy động hầu hết là ngắn hạn. Sự lệch kỳ hạn này chính là một
nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng thường xuyên căng thẳng thanh khoản, bên
cạnh nguyên nhân lệch cơ cấu đồng tiền. Xét theo thành phần kinh tế, dư nợ cho vay
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chiếm cao, trong đó, cho vay các tập đoàn kinh tế chiếm
5

tới trên 50%. Câu hỏi đặt ra là liệu bao nhiêu % trong số này là nợ lưu cữu năm này qua
năm khác (nợ không có khả năng thu hồi)( ố liệu báo cáo đến cuối Quý I/2012, nợ xấu
khu vực DNNN chỉ chiếm 11% tổng nợ xấu toàn hệ thống, là một con số đáng hoài nghi
khi mà khu vực này có động cơ che giấu nợ xấu lớn nhất)? Khi tiến trình tái cơ cấu
DNNN diễn ra thực sự, việc xử lý khối nợ xấu của thành phần kinh tế này sẽ là vấn đề
lớn. Còn nếu chia tín dụng theo ngành nghề/lĩnh vực kinh doanh, trong tổng số khoảng
250 nghìn tỷ đồng dư nợ cho vay bất động sản (BĐS) của các TCTD được báo cáo (chưa
tính các khoản cho vay dưới hình thức khác như đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, đáo nợ
qua ủy thác đầu tư, cho vay gián tiếp BĐS), số đầu tư vào phân khúc phát triển dự án xây
dựng và đầu cơ BĐS ước chiếm tới 90%. Trong bối cảnh thị trường BĐS tiếp tục đóng
băng, sụt giá và chưa có dấu hiệu hồi phục thì riêng nợ xấu từ khu vực này có thể chiếm
tới 60% tổng nợ xấu ngân hàng.
- Vốn điều lệ toàn hệ thống đã tăng nhanh, chủ yếu trong giai đoạn 2008 - 2011
theo quy định của Nghị định 141/2006/NĐ-CP ban hành Danh mục mức vốn pháp định
đối với các TCTD thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Vấn đề ở chỗ liệu việc tăng vốn
có thực chất? Hiện tượng “nhóm lợi ích” và “sở hữu chéo”/ “sở hữu lẫn nhau” thông qua
một “bên thứ 3” diễn ra khá phổ biến, đã làm cho quy mô vốn điều lệ cũng như tổng tài
sản toàn hệ thống bị tăng ảo. Điều nguy hiểm hơn, tình trạng sở hữu chéo vốn thường dẫn
đến hoặc luôn đi kèm với vấn đề “cho vay nhóm khách hàng liên quan” vượt xa tỷ lệ quy
định - kênh chủ yếu để dẫn vốn tín dụng đến với các dự án nhiều rủi ro (bao gồm các dự
án bất động sản, kinh doanh chứng khoán…).

- Chất lượng tài sản suy giảm nhanh nhưng mức trích lập dự phòng rủi ro
(DPRR) đạt thấp. Theo các số liệu báo cáo, số dư quỹ DPRR tín dụng đều thấp so với
tổng nợ xấu theo sổ sách. Điều này hàm ý mức độ an toàn hoạt động của hệ thống ngân
hàng sẽ bị đe dọa khi rủi ro diễn ra.
- Các tỷ lệ an toàn hoạt động theo quy định thực chất không bảo đảm. Tình trạng
cho vay quá mức dẫn đến hệ số sử dụng vốn (tỷ lệ cho vay trên huy động) của các TCTD
rất cao và vượt mức an toàn. Toàn hệ thống luôn trong trạng thái mất cân đối nghiêm
6

