Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

TIỂU LUẬN: Công nghiệp hoá-hiện đại hoá Thực trạng và giải pháp ở nước ta hiện nay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.81 KB, 35 trang )









TIỂU LUẬN:

Công nghiệp hoá-hiện đại hoá -
Thực trạng và giải pháp ở nước
ta hiện nay






Lời giới thiệu

Nước ta đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ
sở vật chất kĩ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa cao, quan hệ sản
xuất mới chưa hoàn thiện. Vì vậy, công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH) là
một xu hướng khách quan, phù hợp với xu thế của thời đại và hoàn cảnh đất nước
góp phần tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội, hoàn thiện quan hệ
sản xuất.
Do CNH-HĐH có ý nghĩa vô cùng to lớn với nước ta nên đã có rất nhiều nhà
khoa học, nhà nghiên cứu, nhà kinh tế và cả sinh viên nghiên cứu về đề tài này
nhằm đưa ra giải pháp thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH. Trong số các công trình
đó có không ít những công trình có tác dụng lớn đối với quá trình CNH-HĐH ở nước


ta.
Đối với tôi, được sinh ra và lớn lên đúng vào thời điểm đất nước bắt đầu đẩy
nhanh quá trình CNH-HĐH, tôi mong đóng góp phần nào đó công sức của mình vào
sự nghiệp chung của đất nước. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Công nghiệp hoá-hiện
đại hoá.Thực trạng và giải pháp ở nước ta hiện nay.”














A. Giới thiệu đề tài


I.Quan niệm về CNH-HĐH trên thế giới và ở Việt Nam

Trên thế giới, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây âu (ở các
nước Anh, Pháp, Đức ), ở Mỹ và ở Nhật .Khi đó, CNH được hiểu là quá trình thay
thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc .Nhưng do tất cả mọi khái
niệm kinh tế nói chung và khái niệm CNH nói riêng đều mang tính lịch sử nghĩa là
luôn có sự thay đổi và phát triển cùng lịch sử của nền sản xuất xã hội, của khoa học
công nghệ .Vì vậy, hiện nay quan niệm về công nghiệp hoá đã có sự thay đổi so với

trước rất nhiều.
ở Việt Nam do có sự kế thưà, chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại
và rút ra những bài học kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá và thực
tiễn cuộc cách mạng công nghiệp hoá Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Hội nghị ban
chấp hành trung ương lần thứ VII khoá VI và đại hội đại biểu toàn quốc thứ VII
Đảng cộng sản Việt Nam xác định: “Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn
bản toàn diện các hoạt động sản xuất và kinh doanh ,dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội
từ sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ phương tiện và
phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa
học công nghệ tạo ra năng xuất lao động cao ”
Khái niệm công nghiệp hoá như vậy Đảng ta đã xác định rộng hơn những
quan điểm trước đó bao gồm tất cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và
quản lý kinh tế xã hội được sử dụng bằng các phương tiện tiên tiến hiện đại cùng với
kĩ thuật và công nghệ cao. Như vậy tư tưởng CNH không bó hẹp trong phạm vi các
trình độ lực lượng sản xuất đơn thuần, kĩ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ
công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước,
CNH ở Việt Nam hiện nay có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: CNH phải gắn liền với HĐH. Sở dĩ như vậy là vì trên thế giới đang
diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Một số nước phát triển đã

bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nên phải tranh thủ ứng
dụng những thành tựu khoa học và công nghệ, tiếp cận với kinh tế tri thức để hiện đại
hoá những ngành, những khâu, những lĩnh vực có khả năng nhảy vọt.
Thứ hai: CNH phải nằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. CNH là
tất yếu của các nước nhưng với mỗi nước mục tiêu và tính chất của CNH lại khác. ở
nước ta, CNH nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho Chủ Nghĩa Xã Hội, tăng cường sức
mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Thứ ba: CNH trong điều kiện kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Điều này làm cho CNH trong giai đoạn hiện nay khác với CNH trong giai đoạn đổi

mới. Trong cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hoá tập trung-hành chính, bao cấp, CNH
được thực hiện theo kế hoạch, mệnh lệnh của nhà nước. Trong cơ chế kinh tế hiện
nay nhà nước vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình CNH. Nhưng CNH
không xuất phát từ chủ quan nhà nước, nó đòi hỏi phải vận dụng các quy luật khách
quan mà trước hết là quy luật thị trường.
Thứ tư: CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh
tế. Vì thế mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế là tất yếu đối với
nước ta hiện nay.
CNH trong điều kiện “chiến lược” kinh tế mở có thể đi nhanh nếu chúng ta
biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế giới và sự giúp đỡ quốc tế. Công
nghiệp hoá trong điều kiện”chiến lựơc” kinh tế mở cũng gây ra không ít những trở
ngại do những tác dụng tiêu cực của nền kinh tế thế giới, do trật tự của nền kinh tế
thế giới mà các nước tư bản phát triển thiết lập không có lợi cho các nước nghèo, lạc
hậu.Vì thế, CNH-HĐH phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế
độc lập.

II.ý nghĩa của đề tài.

1.ý nghĩa trực tiếp của đề tài

Đối với quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam, đề tài có rất nhiều ý nghĩa và tác
dụng to lớn .Trong đó, một số ý nghĩa nổi bật của đề tài là:

Thứ nhất: đề tài đã phân tích đánh giá chính xác thực trạng xây dựng CNH-
HĐH ở Việt Nam hiện nay. Đó là những đánh giá, phân tích về tiền đề thực hiện
CNH-HĐH ở nước ta, kết quả thành tựu cũng như những mặt hạn chế yếu kém trong
quá trình xây dựng CNH-HĐH đất nước .Thêm nữa đề tài đã làm rõ được nguyên
nhân dẫn tới thực trạng của CNH-HĐH ở nước ta hiện nay .Mục đích của việc này là
nhằm hiểu rõ hơn về CNH-HĐH ở Việt Nam để từ đó có thể đưa ra được các giải
pháp làm thúc đẩy quá trình CNH-HĐH ở nước ta nhanh hơn.

Thứ hai:Với việc đề tài sử dụng quan điểm toàn diện để tìm ra các quan hệ
giữa CNH-HĐH với một số yếu tố như (lực lưọng sản xuất, khoa học công nghệ, vốn
lao động ). Từ đây, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về CNH-HĐH để có thể đưa ra được
các giải pháp có hiệu quả nhất cho CNH-HĐH nước ta.
Thứ ba:Đề tài đã đưa ra được một số giải pháp vĩ mô thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá ở nước ta bằng cách sử dụng quan điểm phát triển để vạch ra con đường
phát triển.Tất cả các giải pháp trên đều được đặt trong điều kiện cụ thể của đất nước
ta và thế giới .Do khi đưa ra các giải pháp đề tài đã quán triệt sử dụng quan điểm lịch
sử.
Trên đây chỉ là ba ý nghĩa và tác dụng nổi bật của đề tài. Ngoài ra, đề tài còn
một số ý nghĩa khác như: đã vận dụng được triết học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh vào trong thực tiễn quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam.

