ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN PHAN NGỌC BÍCH
TRẦN PHAN NGỌC BÍCH
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA MỘT SỐ BẢN GIA HUẤN
TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ
CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 9229001
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM - 2021
Luận án được hoàn thành tại:
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS: Trần Nguyên Việt
PHẢN BIỆN ĐỘC LẬP:
PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương
PGS.TS. Vũ Đức Khiển
Phản biện 1:. PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa
Phản biện 2.: PGS.TS. Vũ Đức Khiển
Phản biện 3: PGS.TS. Phạm Đào Thịnh
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cơ sở đào tạo họp tại:.
vào ……………………………………………………………
hồi……. giờ……. ngày….. tháng…. Năm…
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- ……………………………………………………………
- ……………………………………………………………
- ……………………………………………………………
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục đạo đức cho con người nói chung, cho các đối tượng là học sinh nói
riêng, là vấn đề vừa mang tính cấp bách, vừa lâu dài nhằm tạo ra những con người
như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, “vừa hồng vừa chuyên”. Chữ “hồng” ở đây
chỉ đạo đức của con người ln đặt lợi ích cộng đồng, dân tộc lên trên hết, Người
gọi đó là đạo đức cách mạng. Đó là đạo đức “khơng phải trên trời sa xuống. Nó do
đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”( Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, t.5,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.612.).
Tuy nhiên, trong q trình vận động hồn thiện nhân cách con người,
chúng ta đều biết một điều chắc chắn rằng, không thể thiếu sự giáo dục, xã hội hóa
từ bên ngồi để nhân cách được hình thành một cách hồn tồn hơn. Với lẽ đó,
việc giáo dục đạo đức ln địi hỏi sự thống nhất hữu cơ giữa nhà trường, gia đình
và xã hội vì những mục tiêu được xác định theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể của
đất nước. Về vấn đề này, Bác Hồ cũng từng khẳng định: “Giáo dục trong nhà
trường chỉ là một phần, cịn cần có sự giáo dục ngồi xã hội và trong gia đình để
giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường
dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngồi xã hội thì kết quả
cũng khơng hồn tồn”(Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr.591).
Là một nước nằm trong khu vực Đông – Đông Nam Á vốn chịu ảnh hưởng
khá sâu đậm học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo, cho nên hệ thống giáo dục
truyền thống và đi kèm với nó là khoa cử nước ta từ thời Bắc thuộc đều mang đậm
dấu ấn của Nho giáo. Đặc biệt từ thời Lý, các hình thức tổ chức giáo dục dần phát
triển và ngày càng qui củ hơn, kéo theo đó là những nội dung và hình thức giáo
dục lấy Nho học làm nền tảng được định hình. Tuy nhiên, ngồi các hình thức tổ
chức trường lớp ở trung ương và địa phương, chúng ta cịn biết đến một hình thức
giáo huấn hết sức quan trọng, nó góp phần củng cố chế độ phong kiến hiện hữu và
được coi là hình thức giáo dục đầu tiên, đầu đời cho con trẻ, đó là gia huấn.
Xuất phát từ quan điểm “ôn cố tri tân” của Nho giáo, từ quan điểm của triết học
chủ nghĩa Mác – Lê nin về kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống cũng như
quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nền giáo dục đất nước
trong điều kiện hiện nay, chúng tôi chọn “Nội dung cơ bản của một số gia huấn
Việt Nam trong lịch sử và bài học lịch sử của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho
2
học sinh nước ta hiện nay” qua hai bản “Bùi gia huấn hài” và “Gia huấn diễn ca”
làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình với hy vọng đóng góp dù nhỏ nhưng
hữu ích cho sự nghiệp xây dựng một nền giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển của
đất nước ta hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung, lịch sử tư tưởng giáo dục Việt
Nam nói riêng là lĩnh vực được nhiều học giả quan tâm. Tuy nhiên, trong lịch sử
tư tưởng giáo dục, mảng giáo huấn mà cụ thể là gia huấn ít được quan tâm khai
thác và nghiên cứu thỏa đáng, do đó trong luận án này, chúng tơi tạm phân định
thành ba hướng nghiên cứu cơ bản có liên quan tới đề tài của mình như sau:
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở hình thành các gia huấn Việt Nam
trong lịch sử
1.1.1. Những cơng trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị xã hội
Việt Nam cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XX
Nghiên cứu bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ này phải kể đến cơng trình
Đại cương lịch sử Việt Nam do Đinh Xuân Lâm chủ biên. Đây là cơng trình được
chúng tơi quan tâm sử dụng vào việc phân tích bối cảnh lịch sử và những tiền đề
cơ bản cho sự ra đời các gia huấn, cụ thể là Bùi gia huấn hài (cuối thế kỷ XVIII)
và Gia huấn diễn ca (đầu thế kỷ XX).