trọng cả về kỳ hạn lẫn đồng tiền giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Các tỷ lệ an toàn chi trả
đạt mức thấp và hệ số an toàn vốn (CAR) thực chất cũng ở mức dưới thông lệ và cả so
với yêu cầu (một số TCTD thậm chí có CAR ≤ 0 tức, xét về mặt kỹ thuật, đã mất khả
năng thanh toán/phá sản nhưng vẫn tạo vỏ bọc bên ngoài là chỉ bị khó khăn về thanh
khoản.
- Kết quả kinh doanh không thực chất; lợi nhuận ngành ngân hàng có khả năng
sẽ suy giảm nhanh trong thời gian tới. Cơ cấu thu nhập của hệ thống TCTD chỉ ra, lãi
của hầu hết các ngân hàng chủ yếu đến từ hoạt động tín dụng. Thế nhưng, trong bối cảnh
nợ xấu gia tăng và tín dụng tăng trưởng âm thì nhiều ngân hàng chắc chắn sẽ phải đối
mặt với nguy cơ thua lỗ. Đó là chưa kể, nếu thực hiện phân loại nợ và trích lập DPRR
đúng, đủ và/hoặc tuân thủ thông lệ quốc tế, đồng thời hạch toán theo chuẩn mực kế toán
quốc tế, thì hiệu quả kinh doanh của các TCTD Việt Nam còn thấp hơn nữa.
Những phân tích, đánh giá, nhận định trên đây cho thấy, hầu hết các TCTD hiện
đang hoạt động kém an toàn, kém lành mạnh hơn và nguy cơ đổ vỡ hệ thống sẽ hiện hữu
nếu bối cảnh kinh tế vĩ mô diễn biến xấu bởi sẽ làm trầm trọng thêm các yếu kém, dễ bị
tổn thương tích tụ qua nhiều năm của ngành ngân hàng. Nợ xấu ngân hàng gia tăng nhanh
thực sự là điều đáng lo ngại. Chính vì vậy, cần phải khẩn trương tiến hành tái cơ cấu hệ
thống các TCTD trong bối cảnh tái cơ cấu chung của nền kinh tế.
Có thể nói, những yếu kém hiện nay của một bộ phận các TCTD nếu không
được xử lý kịp thời có thể tác động bất lợi đến ổn định kinh tế vĩ mô và hệ thống tài
chính quốc gia. Một hệ thống ngân hàng yếu kém sẽ không thể huy động và phân bổ một

cách có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế, đồng thời ảnh hưởng tiêu cực đến
chính sách tiền tệ. Cơ cấu lại hệ thống các TCTD là yêu cầu cần thiết để lành mạnh hóa,
nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các TCTD, từ đó, góp phần ổn định kinh tế
vĩ mô, nâng cao hiệu quả đầu tư và tăng trưởng kinh tế bền vững. Nhất là, để thực hiện
mục tiêu Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 và Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, Việt Nam cần phát triển một hệ thống các
TCTD có quy mô lớn hơn, chất lượng và hiệu quả hoạt động tốt hơn. Đồng thời, trong
7

bối cảnh Việt Nam đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì hệ thống các TCTD
càng cần phải được củng cố và phát triển để có đủ khả năng tận dụng cơ hội phát triển
mới và đối phó với những biến động bất lợi của thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế.

8

CHƢƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA HIỆP ƢỚC BASEL VÀ
VIỆT NAM VỀ AN TOÀN VỐN (CAR)
1. Các quy định của hiệp ƣớc Basel về an toàn vốn (CAR)
1.1. Quá trình ra đời của hiệp ƣớc Basel
Vào những năm 1980, hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh và có những
dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Đồng thời, quy định về vốn
điều lệ của các NHTM ở các nước khác nhau, nên dẫn đến cạnh tranh không công bằng
trong cùng một thị trường, đây là điều cấm kỵ trong cô chế hội nhập. Vì vậy lãnh đạo các
nước phát triển đã ngồi lại với nhau để tìm giải pháp thích hợp vừa khuyến khích cạnh
tranh nhưng đảm bảo công bằng và an toàn cho người gửi tiền, đó là một trong những lí
do quan trọng cho sự ra đời Hiệp ước Basel. Basel la yêu cầu về an toàn vốn do các ngân
hàng thuộc các nước nhóm G10 khởi xướng và được Ủy ban Quản lí ngân hàng thuộc
ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) ban hành lần đầu tiên vào năm 1988, xuất phát từ
những cuộc khủng hoảng về tiền tệ quốc tế và thị trường ngân hàng, mà đáng quan tâm
nhất là sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở Tây Đức vào thời điểm đó. Do tính thiết thực

của nó nên cộng đồng các tổ chức tài chính, ngân hàng của hơn 100 nước khác cùng
hưởng ứng. Để phù hợp với những thay đổi lớn của thị trường, Basel đã được cải tiến và
sửa đổi lần thứ hai (Basel II) vào năm 2001 và có hiệu lực vào năm 2006. Ủy ban Basel
bao gồm Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G10 và một số nước có hệ thồng
ngân hàng lớn mạnh hàng đầu thế giới bao gồm Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Itaia, Nhật,
Luxembua, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Anh, Mỹ đã kí Hiệp ước Basel (Basel
Accord), một cơ quan gọi là Hội đồng Basel về giám sát ngân hàng quốc tế cũng đã được
chính thức thành lập để theo dõi và chỉ đạo việc thực thi Hiệp ước. Ngoài ra, hệ thống
ngân hàng của nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng đã biểu thị đồng thuận tham gia
tuân thủ Hiệp ước.
Ủy ban Basel tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng thanh toán quốc tế
(BIS) tại Washington hoặc tại Thành phố Basel (còn gọi la Basle) – Thụy Sĩ. Ban thư kí
thường trực của Ủy ban này cũng có trụ sở làm việc tại Washington DC – Mỹ.
9