2. ý nghĩa của đề tài thông qua ý nghĩa việc xây dựng CNH-HĐH ở Việt Nam
Từ thập niên 60 của thế kỉ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã
hiểu được tác dụng của CNH-HĐH đối với nước ta rất to lớn. Trong đó nổi bật là:
CNH trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng kinh tế Xã Hội Chủ
Nghĩa. Đó là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm cải biến
một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp gắn với việc hình thành từng
bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện bản chất ưu việt của chế độ mới
Xã Hội Chủ Nghĩa.
Nước ta đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội với xuất phát điểm thấp, nền nông nghiệp
lạc hậu, bình quân ruộng đất thấp, 80% dân cư sống ở nông thôn có mức thu nhập
thấp, sức mua hạn chế. Vì vậy, quá trình CNH là quá trình tạo điều kiện vật chất kĩ

thuật cần thiết về con người và về khoa học công nghệ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng tăng
năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống văn
hoá cho nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái.

Quá trình CNH tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất lực lượng sản
xuất nhờ đó nâng cao vai trò của người lao động-nhân tố trung tâm trong nền kinh tế
Xã Hội Chủ Nghĩa. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhờ thành tựu công nghiệp hoá mang lại
là cơ sở để củng cố khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân, nông dân và
đội ngũ trí thưc trong sự nghiệp cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa. Đặc biệt là góp phần
tăng cường quyền lực sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lí kinh tế của nhà
nước.
Sự nghiệp CNH tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế.
Sự nghiệp CNH đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển,
thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập trung
làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở nên thống nhất cao hơn.
CNH không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao
mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và hiện đại hoá nền quốc phòng
và an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hoá kinh tế xã hội.


B. Nội dung

I.Cơ sở của đề tài

1.Cơ sở lí luận triết học Mac-Lênin

- Nguyên lí mối quan hệ phổ biến
Tất cả các sự vật hiên tượng và quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ
qua lại, tác động lẫn nhau. Mối liên hệ đó là mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại,
sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật,

một hiện tượng trong thế giới.
Các tính chất của mối liên hệ:
Mối liên hệ phổ biến có tính khách quan vì chỉ có duy nhất một thế giới vật
chất nên các mối liên hệ cũng là vật chất. Vì vậy, nó cũng phải tồn tại khách quan.
Còn các mối liên hệ tinh thần chỉ là sự phản ánh của các mối liên hệ vật chất vào
trong con người. Vì vậy, mối liên hệ phổ biến là tồn tại khách quan.
Mối liên hệ còn mang tính phổ biến do:
Thứ nhất: do bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng
khác và không có bất cứ một sự vật, hiện tượng nào không nằm trong mối liên hệ nào
cả. Mọi sự vật, hiện tượng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua các mối liên hệ với
các sự vật, hiện tượng khác.
Thứ hai: mối liên hệ biểu hiện dưới nhiều dạng riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều
kiện nhất định. Song, dù biểu hiện dưới hình thức nào chúng chỉ biểu hiện mối liên
hệ phổ biến chung nhất.
Ngoài hai tính chất trên mối liên hệ này còn có tính đa dạng, nhiều vẻ của nó.
Mối liên hệ có thể phân ra các mối liên hệ khác nhau: có mối liên hệ bên trong và
mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ về bản
chất, mối liên hệ về nội dung và hình thức Tính đa dạng của các mối liên hệ là do
tính đa dạng của sự tồn tại, phát triển và vận động của sự vật và hiện tượng quy định.

Mỗi sự vật, hiện tượng là một cấu trúc mở bao gồm các các mối liên hệ bên trong nó
và các mối liên hệ bên ngoài nó. Trong các mối liên hệ trên thì mối liên hệ bên trong,
mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ về bản chất, mối liên hệ tất nhiên là các mối liên
hệ giữ vai trò quyết định. Song, tuỳ vào điều kiện cụ thể, hoàn cảnh cụ thể các mối
liên hệ tương ứng với chúng có thể giữ vai trò quyết định.
- Nguyên lí về sự phát triển:
Khác với các quan niệm trước đây, triết học theo quan điểm duy vật biện
chứng đã đưa ra quan điểm đúng nhất về sự phát triển: “phát triển là một phạm trù
triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp tới cao, từ đơn giản tới phức
tạp, từ kém hoàn thiện tới hoàn thiện hơn”.

Sự phát triển có những đặc trưng sau:
Thứ nhất: phát triển không chỉ là sự biến đổi về lượng mà trên cơ sở những
biến đổi về lượng để thực hiện những biến đổi về chất ở trình độ cao hơn.
Thứ hai: phát triển còn là những biến đổi làm thay đổi cấu trúc, cơ chế hoạt
động, phương thức tồn tại, chức năng vốn có của sự vật, hiện tượng theo chiều hướng
ngày càng hoàn thiện hơn.
Như vậy, sự phát triển là trong đó có sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ,
là quá trình không ngừng trong tự nhiên và trong xã hội, trong bản thân con người,
trong tư duy Nếu xét từng trường hợp cụ thể thì có cả vận động đi lên và vận động
đi xuống, vận động tuần hoàn. Nhưng xét cả quá trình vận động với thời gian dài và
không gian rộng thì vận động đi lên là xu hướng chung của mọi sự vật.
Các tính chất của sự phát triển:
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Do nguồn gốc của sự phát
triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu
thuẫn phát sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Nhờ đó mà sự vật phát triển.
Vì vậy, sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của con ngươi dù con người có muốn hay không.
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính phổ biến. Vì sự phát triển xảy ra trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong tự nhiên, trong tư duy ở bất cứ sự vật, hiện
tượng khách quan nào của thế giới khách quan.

Sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Với mỗi quá trình phát triển
trong các lĩnh vực khác nhau, với mỗi điều kiện hoàn cảnh khác nhau lại diễn ra theo
những mô thức khác nhau. Điều này nói lên tính đa dạng, phong phú của phương
thức phát triển. Phương thức của mọi sự phát triển là từ sự biến đổi về lượng dẫn đến
sự biến đổi về chất và ngược lại. Nguồn gốc của phát triển là thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập. Hình thức biểu hiện là phủ định của phủ định.
- Các quan điểm vận dụng từ hai nguyên lí trên cho quá trình CNH-HĐH ở
Việt Nam
+Quan điểm toàn diện

