Tải bản đầy đủ (.docx) (219 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ hội thoại của quân đội nhân dân việt nam trong một số tình huống giao tiếp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.48 KB, 219 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ DUNG

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ HỘI THOẠI
TRONG MỘT SỐ HOÀN CẢNH GIAO TIẾP
CỦAQUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ DUNG

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ HỘI THOẠI
TRONGMỘT SỐ HOÀN CẢNH GIAO TIẾP
CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9 22 90 20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TSKH. LÝ TOÀN THẮNG
2. PGS.TS. NGUYỄN TRỌNG KHÁNH




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác. Nội dung luận án có tham khảo và sử dụng ngữ
liệu được trích dẫn từ các tác phẩm và nguồn tư liệu đăng tải trên các trang thông
tin điện tử theo Danh mục tài liệu tham khảo của luận án.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Dung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT.................................................................................................................. 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu...................................................................... 7
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu hội thoại ở nước ngồi..............................7
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu hội thoại ở trong nước..............................9
1.1.3. Tình hình nghiên cứu ngơn ngữ trong môi trường quân đội...................12

1.2. Cơ sở lý thuyết................................................................................................ 16
1.2.1. Khái niệm giao tiếp............................................................................... 17

1.2.2. Lý thuyết hành vi ngôn ngữ................................................................... 21
1.2.3. Lý thuyết hội thoại................................................................................. 28
1.2.4. Lịch sự và vấn đề nghiên cứu lịch sự giao tiếp của quân đội.................39

Chương 2: NGÔN NGỮ HỘI THOẠI TRONG GIAO TIẾP QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM.......................................................................................45
2.1. Dẫn nhập......................................................................................................... 45
2.2. Tương tác hội thoại giao tiếp quân đội.......................................................... 46
2.2.1. Quyền được nói, lượt lời và hệ thống điều hành cục bộ........................46
2.2.2. Chỗ ngừng, hiện tượng gối đầu và kênh phản hồi.................................50
2.3. Lượt lời và tham thoại giao tiếp quân đội..................................................... 57
2.4. Hành vi ngôn ngữ trong tham thoại giao tiếp quân đội............................... 70
2.4.1. Hành vi chào – chào.............................................................................. 71
2.4.2. Hành vi hỏi – trả lời.............................................................................. 73
2.4.3. Hành vi mệnh lệnh – thực hiện mệnh lệnh............................................ 77
2.4.4. Hành vi trần thuật – trần thuật............................................................... 79
Chương 3: CẶP THOẠI TRONG GIAO TIẾP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM.............................................................................................................84
3.1. Dẫn nhập......................................................................................................... 84
3.2. Cặp thoại giao tiếp quân đội.......................................................................... 86
3.2.1. Cặp thoại thi vấn đáp tốt nghiệp............................................................ 86


3.2.2. Cặp thoại khám chữa bệnh.................................................................... 91
3.2.3. Cặp thoại giao dịch ngân hàng.............................................................. 97
3.3. Vận động hội thoại trong giao tiếp quân đội............................................... 102
3.3.1. Sự trao lời............................................................................................ 102
3.3.2. Sự trao đáp.......................................................................................... 104
3.3.3. Sự tương tác........................................................................................ 110
Chương 4: LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT

NAM..................................................................................................................... 119
4.1. Lịch sự trong giao tiếp quân đội.................................................................. 119
4.2. Các nhân tố chi phối chiến lược lịch sự....................................................... 121
4.2.1. Khoảng cách xã hội (D)....................................................................... 124
4.2.2. Mức độ áp đặt (R).............................................................................. 125

4.3. Các phương tiện hỗ trợ hành vi ngôn ngữ giao tiếp quân đội...................127
4.3.1. Hành vi ngôn ngữ hỏi.......................................................................... 127
4.3.2. Hành vi ngôn ngữ bày tỏ...................................................................... 128
4.3.3. Hành vi ngôn ngữ hứa hẹn.................................................................. 129
4.3.4. Hành vi ngôn ngữ cảm thán................................................................. 129
4.3.5. Hành vi ngôn ngữ xin lỗi..................................................................... 130
4.3.6. Dấu hiệu từ vựng – tình thái trong giao tiếp........................................ 130
4.3.7. Từ ngữ xưng hơ................................................................................... 131

4.4. Lịch sự trong hành vi hồi đáp...................................................................... 132
4.4.1. Cơ sở xác định tính chất lịch sự trong hành vi hồi đáp........................ 132
4.4.2. Một số chiến lược lịch sự trong hành vi hồi đáp................................. 135

KẾT LUẬN.......................................................................................................... 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.......................................................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 152
PHỤ LỤC............................................................................................................. 160


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Viết đầy đủ


BN

bệnh nhân

BS

bác sĩ

CMND

chứng minh nhân dân

GV

giảng viên

HV

học viên

CH

chủ hướng

PT

phụ thuộc

KH


khách hàng

NV

nhân viên


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Lượt lời và tham thoại giao tiếp quân đội.......................................70
Bảng 2.2. Phân loại hành vi ngôn ngữ.............................................................81
Bảng 3.1.Cấu trúc cặp thoại thi vấn đáp tốt nghiệp.........................................90
Bảng 3.2. Cấu trúc cặp thoại khám chữa bệnh................................................95
Bảng 3.3. Cấu trúc cặp thoại giao dịch ngân hàng........................................100
Bảng 3.4. Tín hiệu điều hành vận động trao - đáp giao tiếp quân đội...........116
Bảng 4.1. Cặp xưng hô trong tham thoại giao dịch ngân hàng.....................142


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Dưới ánh sáng của Ngữ dụng học, đặc biệt của lý thuyết Hội thoại,
cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp được đặc biệt chú ý, ở nhiều khía cạnh
khác nhau. Khi tham gia giao tiếp, các vai giao tiếp phải nói năng sao cho phu
hợp với chuẩn mực xã hội, đảm bảo tính lịch sự trong giao tiếp, đồng thời
phải phu hợp với chiến lược giao tiếp đã đặt ra. Hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ là sự tiếp xúc giữa con người (nhóm người) với con người (nhóm
người), trong đó diễn ra sự trao đổi thông tin (hiểu rộng), đồng thời thể hiện
thái độ, cách đánh giá, cách ứng xử của các nhân vật giao tiếp đối với nội
dung giao tiếp và ứng xử giữa các nhân vật giao tiếp với nhau. Đặc biệt đối
với người Việt, do ảnh hưởng của các yếu tố lịch sử, văn hóa, xã hội, nên