Quan điểm của Ủy ban Basel là sự yếu kém trong hê thống Ngân hàng của một quốc gia
dù là phát triển hay đang phát triển, đều có thể đe dọa không chỉ đến sự ổn định về tài
chính của quốc gia đó mà còn cả trên phạm vi toàn thế giới. Ủy ban Basel thường xuyên
tổ chức các cuộc thảo luận về vấn đề xoay quanh sự hợp tác quốc tế để giảm bớt khoảng
cách trong công tác giám sát ngân hàng, nâng cao chất lượng công tác giám sát hoạt động
ngân hàng trên toàn thế giới. Để làm được điều này, Ủy ban Basel đã cố gắng tìm hiểu và
thực hiện được 3 điều cơ bản:
1.
Trao đổi thông tin về hoạt động giám sát cấp quốc gia.

2. Cải thiện hiệu quả kỹ thuật giám sát hoạt động ngân hàng quốc tế.
3. Đặt ra những tiêu chuẩn giám sát tối thiểu trong những lĩnh vực ma Ủy ban
thực sự quan tâm.
1.2. Những đặc điểm của hiệp ƣớc Basel
1.2.1. Basel I


Mục tiêu:

Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) đã xây dựng chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn
và hiệu quả trong hoạt động ngận hàng nhằm chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong
trào lưu toàn cầu hóa. Tiêu chí đầu tiên đánh giá khả năng tham gia vào thị trường vốn
quốc tế là mức độ tuân thủ chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu – đây là nội dung nền tảng của
Basel I (1988). Ngoài những ảnh hưởng của quá trình tự do hóa tài chính và sự tiến bộ
trong công nghệ ngân hàng cũng như xu hướng đa dạng hóa các sản phẩm tài chính diễn
ra rầm rộ vào những thập kỷ cuối thế kỷ 20 thì yêu cầu xây dựng một nền tảng so sánh
hiệu quả hoạt động ngân hàng và đảm bảo hạn chế rủi ro trong hệ thống thanh toán liên
ngân hàng toàn cầu là động lực dẫn đến sự ra đời của Hiệp ước Basel I và sau đó hơn 10
năm là Basel II (1999).

Nội dung:

Basel I nhấn mạnh tầm quan trọng của tỷ lệ vốn an toàn trong hoạt động ngân
hàng. Khái niệm vốn trong Basel I đã chia các nhân tố của vốn thành 2 cấp:
 Vốn cấp 1 bao gồm vốn cổ phần thường và các khoản dự trữ công khai.
10

 Vốn cấp 2 bao gồm các khoản dự trữ không công khai, giá trị tăng thêm của việc
đánh giá lại tài sản, dự phòng chung và dự phòng tổn thất tín dụng, các công cụ nợ
cho phép chuyển đổi thành cổ phiếu và các khoản nợ thứ cấp.
 Tổng vốn cấp 1 và cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của tổ chức tín dụng.
Dựa trên cách tính vốn tự có này mà Basel 1 đã đưa ra chỉ tiêu tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu (CAR).
CAR = [(Vốn tự có hay vốn cơ bản) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%

Tài sản đã điều chỉnh rủi ro (RWA) = Tổng (Tài có nội bảng x Hệ số rủi ro) + Tổng

(Tài sản ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro)
Từ ngày 1/10/2010 theo thông tư 13/TT-NHNN ngày 20/5/2010 của NHNN thì tỉ
lệ CAR này sẽ được điều chỉnh từ 8% lên 9%. Ngoài ra, hiệp ước Basel I còn xác định
các hệ số rủi ro trong các loại rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động.

Hạn chế:

Thứ nhất, việc phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản cho vay. Hệ số rủi ro
chưa chi tiết cho rủi ro theo đối tác (ví dụ như khả năng tài chính của khách hàng)
hoặc theo đặc điểm của khoản tín dụng (ví dụ như theo thời hạn). Điều này chỉ ra rằng có
thể các ngân hàng có cùng tỷ lệ an toàn vốn nhưng có thể đối mặt với các loại rủi ro khác
nhau, ở mức độ khác nhau.
Thứ hai, Basel I chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động. Các lí thuyết
về
đầu tư chỉ ra rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư. Theo Basel I, quy
định về vốn tối thiểu không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa
dạng (ít rủi ro hơn) và một ngân hàng kinh doanh tập trung (nhiều rủi ro hơn).
Thứ ba, Basel I chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập đến
các rủi ro khác như rủi ro quốc gia, rủi ro ngoại tệ, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động,
Thứ tƣ, một số quy tắc do Basel I đưa ra chỉ có thể vận dụng trong trường hợp
ngân hàng hoạt động theo kiểu ngân hàng đơn, không dựa trên một sự sáp nhập hay hoạt
động theo kiểu tập đoàn ngân hàng, ngân hàng mẹ, ngân hàng – chi nhánh,
11