Do bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ
với sự vật, hiện tượng khác, các mối liên hệ này thì đa dạng, phong phú. Chính vì
vậy, khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải sử dụng quan điểm toàn diện,
tránh quan điểm phiến diện, chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng
kết luận về tính quy luật hay bản chất của chúng.
Theo quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải nhận thức về sự vật, hiện
tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các mặt của chính sự vật và
trong sự tác động qua lại giữa các sự vật khác với nó; kể cả những mối liên hệ trực
tiếp và gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới hiểu rõ được sự vật. Vì vậy, để đưa ra giải
pháp cho quá trình CNH-HĐH ở nước ta thì trước hết phải hiểu rõ về CNH-HĐH.
Muốn có được điều đó thì phải phân tích tất cả các mối liên hệ của nó.
Đồng thời theo quan điểm này đòi hỏi chúng ta phải phân biệt các mối liên hệ
với nhau. Phải biết chú trọng tới các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ về bản chất,
mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên Để từ đó để hiểu rõ được bản chất của sự
vật để có các phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao. Vì vậy, để
có thể đưa ra các giải pháp phù hợp với CNH-HĐH ở Việt Nam thì chúng ta phải
phân biệt được tất cả các mối liên hệ giữa các yếu tố với CNH-HĐH.
Trong thực tế theo quan điểm này khi tác động vào sự vật, ta phải chú ý tới
những mối liên hệ của nó với sự vật khác. Phải biết sử dụng đồng bộ các biên pháp,
phương tiện khác nhau để đem lại hiệu quả cao nhất. Vì vậy, khi thực hiện CNH-
HĐH ta phải sử dụng nhiều biện pháp, giải pháp cùng một lúc để giải quyết một vấn
đề.

Để quá trình CNH-HĐH ở nước ta thu được nhiều kết quả thì chúng ta phải sử
dụng quan điểm toàn diện.
+Quan điểm phát triển
Mọi sự vật đều nằm trong quá trình vận động và phát triển nên trong hoạt
động thực tiễn và nhận thức ta phải có quan điểm phát triển để vạch ra xu hướng biến
đổi, chuyển hoá của chúng.
Theo quan điểm phát triển đòi hỏi chúng ta không chỉ nắm bắt được cái đang

tồn tại ở sự vật mà còn thấy được khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng,
phải thấy rõ những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi đi xuống. Song điều quan
trọng là phải khái quát được những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi của sự
vật. Vì vậy, ta phải thấy rõ xu hướng vận động, phát triển, của quá trình CNH-HĐH
ở nước ta trong tương lai và cả những cái đang tồn tại.
Xem xét sự vật theo quan điểm này đòi hỏi chúng ta phải phân chia quá trình
phát triển của sự vật thành những giai đoạn. Trên cơ sở đó tìm ra phương pháp nhận
thức và tác động phù hợp thúc đẩy sự vật phát triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát
triển của sự vật. Tuỳ theo sự phát triển đó có lợi hay có hại. Vì vậy, khi xây dựng
CNH-HĐH ta phải chia thành những giai đoạn và trong mỗi giai đoạn ta thực hiện
các biện pháp, phương pháp để giải quyết các vấn đề sao cho hiệu quả nhất.
Để thực hiện sự phát triển trên thì trên cơ sở tích luỹ dần về lượng rồi tiến tới
sự biến đổi về chất. Đối với sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta cũng phải tích luỹ dần
về lượng sau đó tiến hành những biến đổi về chất.
Quan điểm này nhằm khắc phực tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn của chúng ta.
+ Quan điểm lịch sử
Quan điểm này đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự
vật phải chú ý tới điều kiện cụ thể, môi trường cụ thể mà sự vật được sinh ra, tồn tại
và phát triển.
Vì vậy, để có thể đưa ra các giải pháp để thúc đẩy quá trình CNH-HĐH ở Việt
Nam chúng ta phải phân tích tình hình cụ thể của đất nước, cũng như bối cảnh quốc
tế trong giai đoạn ngày nay. Ngoài ra, khi thực hiện các giải pháp chúng ta cũng phải
sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.


- Đề tài chọn cơ sở triết học vì:
Đề tài nhằm mục đích đưa ra được các giải pháp làm thúc đẩy quá trình CNH-
HĐH phát triển nhanh hơn và thu được nhiều thành tựu hơn. Vì vậy, đề tài dùng quan
điểm toàn diện để hiểu rõ về CNH-HĐH. Sau đó, dùng quan điểm phát triển để đưa

ra các giải pháp thúc đẩy CNH-HĐH. Nhưng để các giải pháp phát huy được tác
dụng cao nhất thì đề tài đã sử dụng quan điểm lịch sử khi đưa ra các giải pháp.

2. Cơ sở thực tiễn

-CNH-HĐH ở Việt Nam có tính tất yếu khách quan
+ CNH-HĐH có tính phổ biến
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể vững chắc trên cơ sở vật chất kĩ
thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kĩ thuật của một xã hội là toàn bộ các yếu tố vật chất
của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kĩ thuật tương ứng mà lực lượng
lao động sản xuất sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã
hội.
Chủ Nghĩa Tư Bản đã tiến hành CNH để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho
chính Chủ Nghĩa Tư Bản và đã thu được nhiều thành công. Đó là lực lượng sản xuất
phát triển cao, trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến, năng suất lao động cao.
Do Chủ Nghĩa Xã Hội có phương thức sản xuất tiên tiến hiện đại dựa trên
trình độ khoa học kĩ thuật của lực lượng sản xuất phát triển cao. Vì nước ta đi lên
Chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiêp lạc hậu nên nước ta phải xây dựng cơ sở
vật chất kĩ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội. Trong đó, nền nông nghiệp và công nghiệp
hiện đại, khoa học công nghệ phát triển cao. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ
quan trọng đó chúng ta phải tiến hành CNH tức là chuyển từ nền sản xuất nông
nghiệp lạc hậu sang nền công nghiệp hiện đại.
+CNH-HĐH là quá trình tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền kinh tế quốc dân
Xã hội chủ nghĩa
Xã Hội Chủ Nghĩa muốn tồn tại và phát triển cũng cần phải có một nền kinh tế
tăng trưởng, phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu

về tư liệu sản xuất. Cơ sở vật chất kĩ thuật của Chủ nghĩa xã hội cần phải xây dựng
trên cơ sở thành tựu mới nhất, tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ. Cơ sở kĩ
thuật đó phải tạo ra năng suất lao động xã hội cao. CNH-HĐH chính là quá trình tạo