cách sử dụng các đơn vị ngôn ngữ trong hội thoại khá đa dạng, linh hoạt và có
nhiều nét khác biệt tinh tế so với những ngơn ngữ khác.
Tìm hiểu hội thoại của giao tiếp xã hội ở những hoàn cảnh khác nhau
trong đó có giao tiếp trong Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể góp phần chỉ ra
đặc điểm ngơn ngữ của một cộng đồng hay một nhóm xã hội.
1.2. Ngơn ngữ hội thoại trong một số hồn cảnh giao tiếp của Quân đội
Nhân dân Việt Nam ( gọi tắt là giao tiếp quân đội ) hết sức linh hoạt. Hoạt
động giao tiếp quy thức ở ngữ cảnh hỏi thi tốt nghiệp tại Trường Sĩ quan Lục
quân 1, là đơn vị qn đội chính quy, ngồi tính khn mẫu (theo quy định
điều lệnh), hội thoại mang đặc điểm ngơn ngữ hành chính qn sự thì chúng
cũng có cấu trúc, chức năng như hoạt động giao tiếp thông thường. Ở các
thoại trường giao tiếp khác như: giao tiếp giữa bác sĩ với bệnh nhân khám
chữa bệnh tại Bệnh viện108, giao tiếp giữa nhân viên với khách hàng trong
giao dịch ở một số chi nhánh Ngân hàng Quân đội Hà Nội, …lại là những
kiểu loại giao tiếp chứa đựng nhiều nét khác biệt: Đó là ngơn ngữ nói năng
trong giao tiếp khơng hồn tồn theo khn mẫu quy định của điều lệnh mà
ngôn ngữ giao tiếp mang đặc điểm: Khoa học y học; chuyên ngành tài chính
ngân hàng; hành chính cơng vụ, thậm chí phảng phất bóng dáng ngơn ngữ
sinh hoạt đời thường.
1


Xét dưới góc độ Ngữ dụng học, những cuộc hội thoại giao tiếp quân đội,
du ở thoại trường giao tiếp nào, vẫn mang những đặc điểm chung của hoạt động
giao tiếp thông thường, vẫn chịu sự tác động của các quy tắc hội thoại, các nhân
vật giao tiếp vẫn phải theo những chiến lược nhất định.
1.3. Trong ngôn ngữ học, nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại là mảng đề tài
vô cung phong phú, từ trước đến nay được nhiều tác giả ngơn ngữ học nước
ngồi và trong nước đề cập tới. Trong thời gian qua có một số tác giả đã vận
dụng lý thuyết Ngữ dụng học vào việc nghiên cứu ngôn ngữ trong các hoạt

động giao tiếp khác nhau. Tuy nhiên, các cơng trình đi sâu nghiên cứu ngơn
ngữ hội thoại bằng tiếng Việt trong giao tiếp ở quân đội hầu như chưa có.
Hiện nay nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra yêu cầu đối
với đội ngũ cán bộ, nhân viên Quân đội Nhân dân Việt Nam phải có phẩm chất,
năng lực tồn diện. Trong đó việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp đạt hiệu quả cao
trong học tập và công tác, đã được các cơ quan, đơn vị trong quân đội đặc biệt
quan tâm, coi là một mục tiêu cần hướng tới. Việc tìm hiểu phân tích đặc điểm
hội thoại giao tiếp qn đội nhằm mục đích gián tiếp giúp cán bộ, nhân viên, học
viên trong môi trường này vận dụng ngôn ngữ vào thực tiễn giao tiếp đạt hiệu
quả cao, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Đặc điểm ngôn ngữ hội
thoại trong một số hoàn cảnh giao tiếp của Quân đội Nhân dân Việt Nam”
làm hướng nghiên cứu trong luận án này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án hướng đến mục đích là chỉ ra những đặc điểm ngôn ngữ hội
thoại trong một số hoàn cảnh giao tiếp của quân đội ( Cụ thể hội thoại thi vấn
đáp tốt nghiệp tại Trường Sĩ quan Lục quân 1Thị xã Sơn Tây;Hội thoại khám
chữa bệnh tại Bệnh viện 108 Quận Hai Bà Trưng; Hội thoại giao dịch tại một
số chi nhánh Ngân hàng Quân đội, các thoại trường Luận án lựa chọn khảo
sát thuộc Thành phố Hà Nội) dưới ánh sáng Ngữ dụng học, nhằm góp phần
chuẩn hóa ngơn ngữ và nâng cao hiệu quả giao tiếp trong học tập, huấn luyện,
công tác của Quân đội Nhân dân Việt Nam.


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những nghiên cứu trước đây có liên quan đến đề tài,
những vấn đề lý luận được chọn làm cơ sở cho định hướng nghiên cứu đề tài.
- Thu thập, xử lý ngữ liệu, cụ thể các cuộc thoại ghi chép, ghi âm trong
ba hồn cảnh giao tiếp nói trên của Qn đội Nhân dân Việt Nam để thống kê

phân loại theo các tiêu chí xác định.
- Phân tích, miêu tả các đơn vị hội thoại trong giao tiếp. Chỉ ra chức
năng của các hành vi ngơn ngữ thường dung và tính tương tác của chúng
trong hội thoại giao tiếp quân đội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc điểm ngôn ngữ hội thoại trong
giao tiếp ở các đơn vị thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam, cụ thể là: 50 cuộc
thoại giao tiếp giữa giảng viên với học viên trong thi vấn đáp tốt nghiệp tại
Trường Sĩ quan Lục quân 1; 50 cuộc thoại giao tiếp giữa bác sĩ với bệnh nhân
trong khám chữa bệnh tại Bệnh viện Quân đội 108; 50 cuộc thoại giao tiếp giữa
nhân viên với khách hàng trong giao dịch tại một số chi nhánh của Ngân hàng
Quân đội Hà Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Ngôn ngữ hội thoại trong giao tiếp ở các cơ sở thuộc Quân đội Nhân
Việt Nam rất đa dạng, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Luận án chỉ chọn
một số trường hợp nghiên cứu: 1/ Các cuộc thoại trong thi vấn đáp tốt nghiệp
địa điểm thao trường, giảng đường của Trường Sĩ quan Lục quân 1, thị xã
Sơn Tây; 2/ Các cuộc thoại trong khám chữa bệnh tại một số phòng khám của
Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 ( gọi tắt là Bệnh viện 108) quận Hai Bà
Trưng; 3/ Các cuộc thoại giao dịch tại một số chi nhánh (phòng giao dịch) của
Ngân hàng Quân đội. các thoại trường giao tiếp trên nằm trong phạm vi hành
chính Thành phố Hà Nội.
Ba thoại trường giao tiếp Luận án lựa chọn thuộc các lĩnh vực cơ bản của
đời sống xã hội nói chung và quân đội nói riêng. Đối tượng chúng tôi khảo sát là
các thoại nhân thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam đang thực hiện