Thứ năm, một số quy định trong Basel I đã không còn phù hợp khi các ngân

hàng dần dần sáp nhập với nhau để tạo thành những tập đoàn lớn có khả năng cạnh tranh
cao và có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, các ngân hàng không còn chỉ hoạt động
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà luôn vươn ra tầm quốc tế.
1.2.2. Basel II

Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996
vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I đã không đề
cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ ngày càng tăng
lên, đó là rủi ro tác nghiệp.
Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới thay
thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel (Basel II)
đã chính thức được ban hành. Với cách tiếp cận mới dựa trên 3 cột trụ chính, Basel II đã
buộc các ngân hàng quốc tế phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ bản:
 Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để
trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị
trường và rủi ro tác nghiệp (Cột trụ 1). Theo đó, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín
dụng có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị trường nhưng hoàn toàn là phiên bản
mới đối với rủi ro tác nghiệp.
 Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về
những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể
đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này (Cột trụ 2). Với cột trụ này,
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
1) Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn
của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy
trì mức vốn đó.
2) Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn
nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng giám
sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực hiện
12

một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy
trình này.
3) Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu
theo quy định.
4) Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng

không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập
tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
 Nguyên tắc thứ ba: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích
đáng theo nguyên tắc thị trường (Cột trụ 3). Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh
sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ
cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của
ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá
của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này
đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách
minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ
giảm thiểu được rủi ro.
Bảng 2.1: Trọng số rủi ro theo loại tài sản

Trọng số rủi ro
Phân loại tài sản
0%
Tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng.
Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài chính.
20%
Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mô lớn
Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan Nhà nước
50%
Các khoản vay thế chấp nhà ở,…
13

100%
Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh
nghiệp, các khoản nợ từ các nước kém phát triển, các
khoản vay thế cấp cổ phiếu, bất động sản,…


 Ƣu điểm của Basel II so với Basel I
 Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy
nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương
pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên
nguyên tắc thị trường.
 Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả
các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp
khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
 Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm
hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và
sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro.
 Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0-100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD - Organisation for Economic Co-operation and
Development). Basel II quy định từ 0-150 hoặc hơn và không có đặc quyền nào, bao
gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
 Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa
nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm
bảo, phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
 Hạn chế của Basel II
- Các quy định về vốn yêu cầu trung bình bị đánh giá là khá thấp trong khi những
ràng buộc để có cơ sở vốn chất lượng cao lại chưa được quy định chặt chẽ.
- Quy định của Basel II tạo điều kiện cho các định chế tài chính tăng cường thực
hiện các khoản đầu tư mạo hiểm.
14

- Basel II chưa đưa ra các khuôn khổ quy định về các tỷ lệ đòn bẩy liên quan đến tài
sản nội bảng và ngoại bảng.
- Các yêu cầu vốn của Basel II có tính thuận chu kì và vì thế có xu hướng tăng
cường biến động nếu có sự biến đổi bất thường trong chu kì kinh doanh.

- Việc kiểm soát và hạn chế rủi ro hệ thống vẫn còn những điểm chưa chặt chẽ.
- Basel II thiếu các quy định về thanh khoản toàn cầu.
 Basel II bị cáo buộc là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn
tại Hoa Kỳ, từ đó lan rộng thành khủng hoảng tài chính toàn cầu.
1.2.3. Basel III
Hiệp ước Basel III được phát triển để đối phó với những thiếu sót trong các qui
định về tài chính bị bộc lộ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Basel III tăng cường
yêu cầu về vốn của ngân hàng và giới thiệu các yêu cầu mới quy định về tính thanh
khoản ngân hàng và đòn bẩy ngân hàng. Tổ chức OECD ước tính rằng việc thực hiện
Basel III sẽ giảm tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 0,05%-0,15%
Để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính gần đây, Ủy ban Basel về Giám sát
Ngân hàng (BCBS) đã đưa ra các điều chỉnh trong hướng dẫn đối với các quy định về
vốn và hoạt động các ngân hàng như sau:
 Basel III trình bày các kiến nghị của Ủy ban Basel để tăng cường vốn toàn cầu và
các quy định về tính thanh khoản với mục tiêu thúc đẩy khu vực ngân hàng trở nên linh
hoạt hơn. Mục tiêu gói cải cách của Ủy ban Basel là nhằm cải thiện khả năng của
lĩnh vực ngân hàng để hấp thụ những cú sốc phát sinh từ sự căng thẳng tài chính và
kinh tế, bất kể nguồn gốc, do đó giảm nguy cơ khủng hoàng tràn từ khu vực tài chính
cho các nền kinh tế hiện tại.
 Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh
khoản để củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêu
chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ vốn nhiều hơn và chất
lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel II. Các đòn bẩy mới và tỷ
lệ tính thanh khoản giới thiệu một biện pháp phi rủi ro nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn
15