ra nền tảng cơ sở cho nền kinh tế quốc dân.
+ CNH-HĐH là lựa chọn phù hợp với nước ta hiện nay
Việt Nam đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở
vật chất kĩ thuật thấp kém, trình độ lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản
xuất Xã Hội Chủ Nghĩa mới được thiết lập chưa được hoàn thiện. Vì vây, quá trình
CNH-HĐH sẽ xây dựng cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của
quá trình công nghiệp hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất cho Chủ Nghĩa Xã
Hội, làm phát triển mạnh lực lượng sản xuất, góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất
Xã Hôi Chủ Nghĩa.
+ CNH-HĐH ở Việt Nam hiện nay phù hợp với xu hướng thời đại
Trong thời đại ngày nay với hàng loạt nhiệm vụ đặt ra cho mỗi nước như là:
xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, giải quyết các vấn đề về thiên tai
Vì vậy, mọi quốc gia phải tập trung mọi nguồn lưc để giải quyết các vấn đề trên. Một
lựa chọn cho các nước phát triển là phải xây dựng thành công sự nghiệp CNH-HĐH.
Xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ trên
cơ sở khoa học công nghệ cũng phát triển nhanh chóng. Những điều kiện thuận lợi
và khó khăn, khách quan và chủ quan, tạo ra nhiều cơ hội mới nhưng không ít những
khó khăn, thử thách đối với nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Vì
vậy, chúng ta phải chủ động nắm lấy thời cơ, phát huy thuận lợi để đẩy nhanh quá
trình CNH-HĐH tạo ra thế và lực vượt qua khó khăn, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu đưa
kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế và CNH-HĐH đất nước:
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi với sự nghiệp của chúng ta. Tư tưởng
của Hồ Chí Minh soi sáng con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội của dân tộc ta. Tư
tưởng về phát triển kinh tế và CNH-HĐH đất nước vẫn còn nguyên giá trị với nước
ta hiện nay.
Tư tưởng bao trùm trong tư tưởng phát triển kinh tế của Hồ Chí Minh là: xây
dựng nền kinh tế với mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội. Vì vậy, trong tư

tưởng Hồ Chí Minh lúc nào cũng mong xây dựng nền kinh tế nước ta vững mạnh và

độc lập tự chủ . Về phát triển kinh tế thì Bác quan tâm đến các ngành kinh tế quốc
dân, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu kinh tế trong nước, ngoài nước.
Đối với các ngành, Bác quan tâm tới ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Thứ nhất, đối với nông nghiệp, Bác quan tâm đặc biệt
vì đây là ngành rộng lớn nhất nước ta giải quyết vấn đề lương thực hằng ngày và ảnh
hưởng trực tiếp tới tất cả các kĩnh vực khác trong xã hội. Trong nông nghiệp, Bác có
quan điểm phát triển toàn diện cây trồng, vật nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp
Thứ hai, đối với công nghiệp nhẹ Bác từng nói:” Mọi chính sách của Đảng và nhà
nước ta đều nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải thiện đời sống cho nhân dân.
Ngành công nghiệp nhẹ quan hệ khăng khít với đời sống hằng ngày của nhândân. Vì
vậy nhiệm vụ của ngành là rất quan trọng.” Từ quan điểm đó Bác luôn quan tâm tới
phát triển công nghiệp nhẹ. Thứ ba, đối với ngành công nghiệp nặng Bác luôn đặt ra
yêu cầu phải xây dựng ngành sao cho phù hợp với đất nước và phải thực hiện được
yêu cầu đã đề ra. Thứ tư, Bác rất quan tâm tới thương nghiệp và thủ công nghiệp. Bác
từng nói:” mối quan hệ giữa công – nông- thương nghiệp sẽ tạo nên cái chân bền
vững của nền kinh tế”.
Trong cơ chế quản lí Bác luôn yêu cầu phải thường xuyên đổi mới cơ chế
quản lí cho phù hợp với nền kinh tế. Bác đặc biệt quan tâm tới hoạt động của hệ
thống ngân, tài chính, tiền tệ đối với nền kinh tế.
Tư tưởng của Bác là ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi từ thắng lợi này
sang thắng lợi khác.
- Tư tưởng của Đảng ta về tiến hành C NH-HĐH:
Đường lối, mục tiêu, tư tưởng phát triển kinh tế của Đảng:
+Đường lối kinh tế của Đảng ta là đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ, đưa nước ta thành một nước công nghiệp tiên tiến, hiện đại, ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định
hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực từ
bên ngoài và chủ động hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Tăng trưởng
kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, cải thiện đời sống cho người dân, cải thiện môi
trường, phát triển an ninh, quốc phòng.


+Mục tiêu phát triển kinh tế của nước ta từ 2001 dến 2010 là đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của
người lao động tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết
cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế cơ chế
thị trường được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được
nâng cao.
+Tư tưởng phát triển kinh tế nêu rõ phát triển nhanh , có hiệu quả, bền vững,
tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
CNH-HĐH phải đảm bảo kinh tế độc lập, tự chủ về đường lối chính sách đồng thời
có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hoạt động
kinh tế đối ngoại kết hợp với nội lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển kinh tế.
Chiến lược đến năm 2010 GDP tăng gấp đôi năm 2000. Về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động giảm tỉ lệ lao động nông nghiệp xuông 50%. Chiến lược
còn nêu rõ phát triển CNH-HĐH là nhiệm vụ trọng tâm. Con đường CNH rút ngắn so
với các nước đi trước, vừa có bước tuần tự vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi
thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến đặc biệt
là công nghệ tin học, sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao
hơn và phổ biến hơn những thành tựu khoa học công nghệ từng bước phát triển kinh
tế tri thức.
Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực để đẩy nhanh quá trình
CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục đưa nông nghiệp, ngư nghiệp lên một
trình độ cao mới bằng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ. Đẩy mạnh cơ khí
hoá, thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, quy hoạch sử dụng đất hợp lí, đổi mới cơ cấu cây
trồng vật nuôi, tăng giá trị thu được trên một đơn vị diện tích, giải quyết tốt vấn đề
tiêu thụ nông sản. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển cơ cấu hạ tầng, phát triển ngành
nghề, dịch vụ, chú trọng công nghiệp chế biến, chuyển một phần lao động trong nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới, cải thiện đời
sống nhân dân.

Công nghiệp phát triển những ngành nghề sử dụng nhiều lao động, vừa đi
nhanh vào một số ngành và lĩnh vực có công nghệ hiện đại . Phát triển mạnh công

nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, da giày, cơ khí, điện tử , phần mềm Xây dựng
có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng để sản xuất tư liệu lao động.
Khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên dầu khí, khoáng sản, vật liệu xây dựng
Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xây dựng một số tập đoàn doanh
nghiệp đi đầu trong cạnh tranh. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng ngành dịch
vụ, thương mại, các loại hình vận tải, bưu chính viễn thông, du lịch, ngân hàng, tài
chính, kiểm toán sớm phổ cập sử dụng tin học và mạng thông tin quốc tế trong nền
kinh tế và trong đời sống xã hội.
Xây dựng đồng bộ và từng bước tiến hành hiện đại hoá hệ thống cơ sở hạ tầng
giao thông, điện lực, thông tin, cấp nước, thoát nước.
Phát triển mạng lưới đô thị phân phối hợp lí trên các vùng. HĐH dần các
thành phố lớn. Thúc đẩy quá trình đô thị hoá ở nông thôn, không tập trung quá nhiều
khu công nghiệp và dân cư ở các khu đô thị lớn. Khắc phục tình trạng ùn tắc giao
thông và ô nhiễm môi trường, tăng cường công tác quy hoạch và quản lí đô thị, nâng
cao thẩm mĩ kiến trúc.
Về chiến lược phát triển các vùng, phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng
điểm có mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn. Đồng thời tạo điều kiện phát triển các
vùng khác trên cơ sở phát huy sức mạnh của từng vùng, liên kết với các vùng trọng
điểm tạo mức tăng trưởng khá. Quan tâm phát triển kinh tế xã hội gắn liền với tăng
cường quốc phòng an ninh ở vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới hải
đảo. Có chính sách hỗ trợ các vùng khó khăn để có thể phát triển kết cấu hạ tầng,
nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo. Đưa các vùng kinh tế này
vượt qua tình trạng kém phát triển. Phát huy và phát triển vai trò chiến lược của kinh
tế biển, kết hợp với bảo vệ vùng biển. Mở rộng nuôi trồng và đánh bắt, chế biến thuỷ
sản tiến ra xa biển khai thác chế biến dầu khí, phát triển công nghiệp đóng tàu và vận
tải biển, du lịch dịch vụ. Phát triển các vùng dân cư trên biển, giữ vững an ninh trên
biển.