nhiệm vụ. Cụ thể: Giao tiếp giữa giảng viên với học viên trong thi vấn đáp tốt
nghiệp tại Trường Sĩ quan Lục quân 1, trong lúc các thoại nhân giao tiếp với tư

cách quân nhân; Giao tiếp giữa bác sĩ với bệnh nhân tại Bệnh viện 108, trong lúc
các thoại nhân có thể giao tiếp với tư cách quân nhân hoặc có thể khơng phải
qn nhân; Giao tiếp giữa nhân viên ngân hàng với khách hàng tại một số chi
nhánh giao dịch của Ngân hàng Quân đội Hà Nội, trong lúc các thoại nhân giao
tiếp không phải với tư cách quân nhân.
Trong hội thoại ở các thoại trường trên, ngôn ngữ của những thoại nhân
không phải cán bộ, nhân viên quân đội cũng được ghi nhận. Đó là nhân tố
giúp cho sự tương tác hội thoại trong những hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.
Thời gian nghiên cứu: Nguồn dữ liệu sơ cấp được tác giả thu thập trong
khoảng thời gian 2015 đến 2018. Xử lý và bổ sung ngữ liệu từ tháng 12/2015
đến tháng 9/2019.
- Ngôn ngữ hội thoại giao tiếp ở các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội rất
đa dạng, xét về các phương diện của Ngữ dụng học. Tuy nhiên Luận án chỉ
chọn khía cạnh nghiên cứu liên quan đến lý thuyết Hội thoại, cụ thể: Các đơn
vị tham gia cấu tạo cuộc thoại: cặp thoại, ( lượt lời ) tham thoại; hành vi ngôn
ngữ thường gặp; Nguyên tắc lịch sự giao tiếp tại ba thoại trường giao tiếp nói
trên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án này được thực hiện với các phương pháp và thủ pháp sau:
4.1. Phương pháp phân tích diễn ngơn
Phương pháp này nhằm mục đích phân tích các cuộc thoại giao tiếp đặt
trong mối quan hệ với ngữ cảnh và các yếu tố khác như quan hệ tương tác, quan
hệ liên nhân.
Luận án cũng sử dụng phương pháp này để chỉ ra đặc điểm về cấu trúc,
đặc điểm lời thoại của các thoại nhân, qua hình thức của các lời thoại tương tác,
đặc điểm của cặp thoại, tham thoại,…ảnh hưởng đến q trình sử dụng ngơn ngữ
của các thoại nhân khi tham gia hội thoại trong một số hoàn cảnh giao tiếp quân
đội.



4.2. Phương pháp điều tra ngôn ngữ học xã hội
Phương pháp này được vận dụng khi khảo sát thực tế thu thập ngữ liệu
làm cơ sở dữ liệu cho luận án, gồm: ghi chép, ghi âm, chụp ảnh.
4.3. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được vận dụng khi phân tích và tổng hợp để xác định
đặc điểm lời thoại từng kiểu đơn vị hội thoại, qua đó xác định đặc điểm, vai trò,
cấu trúc, chức năng của chúng trong hội thoại.
Trong luận án, thủ pháp thống kê được dung để chỉ ra quy luật xuất hiện
của các đơn vị tham gia cấu tạo nên các cuộc thoại: cặp thoại, (lượt lời) tham
thoại, đặc biệt là tham thoại dẫn nhập, tham thoại hồi đáp, các hành vi chủ
hướng, hành vi phụ thuộc, hỏi trực tiếp, hỏi gián tiếp,…
5. Đóng góp về khoa học của luận án
Quân đội Nhân dân Việt Nam đến nay đã kinh qua hơn 70 năm xây dựng,
chiến đấu và trưởng thành dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Nói đến Quân đội Nhân
dân Việt Nam, người ta nghĩ ngay đến các vị tướng lĩnh tài ba, đến những chiến
cơng hiển hách, đến hình ảnh “Anh bộ đội Cụ Hồ”,…Vì vậy các đề tài nghiên
cứu về lịch sử quân sự Việt Nam hay các lĩnh vực khác của quân đội rất đa dạng
và phong phú. Từ đó, có thể rút ra những bài học bổ ích cho “Nghệ thuật chiến
tranh nhân dân”.Trong khi đó với ngành Việt ngữ học, ngôn ngữ hội thoại giao
tiếp ở các đơn vị thuộc quân đội vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống
trên tinh thần của lý thuyết Hội thoại. Kết quả nghiên cứu của Luận án chỉ ra
những đặc trưng cơ bản, xác định được các mơ hình cuộc thoại trong ba hoàn
cảnh giao tiếp của quân đội mà Luận án lựa chọn ở trên. Đồng thời, Luận án hệ
thống hóa chiến lược giao tiếp mà các thoại nhân thường sử dụng, để xây dựng
chiến lược giao tiếp đạt:“sự thông minh, sáng tạo của nghệ thuật ứng xử trong
giao tiếp quân đội”, hướng đến sự chuẩn mực cho các thế hệ sau kế thừa phát
triển trong quá trình học tập và công tác giúp cho hoạt động giao tiếp ở môi
trường quân đội luôn đạt hiệu quả cao, đảm bảo nguyên tắc lịch sự trong giao
tiếp.



6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả của Luận án có thể góp phần làm sinh động, phong phú hơn
cho Ngữ dụng học, đặc biệt của lý thuyết Hội thoại, làm rõ hơn một số nội dung
của ngôn ngữ hội thoại qua nghiên cứu trường hợp giao tiếp ở các cơ quan đơn
vị do quân đội quản lý.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của Luận án có tác dụng tích cực hướng đến tính
chuẩn mực về giao tiếp trong quân đội. Các kết quả nghiên cứu đạt được có thể
làm tư liệu tham khảo phục vụ cho các chuyên đề bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp,
trong giáo dục, huấn luyện và công tác của cán bộ, nhân viên Quân đội Nhân dân
Việt Nam.
Chúng tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu bước đầu của Luận án còn là
tài liệu học tập, tham khảo hữu ích cho đồng nghiệp, học viên ở mơi trường qn
đội nói chung và các lĩnh vực giáo dục, ngân hàng, y tế trong quân đội nói riêng.
7. Cơ cấu của luận án
Ngồi phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của Luận án gồm
bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
Chương 2: Ngôn ngữ hội thoại trong giao tiếp Quân đội
Nhân dân Việt Nam
Chương 3: Cặp thoại trong giao tiếp Quân đội Nhân dân Việt Nam
Chương 4: Lịch sự trong giao tiếp Quân đội Nhân dân Việt Nam