tối thiểu dựa trên rủi ro và các biện pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong
trường hợp xảy ra khủng hoảng.
 Tóm tắt các thay đổi đƣợc đề xuất trong Basel III
- Chất lượng, tính nhất quán, và tính minh bạch của nguồn vốn cơ sở sẽ được

nâng lên:
 Vốn cấp 1: Chủ yếu của vốn cấp 1 là phải bao gồm vốn cổ phần thường và lợi
nhuận giữ lại
 Các công cụ vốn cấp 2 sẽ được cân đối hài hòa
 Vốn cấp 3 sẽ được loại bỏ
- Mức vốn để bảo đảm các rủi ro phát sinh sẽ được tăng cường:
 Tăng cường các yêu cầu về vốn cho các khoản tín dụng với khách hàng phát sinh,
các nghiệp vụ bảo đảm cho các khoản vay, chứng khoán phái sinh và các giao
dịch tài chính
 Nâng cao vốn dự phòng cho các rủi ro
 Giảm các chu kỳ
 Cung cấp các ưu đãi bổ sung để di chuyển các hợp đồng phái sinh trên thị
trường tự do đến các giao dịch ngoại hối tại Ngân hàng (trung tâm thanh toán bù
trừ)
 Cung cấp ưu đãi để tăng cường quản lý rủi ro tín dụng đối ứng
- Ủy ban sẽ đưa ra một tỷ lệ đòn bẩy là một biện pháp bổ sung cho khung rủi ro
được thiết lập ở Basel II. Do đó, Ủy ban đang trình bày một yêu cầu tỷ lệ đòn bẩy
nhằm đạt được các mục tiêu sau:
 Xây dựng thêm lớp thứ hai cho đòn bẩy trong lĩnh vực Ngân hàng
 Đề xuất biện pháp bảo vệ bổ sung chống lại rủi ro mô hình và sai số đo bằng cách
bổ sung biện pháp chống rủi ro, một biện pháp đơn giản là dựa trên rủi ro tổng thể.
- Ủy ban đang đề xuất một loạt các biện pháp thúc đẩy xây dựng các vùng đệm vốn
trong thời điểm tốt và có thể được rút ra khi trong thời kỳ căng thẳng ("Giảm chu
kỳ và thúc đẩy các bộ đệm phản chu kỳ")
16

 Ủy ban cũng đề xuất hàng loạt các giải pháp để giải quyết tình trạng chu kỳ:
+ Làm Giảm bất kỳ chu kỳ vượt quá yêu cầu vốn tối thiểu;
+ Tăng cường hơn nữa các quy định hướng tới tương lai;
+ Dự trự vốn để xây dựng các vùng đệm tại các ngân hàng tư nhân và khu vực

ngân hàng để giải quyết những tình trạng căng thẳng về vốn khi cần.
 Đạt được mục tiêu rộng lớn hơn là chính sách thận trọng vĩ mô nhằm bảo vệ khu
vực ngân hàng trong thời kỳ tăng trưởng tín dụng quá mức:
+ Yêu cầu sử dụng các khoản đầu tư dài hạn để ước lương trước xác suất vỡ nợ.
+ Dư toán suy thoái do các khoản lỗ tín dụng gây nên, được đề nghị trong Basel
II, để trở thành bắt buộc.
+ Cải thiện hiệu chuẩn các chức năng rủi ro, mà chuyển đổi ước tính thiệt hại vào
vốn pháp quy theo yêu cầu.
+ Ngân hàng phải tiến hành các cuộc kiểm tra bao gồm tăng trưởng tín dụng lan
rộng trong các kịch bản suy thoái.
 Tăng mạnh mẽ hơn nữa tỷ lệ trích lập dự phòng:
Ủng hộ sự thay đổi trong các tiêu chuẩn kế toán đối với một khoản tổn thất dự
kiến (EL) phương pháp tiếp cận. Thông thường, số tiền EL = LGD* PD * EAD
Trong đó:
EL : Là khoản tổn thất dự kiến
LGD : Là khoản tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra
PD : Xác suất mặc định
EAD : Rủi ro mặc định đối với khách hàng
- Ủy ban đang triển khai một tiêu chuẩn quốc tế về tính thanh khoản tối thiểu
cho hoạt động ngân hàng quốc tế bao gồm một yêu cầu tỷ lệ thanh khoản đảm bảo
trong 30 ngày được củng cố bằng một tỷ lệ cấu trúc thanh khoản dài hạn được gọi
là Tỷ lệ dự phòng bình ổn.
Uỷ ban cũng đang xem xét lại nhu cầu vốn bổ sung, thanh khoản hoặc các biện pháp
giám sát khác để làm giảm yếu tố ngoại tác được tạo ra bởi các tổ chức quan trọng được
17