Từng bước hiện đại hoá công tác nghiên cứu dự báo khí tượng thuỷ văn và vật
lý địa cầu. Có kế hoạch chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.
- Từ thực tiễn một số cuộc cách mạng trên thế giới và bài học để lại

Trên thế giới đã có rất nhiều nước tiến hành cách mạng công nghiệp thành
công. Mỗi cuộc cách mạng đều để lại các bài học quý báu. Việt Nam xây dựng CNH-
HĐH cũng nên nghiên cứu kinh nghiệm của các nước đi trước.
+Sơ lược một số cuộc cách mạng trên thế giới:
Cách mạng công nghiệp Anh diễn ra vào những năm 30 của thế kỉ XVIII đến
những năm 1985. Đây là cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới. Nó là
quá trình thay thế kĩ thuật thủ công bằng kĩ thuật cơ khí. Cách mạng công nghiệp
Anh gắn liền với cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ nhất. Nước Anh thực hiện
CNH trong điều kiện thuận lợi hơn các nước khác rất nhiều về kinh tế xã hội .Đặc
điểm nổi bật của cách mạng công nghiệp Anh bắt đầu từ công nghiệp nhẹ sau đó
chuyển sang ngành công nghiệp nặng . Bắt đầu từ ngành công nghiệp dệt rồi chuyển
sang các ngành công nghiệp khác. Công nghiệp nặng có luyện kim và khai thác đá
.Vì vậy thúc đẩy ngành cơ khí phát triển để sản xuất ra máy móc. Cách mạng Anh
kết thúc khi máy móc tạo ra máy móc. Sau cách mạng công nghiệp thì Anh dữ vị trí
số một trong các nước tư bản và độc quyền về thương nghiệp, công nghiệp và tài
chính thế giới .
Cách mạng công nghiệp Mỹ diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ
XIX và chỉ được thực hiện ở các bang phía Bắc. Nó dựa trên tiền đề về việc phát
triển công nghiệp về phía Tây. Cách mạng công nghiệp Mỹ cũng phát triển từ thấp
tới cao. Nhưng nứơc Mỹ đã phát triển hệ thống giao thông để thống nhất đất nước và
tạo điều kiện để khai thác các bang. Ngoài ra, các nước Mỹ đã tận dụng được mọi lợi
thế từ bên ngoài về vốn nên đã rút ngắn được thời gian tiến hành công nghiệp hoá.
Sau cách mạng công nghiệp nước mỹ tồn tại hai mô hình kinh tế đối lập giữa các
bang phía bắc kinh tế phát triển còn các bang phái nam kinh tế kém phát triển.
Cách mạnh công nghiệp Nhật nổ ra trong khi nước Nhật chưa có hệ thống
công trường thủ công phát triển, số lượng ít, tiềm lực kinh tế chính trị yếu, các công

trường thủ công phân tán. Cách mạng công nghiệp Nhật có đặc điểm nổi bật là dựa
vào nguồn vốn trong nước và từ thuế nông nghiệp, dựa vào phát hành tiền . Nó cũng
bắt đầu từ công nghiệp nhẹ sau đó chuyển sang công nghiệp nặng .Sau cách mạng
công nghiệp kinh tế Nhật có sự mất cân đối công nghiệp phát triển còn nông nghiệp
thì lạc hậu.

Chính sách công nghiệp hoá ở Liên Xô từ 1926 đến 1940. Mục tiêu của cuộc
cách mạng này là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Cách mạng
công nghiệp hoá ở Liên Xô với đặc điểm nổi bật là đã tập trung phát triển công
nghiệp nặng ngay từ đầu.Nó được thực hiện trên kế hoạch hoá toàn quốc về điện khí
hoá toàn nước Nga. Nguồn vốn để tiến hành hoàn toàn dựa vào trong nước thông qua
lợi nhuận của các cơ sở quốc doanh, từ tiết kiệm, phát hành công trái, từ phong trào
trong nước. Công nghiệp hoá ở Liên Xô kết thúc vào khoảng năm 1940, lúc này kinh
tế của Liên Xô có sự mất cân đối giữa công nghiệp nặng phát triển, công nghiệp nhẹ
kém phát triển . Do đó, trong xã hội thiếu hàng tiêu dùng .Do tích lỹ quá cao nên gây
căng thẳng cho người dân.
Một số cuộc cách mạng công nghiệp gần đây như ở Trung Quốc,Đài
Loan,Hồng Kông đều có su hướng chung là tận dụng tối đa các nguồn lực bên ngoài
và dựa vào thành tựu khoa học trên thế giới để có thể rút ngắn thời gian công nghiệp
hoá đất nước.
+Một số bài học rút ra từ các cuộc cách mạng công nghiệp trên.
Công nghiệp hoá phải gắn với khoa học kỹ thuật, thành tựu khoa học kỹ thuật.
Phải tận dụng những thành tựu khoa học đó một cách nhanh chóng. Phải thúc đẩy
nghiên cứu khoa học, đào tạo đội ngũ những người nghiên cứu.
Xây dựng CNH phải tuân thủ những nguyên tắc từ thấp đến cao, từ công
nghiệp nhẹ đến công nghiệp nặng. Nhưng tuỳ điều kiện có thể rút ngắn một số khâu
hoặc nhảy vọt một số bước.
CNH phải dựa trên những chiến lược lâu dài, trên toàn quốc gia, phải đảm bảo
cân đối giữa công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, giữa công nghiệp và nông
nghiệp, giữa thành thị và nông thôn.

Phải xây dựng hệ thống giao thông trên toàn quốc gia, để có thể khai thác tài
nguyên ở tất cả các vùng, để tận dụng những thuận lợi ở từng vùng, để phát triển cân
đối ở tất cả các vùng để thúc đẩy trao đổi hàng hoá trong nước và ra nước ngoài.
Cần có cách huy động vốn cho hiệu quả, phải huy động cả vốn trong và ngoài
nước.