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu hội thoại ở nước ngồi


Cụm từ phân tích hội thoại xuất hiện sớm nhất trong tác phẩm của hai tác
giả nghiên cứu người Mĩ là Eving Gossman và Harold Gasinkel [102.tr. 403],
trong đó nền tảng của lý thuyết hội thoại là những tư tưởng của bộ môn phương
pháp luận dân tộc học (ethnomethodology) trong nghiên cứu hội thoại và quan
điểm về trật tự tương tác của E.Gossman. Quan điểm của hai nhà nghiên cứu trên
cho thấy các thành viên trong xã hội xây dựng và nhận biết sự vật, sự việc, hành
động cũng như thấu hiểu nhau cần phải dựa vào các yếu tố như phong tục, tập
quán, tâm lý,… [102.tr.02]. Đồng thời hai tác giả chú trọng nghiên cứu các
hành vi ngôn ngữ thường ngày mà theo họ chúng bị lãng quên, đặc biệt là nghiên
cứu các trường hợp tương tác xã hội, thông qua sự phát triển phân tích hội thoại
bằng các thiết lập mối quan hệ nhằm khảo sát trật tự trong cuộc sống.
Những năm 70 của thế kỉ XX, nhờ cơng trình của Harvey Sackd và một số
cộng sự của ông là Emmamueal A. Schegloff, Gail Jefferson, phân tích hội thoại
tách ra khỏi ngành dân tộc học trở thành lĩnh vực riêng biệt với mục đích
nghiên cứu cấu trúc hoạt động của giao tiếp mà trước đây nó bị ảnh hưởng bởi
một số ngành khoa học liên nhân (Lerner, 2004).
Phân tích hội thoại được rút ra từ nghiên cứu dân tộc học, quan tâm đến
trật tự tạo ra như thế nào trong tương tác xã hội, với phương pháp thực nghiệm
dựa trên phân tích vi mơ (Claymau và Maynard,1995).
Kế thừa thành tựu nghiên cứu về hội thoại của các bậc tiền bối, sau này,
các vấn đề ngôn ngữ hội thoại, ngôn ngữ lời nói được nhiều nhà ngơn ngữ học
quan tâm nghiên cứu như: N.Chomsky, J.Austin, J.Filmore, H.P.Grice, S.C. Dik,
C.K.Orechioni…Trong đó tác giả H.P.Grice là người có những đóng góp


quan trọng cho việc nghiên cứu lý thuyết hội thoại.Trong cuốn “Logic and
Conversation”, ông đã nghiên cứu để đưa ra nguyên lý cộng tác hội thoại, tương
tác hội thoại, logic với hội thoại cũng như việc phân chia các phương diện liên
kết hội thoại. G.Yule (1986) đề cấp đến vấn đề cộng tác và hàm ý hội thoại,

các đặc tính của hàm ý hội thoại trong mối quan hệ tương tác, hội thoại và cấu
trúc ưa chuộng [96. tr 35].
Đối thoại trong sự hình thành có quy định, chun nghiệp cũng được
nghiên cứu bằng cách mơ tả nó hạn chế hoặc sửa đổi như thế nào so với tương
tác hội thoại (Drew và Heritage, 1992). Các nghiên cứu trong lĩnh vực này
thường tìm hiểu thể loại hoặc các loại hoạt động trong một lĩnh vực cụ thể, ví dụ,
đối thoại (Atkinson và Drew, 1979), các cuộc gọi khẩn cấp (Whalen và
Zimmermann,1990), các cuộc họp (Boden,1994), cách nói tin tốt và xấu trong
bối cảnh lâm sàng (Maynard, 2003) và tin đồn (Bergmann, 1993).
Charles Goodwin nghiên cứu các đặc điểm tổ chức hành vi trong đối thoại
tương tác – không chỉ là vai trị của ánh mắt, cử chỉ và vị trí cơ thể, mà cịn sử
dụng các cơng cụ và đặc điểm hình thành khác (Goodwin, 2000; xem thêm các
nghiên cứu tại nơi làm việc ở Heath và Luff, 2000). Goodwin (2003) đưa ra tập
hợp các nghiên cứu phân tích hội thoại về cách mà con người sử dụng ngôn ngữ
trong các tình huống giao tiếp thơng thường (xem Institional talk; Family speak;
Computers in Lexicography).
Hơn nữa về lý thuyết phương pháp phân tích và phương pháp luận cơ bản
của lý thuyết hội thoại về sau được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
nghiên cứu khác nhau như: nghiên cứu lĩnh vực tương tác ngữ pháp, nghiên cứu
mối quan hệ giữa cấu trúc ngôn ngữ, tập quán ngôn ngữ, các tổ chức lượt lời và
các trình tự trong sự tương tác hội thoại. ( Ochs et al,1996; Selting và Couper –
Kuhlen năm 2001; Ford et al, 2002; Couper – Kuhlen và Ford, 2004 ).
Những thập niên đầu thế kỉ XXI các nhà nghiên cứu như Anthony
Liddicoat [101] Robin Wooffitt [103], đã cho ra mắt những cơng trình nghiên
cứu mang tính lý luận đại cương, trong đó đề cập đến các khái niệm trong


phân tích hội thoại như ngữ cảnh chuỗi, mở rộng và phân tích hội thoại, khoảng
trống hội thoại,…
Với kết quả thu thập được tình hình nghiên cứu về hội thoại ở nước ngồi

như trên cho thấy rằng phân tích hội thoại đã thu hút được sự quan tâm nghiên
cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học. Về cơ bản các công trình nghiên cứu mới đề
cập đến phân tích hội thoại ở dạng đại cương, những cơng trình đi sâu vào
nghiên cứu ứng dụng của phân tích hội thoại trong các lĩnh vực giao tiếp thông
thường. Những lý thuyết trên cung những nghiên cứu về hội thoại của các tác giả
đi trước tạo tiền đề cho chúng tơi tìm hiểu nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ hội
thoại giao tiếp quân đội.
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu hội thoại ở trong nước