thành lập có hệ thống.
Vào tháng 9/2010, Basel III định mức yêu cầu tỷ lệ là: 7-9,5% (4,5% 2,5% (bảo tồn vùng
đệm) + 0-2,5% (theo thời kỳ đệm) cho cổ phần phổ thông và 8,5-11% cho Vốn cấp 1 và
10,5-13 cho tổng số vốn.

Bảng 2.2: So sánh Basel II và Basel III
Chỉ tiêu
BASEL II
BASEL III
Tỷ lệ vốn cấp 1
4%

Tỷ lệ vốn cốt lõi
trong vốn cấp 1
2%
4.5%
CAR
CAR >= 8%
CAR >= 8%
Mức vốn tốt: CAR >= 10%
Mức vốn thích hợp: CAR > 8%
Thiếu vốn: CAR < 8%
Thiếu vốn rõ rệt: CAR < 6%
Thiếu vốn trầm trọng: CAR < 2%
Vốn bảo tồn vùng
đệm
Không có
= 2.5%
Bảo tồn trước năm 2006 = 0%
01/01/2006 = 0.625% 01/01/2007 = 1.25%
01/01/2008 = 1.1875% 01/01/2009 = 2.5%
Mục đích của bộ đệm bảo tồn vốn là để giúp hấp
thụ các thiệt hại trong giai đoạn căng thẳng tài
chính và kinh tế toàn cầu.
18


Vốn đệm ngược
chu kỳ
Không có
= 2.5%
Vốn đệm ngược chu kỳ trước năm 2006 = 0%
01/01/2006 = 0.625% 01/01/2007 = 1.25%
01/01/2008 = 1.1875% 01/01/2009 = 2.5%
Mục đích của bộ đệm vốn ngược chu kỳ là để
đảm bảo rằng các NH có đủ khả năng tài chính
đối đầu với các sự kiện ngược chu kỳ kinh tế.
Vốn cho các NH
quan trọng trong
hệ thống
Không có


2. Các quy định của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam về an toàn vốn
Thông tư 13/2010/TT-NHNN (Gọi tắt là Thông tư 13) quy định về các tỷ lệ đảm
bảo an toàn trong hoạt động của TCTD được ban hành ngày 20/05/2010, có hiệu lực từ
ngày 01/10/2010. Thông tư gồm 22 điều, đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến mức độ
an toàn của các TCTD. Sau đó, vào ngày 27/9/2010, Thông tư số 19/2010/TT-NHNN đã
sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13. Tiếp đó, ngày 30/8/2011, Thông tư số
22/2011/TT-NHNN đã hủy bỏ tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động quy định tại
Thông tư 13, được sửa đổi bổ sung tại Thông tư 19. Thông tư 22, cũng điều chỉnh hệ số
rủi ro đối với một số tài sản có bằng ngoại tệ khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Về cơ bản, Thông tư 13 và các thông tư sửa đổi có liên quan được các chuyên gia
kinh tế đánh giá là một bước chuyển biến tích cực trong quá trình phát triển hệ thống tài
chính Việt Nam. Mặt khác, quá trình thực hiện các thông tư trên đã có sự phản hồi từ
nhiều phía xuất phát từ những bất cập.