II.Thực trạng quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam
1.Những thành tựu đã đạt được trong sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam những năm
qua
Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã tiến hành
CNH-HĐH nước nhà và thu được rất nhiều thắng lợi trong đó phải kể đến là:
-Đối với ngành nông lâm ngư nghiệp đã có những bước phát triển vượt bậc:
Nước ta từ chỗ chưa tự cung tự cấp được lương thực phải nhập khẩu nay
không những đáp ứng đủ mà còn đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu. Bình quân
lương thực là 360kg/người năm 1995 đến năm 2000 là 444kg/người. Năm 2006 giá
trị sản xuất nông, lâm, ngư đạt 5.4%. Chuyển dịch cơ cấu nông thôn có nhiều tiến bộ
góp phần làm tổng sản phẩm trong nước khu vực nông, lâm, ngư tăng 2.77%.
Sản xuất cây công nghiệp tăng nhanh theo hướng xuất khẩu thay thế nhập
khẩu hình thành vùng sản xuất gắn với chể biến nông sản. Diện tích cây cao su tăng
9.5%, sản lượng tăng 37.6%. Diện tích hồ tiêu tăng 83.2%, sản lượng tăng87.8%.
Diện tích điều tăng 44.3%, sản lượng tăng 205.3%. Diện tích chè tăng35.3%,sản
lượng tăng 54.9%.Diện tích cây ăn quả tăng 1,4 lần. Diên tích bông tăng 42.5%, sản
lượng tăng 57.4%. Diện tích đậu tương tăng 47.1%, sản lượng tăng 62.2%.
Hơn 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô,60% diện tích mía, 100% diện tích
điều sử dụng giống mới, phương pháp canh tác mới.
Giá trị sản xuất công nghiệp khu vực nông nghiệp tăng bình quân 5 năm
tăng16.75%/năm. Trong đó đồng bằng sông Hồng tăng 23.6%, duyên hải miền trung
tăng16.92%,Đông Nam Bộ tăng 21.53%, đồng băngd sông Cửu Long tăng 16.82%.
Nghề nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản tăng khá. Sản lượng thuỷ sản năm 2000 đạt

trên 2 triệu tấn , xuất khẩu đạt 1.475 triệu USD.
Công tác trồng rừng, bảo vệ rừng có nhiều tiến bộ. Trong 5 năm 1.1 triệu ha
rừng được bảo vệ; 9.3 triệu ha rừng có khoáng nuôi tái sinh 700000 ha, độ che phủ
tăng từ 28.2% năm 1995 lên 33% năm 2000.
Chúng ta đã xây dựng xong căn bản hệ thống kênh mương để có thể tưới tiêu
cho nông nghiệp. Bước đầu đã đưa máy móc hiện đại vào trong sản xuất nông nghiệp
làm tăng năng suất.
- Đối với ngành công nghiệp và xây dựng:

Năm 2006 công nghiệp và xây dựng chiếm 41.52% GDP, tốc độ tăng trưởng
giá trị gia tăng của khu vực công nghiệp và dịch vụ là 10.37% trong đó công nghiệp
10.18%.
Giá trị sản xuất toàn ngành 2006 là 409.819 tỷ đồng tăng 17%.
Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch theo hướng phù hợp hơn với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa kinh kinh tế nhà nước 31.8% giảm 2.3% so với
năm 2005; kinh tế ngoài quốc doanh là 30% tăng 1.7% so với năm 2005; vốn đầu tư
nước ngoài là 38.2% tổng giá trị sản xuất.
Nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng và xuất
khẩu năm 2006 đều tăng như điện tăng 13.4%, apatit tăng 21.4%, than tăng 18%,
thép tăng 25%
6/8 vùng kinh tế và 42/64 địa phương đạt tốc độ cao lớn hơn tốc tăng bình
quân trong cả nước :Vĩnh Phúc là 25.6%, Bình Dương là 25.3%, Hà Tây là 23.3%,
Hải Dương 23.2%, Cần Thơ là 22%, Đồng Nai là 22%; kim ngạch xuất khẩu:39.6 tỷ
USD tăng 22.1%; kim ngạch công nghiệp là 30.12 tỷ tăng 22.4% bằng 76.1%; tỷ lệ
công nghiệp chiếm 52%; kim ngạch cả nước và 68.2% kim ngạch xuất khẩu công
nghiệp. Cả nước ra đời 4 tập đoàn kinh tế mạnh như: dầu khí ,điện lực ,than khóang
sản, dệt may vượt 31.4% sản lượng doanh nghiệp với tổng số vốn điều lệ là 5973.5 tỷ
Năm 2006, các doanh nghiệp lên sàn chứng khoán đạt kỷ lục chiếm 14% số
lượng doanh nghiệp và 32.54% tổng giá trị niêm yết
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp thu được (FDI) là 79.7 tỷ USD. Dự án cấp mới

với số vốn đầu tư 7.5 tỷ USD, trong đó công nghiệp chiếm 490 dự án bằng 61.5%
tổng dự án 5.05 tỷ USD.
Chúng ta đã tiếp nhận công nghệ mới,trang bị thêm nhiều thiết bị hiện đại đáp
ứng nhu cầu phát triển trong lĩnh vực xây dựng và công nghiệp .Có thể đảm đương
việc thi công những công trình thi công lớn hiện đại về công nghệ , năng lực đấu thầu
các công trình xây dựng kể cả trong nước và ngoài nước được tăng cường.
-Đối với ngành dịch vụ
Từ năm 2000 đến năm 2006, giá trị dịch vụ tăng 6.8%/ năm. Du lịch phát triển
đa dạng, phong phú. Chất lượng dịch vụ được tăng lên, tổng doanh thu dịch vụ tăng
9.7%/ năm

Dịch vụ vận tải đáp ứng nhu cầu giao lưu hàng hoá và đi lại của nhân dân khối
lượng hàng hoá luân chuyển tăng 12%/ năm và luân chuyển hành khách tăng 5.5%/
năm.
Các dịch vụ tài chính kiểm toán ngân hàng được mở rộng
-Văn hoá -xã hội có những tiến bộ ,đời sống nhân dân đựơc cải thiện.
Quy mô giáo dục và đào tạo có bước phát triển cả về quy mô lẫn hình thức
đào tạo và cơ sở vật chất .Quy mô giáo dục đào tạo tiếp tục tăng ở tất cả các bậc học
,ngành học đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Nước ta đã chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập tiếu học . Một số tỉnh
thành phố đã bắt đầu thực hiện phổ cập trung học cơ sở .Trình độ dân trí và chất
lượng nguồn nhân lực được nâng lên , phong trào học tập văn hoá, khoa học kỹ thuật
nghiệp vụ quản lý vv Phát triển số sinh viên trên một vạn dân vào năm 2000 là
117 sinh viên . Số năm đi học của dân là 7,3/ năm . Cơ sở vật chất hạ tầng cho giáo
dục được phát triển. Trong lớp được mở rộng về số lượng lẫn loại mô hình đào tạo.
Mạng lưới các trường đại học ,cao đẳng được mở rộng và sắp xếp lại .
Khoa học công nghệ có bước chuyển biến tích cực cụ thể là: khoa học xã hội
và nhân văn bắt đầu cung cấp được các luận cứ khoa học phục vụ yêu cầu hoạch định
chính sách, chiến lược quy hoạch và phát triển kinh tế xã hội và đổi mới cơ chế
chính sách . Công tác nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh nên đã có nhiều đề tài có