Ngữ dụng học nói chung và Lý thuyết Hội thoại nói riêng so với các
chun ngành ngơn ngữ học khác xuất hiện ở trong nước muộn hơn. Tuy nhiên,
những thập niên đầu thế kỉ XXI, các nhà ngôn ngữ học đã cơng bố nhiều cơng
trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề hội thoại.
Tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn “Giao tiếp diễn ngôn và Cấu tạo văn
bản” (2009) ở chương 3 tác giả bàn về vấn đề phân tích hội thoại. Theo tác giả,
“Phân tích hội thoại” đến từ thực tế cuộc sống, và trong sự gặp gỡ với lý
thuyết dụng học, nó trở thành một đối hệ nghiên cứu hồn chỉnh với hệ thống các
cơng cụ lý thuyết trọn vẹn, có sức mạnh giải thích thỏa đáng.
Một trong những tác giả đi tiên phong ở lĩnh vực này là Đỗ Hữu Châu với
hai cơng trình “Đại cương Ngơn ngữ học” (2002), “Cơ sở ngữ dụng học” (2003).
Ơng được xem là một trong những người đầu tiên đề xuất một hướng tiếp cận
mới, một hướng nghiên cứu mới vào Việt Nam - đó là phân tích Hội thoại trong
sự hành chức của ngôn ngữ. Năm 1993, lần đầu tiên các vấn đề lý thuyết hội
thoại như: cấu trúc hội thoại, các quy tắc hội thoại, thương lượng hội thoại, chức
năng của các đơn vị hội thoại, đã được Đỗ Hữu Châu trình bày trong cuốn “Đại
cương Ngơn ngữ học”, Tập 2 [10]. Có thể coi đây là những cơng trình chun
sâu về ngữ dụng học nói chung và hội thoại nói riêng ở


Việt Nam. Mặt khác, hai cơng trình này cũng chính là những định hướng quan

trọng giúp người đọc bước đầu tiếp cận một lĩnh vực nghiên cứu mới, khó nhưng
cũng hứa hẹn nhiều điều thú vị.
Tiếp đến là tác giả Nguyễn Đức Dân trong cuốn“Ngữ dụng học” (1998)
[13] dành toàn bộ Chương 3 để giới thiệu về phương pháp nghiên cứu hội thoại,
cấu trúc hội thoại, nguyên lý hội thoại và phép lịch sự.
Trong cuốn Dụng học Việt ngữ [27] năm 2000, tác giả Nguyễn Thiện Giáp
đã trình bày những vấn đề của lý thuyết hội thoại và phép lịch sự trong giao tiếp
bằng những dẫn chứng sinh động, cụ thể với cách viết ngắn gọn, súc tích. Nhiều
vấn đề khác như cấu trúc hội thoại, lời ướm trong hội thoại, nguyên tắc hợp tác
và hàm ý hội thoại, chiến lược giao tiếp trong hội thoại đã được ơng trình bày và
lý giải một cách khá cụ thể rõ ràng.
Tác giả Vũ Thị Thanh Hương (1990), “Bước đầu tìm hiểu các hành vi
giao tiếp mở đầu tương tác bác sĩ - bệnh nhân”, (Tạp chí Ngơn ngữ - số 3 và
1992), “ Các hành vi giao tiếp kết thúc tương tác bác sĩ – bệnh nhân”(Hội
nghị Khoa học Viện Ngôn ngữ học).
Tác giả Nguyễn Văn Khang năm 1999 đã tiếp cận hội thoại từ góc nhìn
Ngơn ngữ học xã hội.Trong chương 8 [52], tác giả đi sâu vào ba vấn đề chủ yếu
của hội thoại là: cấu trúc hội thoại, chiến lược hội thoại và phong cách hội thoại.
Từ bình diện ngôn ngữ học xã hội, tác giả đã dành nhiều thời gian để phân biệt
năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp, những cấu trúc quan trọng dung để
biểu đạt lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ.
Với tác giả Đỗ Kim Liên, năm 1999, cho ra đời cuốn “Ngữ nghĩa lời
thoại” [56]. Nếu như các tác giả trước đây khi nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại
thường xem xét câu hỏi, câu đáp một cách riêng lẻ thì lần đầu tiên, tác giả đã
quan tâm nghiên cứu sự tương tác giữa câu hỏi – câu đáp từ bình diện ngữ nghĩa.
Nếu như các tác giả trước đây khi nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại thường xem
xét câu hỏi, câu đáp một cách riêng lẻ thì lần đầu tiên, tác giả đã quan tâm
nghiên cứu sự tương tác giữa câu hỏi – câu đáp từ bình diện ngữ



nghĩa. Một điểm nữa là các tác giả như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân,
Nguyễn Văn Khang trình bày các vấn đề và dẫn dụ được lấy từ nguyên mẫu lời
nói thì tác giả Đỗ Thị Kim Liên đã sử dụng các cuộc thoại trong tác phẩm văn
học viết để soi sáng các vấn đề của Lý thuyết hội thoại. Năm 2005, tác giả Đỗ
Thị Kim Liên tiếp tục công bố “Giáo trình Ngữ dụng học” [59. tr.25]. Trong
cơng trình này, những nội dung cập nhật của lý thuyết hội thoại tiếp tục được tác
gỉa soi chiếu thông qua các tác phẩm văn học sau này.
Kế thừa và phát triển thành tựu các bậc tiền bối, các thế hệ tiếp sau đã vận
dụng Lý thuyết Hội thoại và các đơn vị hội thoại vào các nghiên cứu của mình.
Tác giả Phạm Văn Thấu (2000) [88] lại đi sâu nghiên cứu cấu tạo của cặp thoại,
các kiểu cấu trúc liên kết của cặp thoại bao gồm: liên kết phẳng, liên kết lồng,
liên kết đối xứng và liên kết móc xích. Tác giả Mai Xuân Huy trong “Ngôn ngữ
quảng cáo dưới ánh sáng của lý thuyết giao tiếp” [42] đã dành một phần trong
Chương 3 để bàn về cấu trúc hội thoại quảng cáo, cặp thoại trong hội thoại
quảng cáo và sự liên kết của các cặp thoại. Ngoài 5 cấu trúc mà tác giả Phạm
Văn Thấu đã đưa ra, Mai Xuân Huy còn bổ sung thêm kiểu liên kết đồng quy
hay cịn gọi là liên kết hướng tâm.
Bên cạnh đó, lý thuyết hội thoại còn được quan tâm nghiên cứu dưới góc
độ ứng dụng vào những phạm vi giao tiếp cụ thể như giao tiếp mua bán, giao tiếp
đàm phán thương mại, hội thoại dạy học, hội thoại giữa tư vấn viên tổng đài và
người gọi điện thoại tư vấn,… Đặc biệt, riêng bình diện hội thoại giữa người
mua – người bán đã có tới gần sáu chục cơng trình đề cập đến vấn đề này như
[71,72],…. Nhìn chung, các tác giả đã tập trung chủ yếu vào những vấn đề cụ
thể của hội thoại và đã chỉ ra được cấu trúc cuộc thoại mua bán, các đặc điểm
của hội thoại mua bán ở chợ và các đơn vị cấu trúc hội thoại. Điều đáng chu ý là
tác giả Trần Thanh Vân đã đi sâu nghiên cứu những khác biệt về giới tính thể
hiện qua cuộc thoại mua bán ở chợ Đồng Tháp, từ đó hướng đến việc làm rõ
các kiểu dạng hoạt động ngôn ngữ đặc thu mang đặc trưng văn hóa vung biểu
hiện trong ngơn ngữ hội thoại.