2.1. Những tiến bộ so với Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN
19

Thứ nhất, quy định về đối tượng và phạm vi áp dụng Thông tư. Quyết định 457
quy định quý tín dụng nhân dân cơ sở không chịu sự điều chỉnh của thông tư, thì Thông
tư 13 bổ sung thêm Ngân hàng Chính sách Xã hội và Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Thứ hai, Thông tư bổ sung thêm tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động tại
Điều 18, mục 5 ở mức 80% (đối với ngân hàng) và 85% đối với TCTD phi ngân hàng và
quy định về nguồn vốn huy động tại điểm này đã có sự thu hẹp lại khá lớn so với nguồn
vốn huy động của các TCTD. Sau đó, NHNN đã hủy bỏ quy định trên bởi Thông tư
22/2011/TT-NHNN.
Thứ ba, quy định về việc tăng cường sự quản lý của NHNN đối với các quyết
định sửa đổi bổ sung quy định nội bộ về tiêu chí xác định một khách hàng, nhóm khách
hàng có liên quan, các giới hạn tín dụng áp dụng với một khách hàng hoặc nhóm khách
hàng có liên quan, cũng như yêu cầu các TCTD phải có kế hoạch quản trị rủi ro tín dụng
của mình.
Thứ tƣ, Thông tư đã bổ sung tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất tại Ðiều 6 bên cạnh tỷ lệ
an toàn vốn riêng lẻ, đồng thời tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu từ mức 8% lên 9%. Ngoài
ra, cách tính vốn tự có cấp 1 và 2 cũng như cách tính tổng tài sản có rủi ro đã được thay
đổi, nhất là hệ số rủi ro của các tài sản.
Thứ năm, Thông tư đã thể hiện rõ quan điểm của NHNN về việc tăng cường quản
lý các hoạt động kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản, hoạt động đầu tư
vào các công ty trực thuộc của các TCTD tại các Ðiều 5, 6, 7 và 8.
Thứ sáu, Thông tư đã đưa ra một số quy định mới về phương thức quản lý thanh
khoản và tỷ lệ khả năng chi trả của các TCTD tại mục 3, trong đó có việc xây dựng mô
hình đánh giá và thử nghiệm khả năng chi trả, thanh khoản của các TCTD.
2.2. Những điểm tích cực trong Thông tƣ 13 và các thông tƣ sửa đổi liên quan
Thứ nhất, quy định về đối tượng và phạm vi áp dụng thông tư không bao gồm
Ngân hàng Chính sách Xã hội và Ngân hàng Phát triển Việt Nam là quy định hợp lý bởi
20


lẽ, cùng với Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng
Phát triển Việt Nam là các tổ chức trung gian hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.
Thứ hai, quy định về tỷ lệ tối đa nguồn vốn huy động được cấp tín dụng tại Ðiều
18, tuy vẫn có những tranh cãi và điểm không rõ ràng khi tính toán và quy định tỷ lệ này,
nhưng đây là một trong những giới hạn được NHNN đặt ra nhằm tránh việc các TCTD
rơi vào tình trạng mất thanh khoản khi sử dụng vốn quá mức, nhất là việc sử dụng các
nguồn vốn ngắn hạn và không ổn định (vốn trên thị trường cấp II) để cho vay hay đầu tư
dài hạn.
Thứ ba, Thông tư 13 đã giới hạn khá chặt chẽ việc tham gia vào các hoạt động
kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản của các NHTM, nhằm tách biệt rõ
hoạt động của một ngân hàng đơn năng và đa năng, đồng thời hạn chế việc các ngân hàng
tham gia vào các hoạt động mang tính rủi ro cao trong khi khả năng quản trị rủi ro của
nhiều TCTD Việt Nam đang ở mức thấp.
Thứ tƣ, về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, Ðiều 4 của Thông tư 13 nêu rõ, nâng tỷ lệ
an toàn vốn từ 8% lên 9% cùng với quy định về vốn pháp định tối thiểu theo Nghị định
141/2006/NÐ-CP (3.000 tỷ đồng) là cơ sở hết sức quan trọng để nâng cao tiềm lực tài
chính của các ngân hàng.
Tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ =
Vốn tự có
Tổng tài sản "Có" rủi ro

Cũng theo Ðiều 4 Thông tư 13, các TCTD phải thực hiện báo cáo tài chính hợp
nhất theo quy định của pháp luật, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ theo quy
định nói trên, phải đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp nhất
vốn, tài sản của TCTD và công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất).
Tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất =
Vốn tự có hợp nh ất
Tổng tài sản "Có" rủi ro hợp nhất