tác dụng lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội . Số lượng đội ngũ nhà khoa học gia
tăng nhanh.
Các hoạt động văn hoá nghệ thuật báo chí xuất bản phát triển
Nhu cầu cần thiết của nhân dân về ăn mặc ở ,chăm sóc sức khoẻ, nước sạch
,điện sinh hoạt, học tập ,giải trí được đáp ứng .
Tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động .Công tác xoá đói giảm nghèo
đã đạt được kết quả nổi bật .Tỷ lệ hộ nghèo giảm .Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa,lá
lành dùm lá rách được mở rộng
-Quốc phòng và an ninh được tăng cường .Vì kinh tế phát triển làm cho ta có
cơ hội ổn định xã hội .Quốc phòng được tăng cường về trang thiết bị vũ khí hiện đại .
-Quan hệ đối ngoại được mở rộng:

Chúng ta đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, ra nhập khối các nước Đông
Nam á ASEAN, ra nhập khối diễn dàn hợp tác kinh tế Thái Bình Dương APEC, trở
thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO .Tăng cường quan hệ
với các nước đang phát triển, các tổ chức quốc tế và khu vực .Có quan hệ thương
mại với hơn 140 quốc gia trên thế giới, có quan hệ đầu tư với 70 quốc gia và vùng
lãnh thổ.Thu hút được nhiều vốn nước ngoài đầu tư vào nước ta.
-Nông thôn có sự thay đổi rõ rệt về bộ mặt.
-Thành thị ngày càng mở rộng và rất hiện đại .

2. Nguyên nhân để Việt Nam thu được những thành tựu to lớn trong quá trình CNH-
HĐH
Những thành công đã đạt được trong quá trình CNH-HĐH đã từng bước làm
đổi thay bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc
và chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, nâng cao vị thế của đất nước ta trên thị trường quốc tế.
Nguyên nhân chính để chúng ta có được điều trên là:
-Do Đảng ta không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng .Do Đảng ta
có bản lĩnh chính trị vững vàng,đường lối hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã
hội đúng đắn.Từ đó làm cho nhân dân tin tưởng vào đương lối lãnh đạo của Đảng nên

chúng ta mới có thể thu được những kết quả to lớn trên.
-Do nhà nước đã không ngừng nâng cao năng lực điều hành quản lý. Nó thể
hiện nhà nước đã đẩy nhanh quá trình cải cách hành chính, làm cho bộ máy trong
sạch vững mạnh .Từ đó làm cho chính sách phát triển kinh tế đi vào thực tế nhanh
hơn.
-Do toàn dân, toàn quân đã phát huy được tinh thần yêu nước dũng cảm đoàn
kết nhất trí, cần cù năng động sáng tạo tiếp tục thực hiện đổi mới ra sức xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
-Do đất nước ta có một số cơsở hạ tầng như (hệ thống cầu đường, bến cảng, hệ
thống ngân hàng, bảo hiểm, hệ thống điện, ). Đây là một số cơ sở hạ tầng thúc đẩy
sản xuất phát triển.

-Do chính sách mở cửa cho tất cả các thành phần kinh tế phát
triển.Từ đó làm cho tất cả thành phần kinh tế phát huy được thế mạnh của mình trong
sản xuất .Và tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế tạo ra động
lực phát triển kinh tế.
-Do hệ thống trao đổi hàng hoá trong nứơc và nứơc ngoài phát triển .
-Do chúng ta đã huy động được vốn và sử dụng vốn có hiệu qủa trong sản
xuất .Thể hiện chúng ta đã huy động được vốn nước ngoài và trong nước.
-Do chúng ta đã ứng dụng được khoa học kỹ thuật vào đời sống ,đã đẩy mạnh
đổi mới công nghệ sản xuất .Gắn liền nghiên cứu khoa học với sản xuất .
-Do chúng ta đã tận dụng được lợi thế về điều kiện tự nhiên , khí hậu, các mỏ
khoáng sản , sông ngòi, đầm hồ để tận dụng vào sản xuất.

3.Những mặt hạn chế và yếu kém trong quá trình CNH-HĐH ở nước ta.
Trong sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta đã thu được rất nhiều thành công to lớn
.Nhưng cũng không thể tránh khỏi những mặt hạn chế và yếu kém.Sau đây là một số
những mặt yếu kém và hạn chế lớn:
-Thứ nhất: Đánh giá chung nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và
sức cạnh tranh thấp. Năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá

thành cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp , công nghiệp thiếu thị thường tiêu thụ cả
trong nước lẫn ngoài nước.
Đối với ngành nông-lâm-ngư nghiệp nhìn chung mặt yếu kém nhất là chưa
ứng dụng được nhiều thành tựu khoa học-kĩ thuật
vào trong sản xuất , sản xuất vẫn mang tính thủ công là chính, máy móc vẫn chưa
thay thế được cơ bản sức lao động, hiệu quả sức cạnh tranh còn thấp .Rừng bị tàn phá
nặng nề, đánh cá thì còn trên quy mô nhỏ, nuôi trồng thuỷ hải sản vẫn mang tính tự
phát ,vẫn chưa liên kết được thị trường-nhà chế biến-nhà sản xuất và nhà nghiên cứu.
Trong công nghiệp đầu tư dàn trải nhà máy công nghiệp phân bố chưa tập
trung , chưa đổi mới được công nghệ , chưa có mối liên hệ vững chắc giữa các nhà

máy và xí nghiệp. Các công tuy nhà máy xí nghiệp có quy mô nhỏ, sức cạnh tranh
còn thấp . Hơn nữa các ngành công nghiệp phát triển chưa bền vững chưa gắn kết
được tiến bộ của khoa học kỹ thuật với sản xuất.
Các ngành dịch vụ phát triển chậm và thiếu lành mạnh , nạn buôn lậu hàng
giả, gian lận thương mại còn nhiếu làm tác động xấu đến nền kinh tế, xã hội .Hệ
thống phân phối sản phẩm chưa mạnh , trong nước chủ yếu là hệ thống bán lẻ hộ gia
đình ,ngoài nước vẫn chưa phát triển rõ ràng.
Hệ thống ngân hàng tài chính còn yếu kém và thiếu lành mạnh .
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý , cơ cấu đầu tư
còn phân tán gây lãng phí và thất thoát nhiều. Nhịp độ đầu tư trực tiếp của nước
ngoài giảm, công tác quản lý điều hành lĩnh vực này còn nhiều vướng mắc và thiếu
sót.
-Thứ hai: một số vấn đề văn hoá xã hội bức xúc và gay gắt chậm giải quyết.
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao
đang là một trong những vấn đề nổi cộm nhất của xã hội . Chất lượng giáo dục và
đào tạo thấp so với yêu cầu. Nội dung , mục tiêu, chương trình, phương pháp dạy và
học, sách giáo khoa , thi cử, cơ cấu đào tạo, có những hiện tượng tiêu cực đáng lo
ngại. Đào tạo chưa gắn với sử dụng gây lãng phí. Chi phí học tập cao so với khả
năng thu nhập của dân, nhất là của người nghèo. Giáo dục và đào tạo ở miền núi