Ở bình diện ngơn ngữ hội thoại dạy học, có các cơng trình Qch Thị Gấm
(2010) [23],Vũ Thị Thanh Hương (2004) [55], Nguyễn Thị Dung (2011)
[15] Trần Thị Phượng (2015) [72]. Các cơng trình này đã đề cập khá đầy đủ đến
các vấn đề của hội thoại dạy học như cặp thoại dạy học, vai trò của cặp thoại
trong tổ chức của đoạn thoại và cuộc thoại, cấu trúc, chức năng của cặp thoại dạy
học, bước thoại và năng lực giao tiếp của giảng viên, giáo viên, sinh viên, học
viên, học sinh.
Trên cơ sở những tri thức nền tảng lý thuyết hội thoại trong và ngồi nước,
nhiều cơng trình đã tập trung nghiên cứu, mở rộng việc vận dụng lý thuyết hội
thoại vào thực tiễn giao tiếp hàng ngày cũng như trong tác phẩm văn học, văn
bản quản lý nhà nước,… Tuy nhiên, cho đến nay, ngôn ngữ hội thoại giao tiếp
của cán bộ, nhân viên Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn là mảng đề tài để ngỏ
cần được tiếp tục khám phá.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu ngơn ngữ trong môi trường quân đội.

Quân đội Nhân dân hơn bảy mươi năm xây dựng chiến đấu, trưởng thành
mảng đề tài về lịch sử quân đội, về nghệ thuật chiến tranh nhân dân, về anh bộ
đội Cụ Hồ…được nhiều tác giả nghiên cứu. Bên cạnh đó mảng đề tài về khoa
học ngơn ngữ qn sự, theo tìm hiểu của chúng tơi đến nay có một số cơng trình
nghiên cứu cụ thể như sau:
Ngơn ngữ người lính được phân tích khá thú vị trong cơng trình “Văn
học Việt Nam 1945 -1954”, tác giả Mã Giang Lân đánh giá tổng quát về tiến
trình văn học Việt Nam giai đoạn 1945 -1954 và bước đầu phân tích về mảng
đề tài người lính trong văn xi. Theo tác giả, người lính là những con người
mà khi tiếp xúc cho người ta “một cảm giác lạ lùng ở trong người: Người dân
quê bây giờ lạ lắm, họ không phải là người quê nữa, họ là những người giết
được giặc, có một tình cảm mãnh liệt, đẹp đẽ” [dẫn theo 4.tr.19]. Đó có thể là
một “Anh trung đội trưởng ra mệnh lệnh quan trọng bằng những lời nói ơn
tồn thân mật và trở nên ngập ngừng khi nói đến quyết tâm trả thù cho đồng

chí trung đội phó” [ dẫn theo 4.tr.19 ] hay đó là người lính du rất nhớ quê
hương,


gia đình nhưng khi nhắc tới vẫn giữ “một giọng vui nghịch ngợm”, ưa sử dụng
“những thành ngữ, lối ví von, những hình ảnh tạo nên sắc thái riêng” [ dẫn theo
4. tr.20 ]. Các tác giả Hà Minh Đức, Trần Khánh Thành (2003), Nguyễn Đình
Thi – tác giả và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục có giới thiệu bài viết của
Nguyễn Xuân Nam “ Đọc những tiểu thuyết viết về quân đội của Nguyễn
Đình Thi ”,… Như vậy, từ góc độ nghiên cứu ngơn ngữ học, các nhà nghiên
cứu bước đầu xem xét, đánh giá ngôn ngữ người lính trong văn bản như một
thủ pháp khắc họa nhân vật.
Ở góc độ ngơn ngữ học tâm lý, các nhà khoa học khi nghiên cứu về
người lính đã chú trọng đi sâu vào mục đích chức năng ngơn ngữ của người
cán bộ chỉ huy.Tác giả Nhữ văn Thao cho rằng : “Cán bộ chỉ huy, cán bộ lãnh
đạo, bên cạnh ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày như mọi quân nhân cịn thường
xun sử dụng ngơn ngữ chỉ huy và ngơn ngữ tuyên truyền giáo dục”
[84.tr.75 ]. Ngôn ngữ giao tiếp được sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt và hoạt
động của mỗi cán bộ chỉ huy. Nó ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống và
hoạt động của các quân nhân, đặc biệt trong quan hệ đối xử với nhau để trao
đổi tình cảm, tăng cường hiểu biết, động viên cổ vũ lẫn nhau.‘Ngôn ngữ giao
tiếp của cán bộ chỉ huy trở thành phương tiện có hiệu quả để điều chỉnh tâm
lý, hành vi cấp dưới’ [ 84. tr.75 ].
Vai trị, vị trí của việc phát triển vốn ngơn ngữ trong tập thể người lính
cũng được các tác giả quan tâm và cho rằng: “Để phát triển trình độ ngơn
ngữ cho quân nhân, trong hoạt động quân sự cần tăng cường hoạt động, giao
tiếp giữa các quân nhân trong đơn vị: thường xuyên trau dồi thuật ngữ
chuyên môn, nắm vững các quy tắc ngữ pháp để phát triển trình độ ngơn ngữ
nói và viết; nâng cao trình độ ngơn ngữ thơng qua đài, báo, tạp chí và các
bài nói, viết của các lãnh đạo; phát huy tính tích cực của bản thân trong học

tập, rèn luyện nâng cao trình độ ngơn ngữ” [ 84. tr.75 ].
Đặc biệt về góc độ giao tiếp có cơng trình khoa học: “Những vấn đề cơ
bản của tâm lý học xã hội, tâm lý học tập thể cơ sở quân nhân”, tác giả Hoàng