21

Ðây là qui định mới so với các văn bản trước đây, trong khi ngày càng nhiều các
NHTM hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, thì việc điều chỉnh này là hoàn
toàn phù hợp với xu hướng phát triển và nhằm tiến thêm một bước trong việc tuân thủ 25
nguyên tắc thanh tra cơ bản của Uỷ ban Basel.
Thứ năm, trong khoảng thời gian từ năm 2008 trở lại đây, tình hình thanh khoản
của các TCTD có nhiều bất cấp do khả năng quản lý thanh khoản của các TCTD còn kém
cũng như do sự biến động bất lợi của nền kinh tế, Thông tư 13 đã đưa ra một số quy định
được nhận định là mới và sát với quy định của các nước trên thế giới, nhằm tăng cường
khả năng thanh khoản và quản lý khả năng thanh khoản của từng TCTD nói riêng và cả
hệ thống nói chung.
2.3. Một vài bất cập
Thứ nhất, việc đáp ứng được tỷ lệ an toàn theo cách tính của Thông tư 13, vốn
vẫn dựa theo nội dung của Basel 1, chưa chắc đã cải thiện được mức độ an toàn trong cơ
cấu tổ chức hay quản trị của TCTD. Cách tính CAR theo Basel 2 đã cộng cả rủi ro thị
trường và rủi ro tác nghiệp vào mẫu số của công thức:
CAR =
Vốn cấp 1+Vốn cấp 2
Tài sản có rủi ro +Rủi ro th ị tr ường+Rủi ro tác nghi ệp
≥ 8%
Trong khi đó, theo qui định tại Thông tư 13, mẫu số mới chỉ bao gồm Tài sản Có
rủi ro, nghĩa là chỉ tính đến duy nhất rủi ro tín dụng, chưa phản ánh chính xác mức độ rủi
ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong khi cả thế giới đang bắt đầu thực
hiện theo lộ trình những tiêu chuẩn mới của Basel 3 thì Việt Nam vẫn đang còn cách rất
xa việc áp dụng các tiêu chuẩn của Basel 2, đây là một điều rất đáng lo. Bên cạnh đó, trên
thực tế hiện nay ở các nước, hệ số CAR của các ngân hàng thường ở vào mức 12%, nên
việc quy định hệ số CAR ở nước ta trên 9% cũng chưa hẳn mang lại một mức an toàn cho
các NHTM.
22


Thứ hai, một hệ thống tài chính an toàn yêu cầu các ngân hàng có hệ số an toàn
vốn tối thiểu (CAR- capital adequacy ratio) đạt mức yêu cầu. Hệ số này phụ thuộc vào
hai yếu tố, vốn tự có và tổng tài sản có rủi ro. Việc NHNN yêu cầu các ngân hàng tăng
vốn điều lệ lên tối thiểu lên 3.000 tỉ đồng và tăng CAR lên 9% có thể coi là một vế của kế
hoạch tăng hệ số an toàn vốn cho toàn hệ thống, nhưng chỉ yêu cầu tăng vốn điều lệ và
CAR tối thiểu là không đủ, thậm chí có thể còn làm phát sinh thêm những rủi ro. Nếu
ngân hàng tăng vốn điều lệ, đồng thời tổng tài sản có rủi ro tăng lên theo thì hệ số an toàn
vốn có thể không tăng. Ðây là khả năng rất dễ xảy ra vì một ngân hàng khi thuyết phục
các cổ đông thông qua kế hoạch tăng vốn điều lệ và thực sự bỏ tiền để tăng vốn, họ
không thể nói tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng này sẽ giảm, vì như
thế, việc phát hành cổ phiếu của ngân hàng rất có thể bị thất bại. Ðể ROE không giảm
trong khi hệ số an toàn vốn tăng, ngân hàng buộc phải tăng tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài
sản- một điều không dễ trong hoàn cảnh hoạt động ngân hàng ở Việt Nam còn rất khó
khăn như hiện nay. Ðể thu hút nhà đầu tư, các ngân hàng sẽ phải tăng hệ số đòn bẩy tài
chính bằng cách mở rộng đầu tư, tín dụng…, qua đó làm giảm bớt hệ số an toàn vốn.
Ðiều này có nghĩa là tăng vốn điều lệ chỉ có tác dụng làm tăng hệ số CAR trong ngắn
hạn, còn trong dài hạn, hệ số này sẽ không thể duy trì ở mức cao. Khi các ngân hàng
không đáp ứng đủ điều kiện về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, chúng buộc phải tiếp tục tăng
thêm vốn hoặc sáp nhập với một ngân hàng khác. Việc tăng vốn trong bối cảnh thị trường
chứng khoán suy giảm trong một thời gian dài và đang phục hồi từ đầu năm 2012 không
hẳn là điều dễ dàng. Còn nếu sáp nhập, về mặt số học, đây là giải pháp sai lầm vì hai
ngân hàng có hệ số an toàn vốn thấp sau khi sáp nhập, hệ số này không thể tăng dù vốn
điều lệ tăng. Ngoài ra, việc tăng vốn nhằm nâng cao CAR, nếu thành công, khiến cho
tổng tài sản phải tăng lên để đáp ứng mức sinh lời kì vọng, sẽ dẫn tới các ngân hàng
không đủ khả năng quản lý, dẫn tới những rủi ro hoạt động sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt
động của họ.
Về việc tính vốn tự có, tại Ðiều 5 Thông tư 13 qui định, vốn cấp 1 bao gồm lợi
nhuận không chia được quy định tại Ðiều 2, nhưng không nhắc đến phần lợi nhuận không

×