,vùng sâu vùng xa còn thiếu nhiều khó khăn . Các hoạt động khoa học và công nghệ
chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Môi trường đô thị, nơi công nghiệp tập trung và một số vùng nông thôn bị ô
nhiễm ngày càng nặng.
Công tác quản lý báo chí ,văn hoá ,xuất bản nhiều mặt buông lỏng để nảy sinh
những khuynh hướng không lành mạnh
Một số giá trị văn hoá và đạo đức xã hội suy giảm, mê tín hủ tục phát triển .
Cơ sở vật chất của ngành y tế còn nhiều thiếu thốn, lạc hậu , nhất là ở tuyến
huyện xã. Việc khám và chữa bệnh cho nhân dân, nhất là cho đồng bào nghèo, còn
phiền và nhiều tiêu cực.

Mức sống nhân dân , nhất là nông dân ở một số vùng quá thấp. Chính sách
tiền lương và phân bố trong xã hội còn nhiều bất hợp lý. Sự phân hoá giàu nghèo
giữa các vùng , giữa thành thị và nông thôn, giữa tầng lớp dân cư tăng nhanh chóng.
Tình trạng khiếu kiện của nhân dân kéo dài và phức tạp chưa được các cấp các
ngành giải quyết kịp thời.Các loại tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn ma tuý và tệ nạn mại
dâm lan rộng .Số ngưới nhiễm HIV và AIDS tăng, trật tự an toàn xã hội chưa được
đảm bảo vững chắc.

4. Nguyên nhân của những hạn chế và yếu kém trong quá trình CNH-HĐH ở Việt
Nam .
Sở dĩ có tình trạng yếu kém và hạn chế đó là do những nguyên nhân chủ quan
và khách quan :
-Các nguyên nhân chủ quan chính là:
Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của đảng chưa tốt
kỷ luật kỷ cương chưa nghiêm. Tình trạng tuỳ tiện , t hiếu tổ chức kỷ luật và tinh
thần trách nhiệm còn nhiều, không chấp hành chỉ thị nghị quyết của Đảng ,pháp luật
chính sách của nhà nước vẫn còn phổ biến .Tình trạng báo cáo không trung thực còn
nhiều .Từ đó làm cho các chủ trương khó đi vào cuộc sống.Công tác chỉ đạo điều
hành ở các cấp ,các ngành còn nhiều bất cập vẫn chưa kiểm tra đôn đốc kịp thời ,vẫn

chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện nên kết quả chưa nghiêm.
Nhiều nhiệm vụ công tác lớn đã được đễ ra nhưng thực hiện chưa đến nơi đến chốn,
chỉ nói mà không làm. Nhiều cán bộ Đảng viên, công chức vi phạm pháp luật xử lý
chưa thật kiên quyết.
Một số quan điểm chủ trương chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được
thông suốt giữa các cấp các ngành. Trong cán bộ Đảng viên có cách hiểu, cách làm
không thống nhất về nội dung và các bước đi trong quá trình CNH-HĐH nước nhà.
Cải cách hành chính tiến hành còn chậm thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp gây
cản trở CNH-HĐH. Thể hiện bộ máy cồng kềnh với chức năng trùng lặp . Không ít
trường hợp trên trung ương và địa phương hành động không thống nhất gây khó

khăn cho việc phát triển kinh tế xã hội và làm giảm động lực phát triển một số ngành
và cơ quan do lợi ích cá nhân cục bộ nên không muốn đẩy mạnh cải cách hành chính
, cải cách bộ máy tổ chức nhà nước . Không ít cán bộ công chức vừa kém về trình độ
đạo đức ,vừa yếu về năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ làm cản trở cho CNH-
HĐH đất nước
Vốn cho sản xuất huy động chưa đủ và sử dụng chưa có hiệu quả . Quá trình
CNH-HĐH cần rất nhiều vốn đầu tư vào sản xuất và đổi mới công nghệ, công tác kêu
gọi vốn trong nước và nước ngoài vẫn chưa mạnh . Các chính sách kêu gọi chưa
thích hợp.ở trong nước các kênh huy động vốn còn ít và kém hiệu quả khiến thiếu
vốn trong sản xuất trong khi vốn dư thừa trong dân còn nhiều bất cập gây ra lãng phí
làm cho nơi cần vốn thì không có , nơi không cần thì lại thừa .
Trình độ tay nghề của ngươi lao động còn thấp chưa đáp ứng nhu cầu hiện
nay .Trong quá trình CNH-HĐH nhiều máy móc hiện đại đòi hỏi người lao động phải
có tay nghề cao để làm chủ máy móc nhưng do hệ thống đào tạo người lao động còn
nhiều bất cập gây tình trạng nhà máy,xí nghiệp thiếu lao động trong khi thất nghiệp
vẫn nhiều .
Thành tựu khoa học ứng dụng vào trong sản xuất còn chậm công tác đổi mới
công nghệ còn chậm .Công tác nghiên cứu khoa học cơ bản vẫn chưa gắn với sản
xuất nhiều đề tài có tác dụng lớn trong sản xuất nhưng việc ứng dụng vào trong thực

tế còn chậm . Nguyên nhân chủ yếu là do nhà sản xuất chưa trực tiếp tìm tới nhà
khoa học ,chưa thấy được tác dụng của việc chạy đua về khoa học công nghệ .
Công tác nghiên cứu trị thường , công tác phân phối sản phẩm còn ở trình độ
thấp . Nhiều khi sản phẩm sản xuất ra không bán được vì khi sản xuất nhà sản xuất
không tính được xã hội có cần sản phẩm đó không . Nhiều khi thị trường rất cần
nhưng sản xuất chưa kịp .Các kênh phân phối hàng trong nước chủ yếu nhỏ mang
tính hộ gia đình, chưa có tính liên kết giữa lớn giữa các nhà phân phối .Thị trường
ngoài nước vẫn chưa có tìm hiểu kỹ càng cho nên gây ra nhiều rủi ro cho sản xuất, hệ
thống phân phối sản phẩm của nước ta ra nước ngoài chưa mạnh nhưng cạnh tranh
tốt

×