Đình Châu (1998), “Tâm lý học qn sự”, và cơng trình “Giao tiếp của bác sĩ
Quân y với người bệnh” của tác giả Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Hà [35].
Coi thuật ngữ quân sự là một mảng của thuật ngữ, các nhà nghiên cứu
tập trung tìm hiểu hệ thống thuật ngữ quân sự, xây dựng từ điển thuật ngữ
quân sự, từ điển bách khoa quân sự và so sánh, đối chiếu thuật ngữ quân sự
tiếng Việt với các ngôn ngữ khác. Có thể điểm qua một số cơng trình thuộc
hướng nghiên cứu này: Vũ Quang Hào (1994), “Hệ thuật ngữ quân sự tiếng
Việt”; Bộ Quốc Phòng (1996), “ Từ điển bách khoa quân sự”, Nguyễn Quỳnh
Nga (2002), “Khảo sát đặc điểm thuật ngữ quân sự trong phạm vi quân chế
tiếng Hán và tiếng Việt tương đương”; Nguyễn Văn Khánh (2013), “Nghiên
cứu đối chiếu thuật ngữ quân sự giữa tiếng Anh và tiếng Việt”… Về cơ bản,
các cơng trình nói trên mới dừng lại ở việc nghiên cứu từ loại (thuật ngữ)
chưa quan tâm đến tồn bộ hệ thống ngơn ngữ mà người lính sử dụng.
Vấn đề nghiên cứu liên quan đến Lý thuyết Hội thoại qua tư liệu là các
tác phẩm văn học được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như: “Xưng hô
trong tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán”, của tác giả Phạm Thị
Hạnh phân tích các từ xưng hơ theo hai mặt: hình thức và chức năng. Ở phạm
vi chức năng của từ xưng hô, tác giả phân tích các từ ngữ xưng hơ theo
hướng: từ ngữ chuyên dụng, từ ngữ lâm thời; lý giải các nhân tố tác động đến
việc định vai giao tiếp và lựa chọn từ xưng hơ như: mục đích giao tiếp, hoàn
cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp,… Tuy nhiên, tác giả mới xem xét đặc điểm
xưng hô, chưa quan tâm đến đặc điểm ngôn ngữ trong giao tiếp của người
chiến sĩ ở tác phẩm “Tuổi thơ dữ dội”. Cũng liên quan đến vấn đề nghiên cứu
trên, có thể kể đến: Tơ Thị Phương Lan (1995), “Người lính trong văn xuôi
viết về chiến tranh của những nhà văn cầm súng”; Nguyễn Thị Thu Trang

(2014) “Từ ngữ về con người và chiến tranh trong Nhật Ký Đặng Thùy
Trâm”,…Nguyễn Thị Dung dựa trên nền tảng lý thuyết Hội thoại với đề tài
“Đặc điểm ngôn ngữ trong giao tiếp ở trường Đại học Quân sự Việt Nam
(2011) đã đưa ra nhận định: “Trong môi trường quân đội, ngôn ngữ giao
tiếp cũng phải “thống


nhất” mang tính điều lệnh hóa” [15.tr.38]. Tác giả phân tích hồn cảnh giao tiếp
và quan hệ vai giao tiếp. Quan hệ vai giao tiếp ở các cuộc thoại trong thi vấn đáp
chủ yếu là loại vai cao – thấp. Quan hệ vai cao – thấp là quan hệ giữa cấp trên –
cấp dưới, giữa những người có tuổi tác, địa vị, vị thế xã hội (giảng viên), và
những người trẻ tuổi (học viên). Mặc du quan hệ về mặt xã hội khơng bình
đẳng nhưng quan hệ giao tiếp lại thể hiện sự bình đẳng [15.tr. 64]. Báo Quân đội
Nhân dân số ra ngày 20/12/2010 có bài viết của tác giả Sơn Hà với tựa đề "Kỹ
năng giao tiếp mở ra cơ hội''. Qua bài viết, tác giả Sơn Hà muốn nêu lên thực
trạng nhiều sĩ quan trẻ học tập rèn luyện tốt nhưng những sĩ quan trẻ này lại
có hạn chế là chưa thực sự tự tin trong giao tiếp. Cũng trong số báo này có ý
kiến của tác giả Đinh Thị Thủy Bình về vấn đề:"Văn hóa chào hỏi nét đẹp của
người Quân nhân''. Tác giả cho rằng: Trong môi trường quân đội, việc chào hỏi
giữa các quân nhân khơng chỉ là thực hiện Điều lệnh mà cịn thể hiện tinh thần
đồng chí , đồng đội, sự tơn trọng lẫn nhau, đồng thời là nét đẹp văn hóa của
người quân nhân cách mạng. Chào hỏi như thế nào để vừa đúng Điều lệnh, vừa
có văn hóa, địi hỏi mỗi quân nhân phải có ý thức, hiểu biết và hình thành cho
mình thói quen. Ngun tắc chung của việc chào hỏi là: “Quân nhân gặp nhau
phải chào, cấp dưới phải chào cấp trên trước, người được chào phải chào đáp
lễ ”( Sơn Hà (2010), Kỹ năng giao tiếp mở
ra cơ hội, báo Quân đội Nhân dân).Tác giả Nguyễn Thị Hồng Chun với đề
tài:“Đặc điểm ngơn ngữ của người lính cụ Hồ thời kì chống Pháp, từ góc độ
vai giao tiếp” đã nhận định về vai giao tiếp của người lính cụ Hồ thời kì
chống Pháp có đặc điểm: “ Trong giao tiếp các cá nhân tự hình thành vai

giao tiếp từ việc xác lập quan hệ vai giao tiếp ứng với đối tượng và phù hợp
với: hoàn cảnh giao tiếp, chủ đề giao tiếp, mục đích giao tiếp,…Vai giao tiếp
đóng vai trị quan trọng, quyết định việc lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ. Môi
trường quân đội là môi trường sinh hoạt đặc thù với hai đặc trưng tiêu biểu:
Sự áp đặt các quy định có tính pháp quy và sự tự do trong sinh hoạt cá
nhân….” [ 4. tr. 55 ]. Có thể thấy rằng, các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến
ngôn


ngữ của người lính như một cơng cụ, thủ pháp nghệ thuật nhằm đạt mục đích
nghiên cứu riêng.
Ngơn ngữ giao tiếp của Quân đội Nhân dân Việt Nam được nhìn nhận như
là những cái vốn có trong các bình diện nội dung và bình diện biểu hiện (hình
thức) của các thông điệp bằng ngôn ngữ giảng viên (GV) và học viên (HV), bác
sĩ (BS) với bệnh nhân (BN), nhân viên (NV) ngân hàng với khách hàng (KH)
trao đổi với nhau bằng lời nói hướng đến mục đích cả hai cung quan tâm. Có thể
nói rằng đề tài nay đến nay vẫn khá mới mẻ đó là mục tiêu có thể tìm hiểu
nghiên cứu.
Như vậy có thể nói rằng các cơng trình nghiên cứu trên mặc du tiếp cận
vấn đề ở nhiều góc độ khác nhau nhưng là những nguồn tài liệu q báu.Thơng
qua các tài liệu đó tác giả luận án có thể tham khảo phương pháp tiếp cận, biện
pháp trình bày diễn giải vấn đề, cách thức tiếp cận những tri thức lý luận
chung nhất vấn đề được nghiên cứu, qua đó, tạo cơ sở cho việc đề xuất và thực
hiện các biện pháp nâng cao hiệu quả giao tiếp trong thực tiễn Quân đội Nhân
dân Việt Nam.
1.2.Cơ sở lý thuyết
Đối tượng nghiên cứu của ngữ dụng học là các điều kiện của việc sử
dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Cơ cấu và phạm vi của các điều kiện ấy là rất
rộng. Nó bao gồm các yếu tố ngồi ngôn ngữ liên quan đến giao tiếp: từ
những nội dung khái quát như hệ thống tri thức chung, hành động xã hội,…

cho đến các yếu tố như tình huống giao tiếp, tiền giả định, các yếu tố thuộc hệ
thống ký hiệu phi ngôn ngữ (cử chỉ, điệu bộ,…). Theo Nguyễn Thiện Giáp,
“Ngữ dụng học nghiên cứu những cách thức con người dùng ngôn ngữ trong
hội thoại thực tế, tức là nghiên cứu ngữ cảnh đã giúp cho việc xác định một
phát ngơn nào đó là phù hợp hay khơng phù hợp, cũng như sự thay đổi ngữ
cảnh làm thay đổi nghĩa của câu như thế nào?… Giao tiếp ngôn ngữ là q
trình tương tác lẫn nhau giữa người nói và người nghe, giữa lời nói này với
lời nói kia. Các phát ngôn lệ thuộc vào niềm tin và ý định của người nói, vào


sự chờ đợi, sự suy luận của người nghe, vào vốn hiểu biết chung giữa người
nói và người nghe”. [31. tr. 537, 538].
1.2.1. Khái niệm giao tiếp

Giao tiếp (Communication) là sự tiếp xúc giữa các cá thể trong một cộng
đồng để truyền đạt một thơng tin nào đó. Xã hội lồi người có thể giao tiếp với
nhau bằng nhiều phương tiện, trong đó phương tiện ngơn ngữ (bao gồm cả ngơn
ngữ nói, ngơn ngữ viết) là phương tiện quan trọng nhất. Giao tiếp bằng ngôn
ngữ là đối tượng thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu với những mối quan
tâm khác nhau.Trong luận án trình bày những cách hiểu theo quan điểm của
Berge 1994 thì giao tiếp được hiểu theo một số cách như sau:
Thứ nhất: hiểu một cách đơn giản và chung nhất, giao tiếp được hiểu là
q trình thơng tin diễn ra giữa ít nhất là hai người giao tiếp trao đổi với nhau,
gắn với một ngữ cảnh và một tình huống nhất định. Định nghĩa này sát với việc
con người thực hiện các cuộc trao đổi bằng lời trong đời sống thường nhật, nên
nó liên quan đến xã hội học và cũng tiện dụng trong nhà trường.
Trong định nghĩa này cần chú ý ba yếu tố sau đây:
- Giao tiếp là một “quá trình trao tin ít nhất là giữa hai người giao tiếp
(communicators) trao đổi với nhau”, không nhất thiết phải là hai “con
người” tách biệt nhau, nghĩa là có thể một người tự trao đổi tin với chính

mình. Tuy vậy, trường hợp một mình mình nói một mình mình nghe khơng
phải là phổ biến, nếu hiện tượng này xảy ra đều đặn ở một người, thì đó là
một hiện tượng bệnh lý (ví dụ, người đó có thể bị bệnh tâm thần).
- Ý “(hai người giao tiếp) trao đổi với nhau” dung chỉ sự “cộng tác” của
phía người giao tiếp thứ hai, nếu người thứ hai khơng cộng tác thì giao tiếp
khơng thể diễn ra, người thứ nhất sẽ “bị bỏ rơi”.
- Sự giao tiếp bao giờ cũng “gắn với một tình huống và một ngữ cảnh nhất
định”. Ngữ cảnh là tất cả những gì ở bên ngồi q trình trao tin đó (kể cả
hồn cảnh khơng gian, thời gian) có quan hệ với q trình đó, ngữ cảnh là nơi
cung cấp đề tài, nhân vật, điều kiện cho giao tiếp diễn ra, và qua đó mà quy


định cả cách thức tiến hành cuộc giao tiếp. Tình huống được hiểu là cái khung sự
việc chung thường lặp đi lặp lại có thể hình dung như một kịch bản cho sẵn (như
bữa cơm gia đình, tiết học ở giảng đường, giao tiếp giữa người mua với người
bán ở chợ, cuộc thoại khám chữa bệnh,…).
Như vậy, cả ba yếu tố “quá trình trao tin giữa hai người”, “hai người
giao tiếp trao đổi với nhau”, “gắn với một tình huống và ngữ cảnh” đều cần
thiết cho cuộc giao tiếp được thực hiện.
Thứ hai, với cách hiểu có tính chất chun môn, giao tiếp được định nghĩa
như một thuật ngữ chỉ loại, bao trum tất cả các thông điệp được phát ra trong
những ngữ cảnh và tình huống khác nhau. (Thơng điệp (message) trong ngôn
ngữ học được hiểu là tin được mã hóa thành lời nói hoặc lời viết, được truyền đi
từ người phát đến người nhận). Trong cách hiểu này, giao tiếp được coi như
tên gọi của tất cả các kết quả của hành động xã hội bằng ngôn ngữ, chưa phân
biệt được các mục đích cụ thể, xuất hiện trong những hồn cảnh khơng gian thời
gian khác nhau và trong những tình huống xã hội khác nhau (như trong bữa cơm
gia đình, trong cuộc trị chuyện trên đường đi,…).
Thứ ba, trong ngôn ngữ học, giao tiếp đôi khi được dung như là từ đồng nghĩa
hoặc phần nào đồng nghĩa với những thuật ngữ như lời nói (trong sự đối lập

với “ngôn ngữ”), cách dung (trong sự đối lập với “lược đồ”), hành vi (trong sự
đối lập với “mã”), hành năng (Anh: performance, tức là “năng lực hiểu biết”).
Thông qua những tên gọi đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với “giao tiếp” này, thì
giao tiếp được nhìn nhận như là những cái vốn có trong thơng điệp ngơn ngữ:
qua bình diện nội dung và bình diện biểu hiện (hình thức) của thơng điệp bằng
ngơn ngữ, người ta có thể hiểu tình huống, ngữ cảnh, và bản thân những người
trao đổi lời với nhau tự thể hiện mình. Các định nghĩa giao tiếp như thế này được
coi là cách định nghĩa có tính chất trung hịa, có quan tâm đến những truyền
thống khác nhau trong ngôn ngữ học, chẳng hạn như truyền thống phân biệt giữa
một bên là “ngôn ngữ” hay “hệ thống” với bên kia là “lời nói” hay “hành vi”
(behavior) [dẫn theo1,tr.18,19 ].


×