Trong cơng trình Phương thức sản xuất châu Á Lý luận Mác – Lê nin và
thực tiễn Việt Nam, tác giả Văn Tạo đã đề cập đến các quan điểm của C.Mác về
phương thức sản xuất châu Á trong sự liên quan đến các yếu tố truyền thống của
phương Đông. Chúng tôi nhận thấy ở cơng trình này có một số vấn đề liên quan
giữa phương thức sản xuất mà C.Mác đề cập có liên quan nhất định đến nguyên
nhân ra đời của các gia huấn mà ở đó, tư tưởng giáo dục Nho giáo được coi là chủ
đạo, chi phối lối sống, phong cách tư duy của con người Việt Nam trong lịch sử.
Ngồi ra cịn có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về lịch sử nước ta, về bối
cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XX.
1.1.2. Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến tiền đề lý luận cho sự
hình thành các gia huấn trong lịch sử
a. Về văn hóa và tư tưởng truyền thống
Trong nhiều cơng trình nghiên cứu của các học giả trong và ngồi nước về
cơ sở văn hóa Việt Nam, có thể kể đến cuốn sách do Trần Quốc Vượng chủ biên
nhan đề: “Cơ sở văn hóa Việt Nam”. Đây là cơng trình khoa học cơ bản giúp
người đọc nắm bắt được những kiến thức cơ bản của văn hóa và những đặc điểm
của văn hóa dân tộc.
3
Tác giả Nguyễn Nghĩa Dân với cuốn sách “Đạo làm người trong tục ngữ ca
dao Việt Nam” gồm 2 phần: phần thứ nhất đề cập đến đặc điểm của tục ngữ ca dao
Việt Nam về đạo làm người; phần thứ hai sưu tập, lựa chọn giải thích tục ngữ ca
dao Việt Nam về đạo làm người.
Tác giả Trần Thị Kim Xuyến trong cơng trình "Gia đình và những vấn đề
của gia đình hiện đại", đã chỉ rõ vai trị, vị trí của gia đình trong xã hội và đối với
mỗi cá nhân, đặc biệt là mặt đạo đức. Trong công trình này tác giả đã đi sâu phân
tích sự biến đổi của gia đình cùng với sự biến đổi của xã hội đương đại.
Đề tài KX07-09 do tác giả Lê Thi chủ biên về "Vai trị của gia đình trong
sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam"; Luận án Tiến sĩ triết
học của tác giả Nghiêm Sĩ Liêm, năm 2001, "Vai trị của gia đình trong việc giáo
dục thế hệ trẻ"; Cơng trình nghiên cứu của tác giả Lê Thi, Nhà xuất bản Hà Nội
năm 2002, "Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới"; Cơng trình
nghiên cứu: "Gia đình học" của hai tác giả: Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý;
Cuốn “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính; Cơng trình nghiên cứu "Văn hóa
gia đình Việt Nam" của tác giả Vũ Ngọc Khánh; Cơng trình nghiên cứu "Đạo đức
gia đình trong nền kinh tế thị trường" của tác giả Nguyễn Thị Khoa, Tạp chí Triết
học số 4 năm 2002, v.v. đã đđề cập đến cơ cấu gia đình hạt nhân và truyền thống
Việt Nam, ảnh hưởng của văn hóa, kinh tế chính trị đến sự biến đổi của đạo đức
gia đình Việt Nam trong lịch sử cũng như điều kiện hiện nay.
b. Về tư tưởng giáo huấn trong tam giáo (Nho, Phật, Đạo)
Cho đến nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về ảnh hưởng của các hệ
tư tưởng và tôn giáo đến đời sống tinh thần nói chung, đến lĩnh vực giáo dục đạo
đức nói riêng của con người Việt Nam trong lịch sử.
Một là, các cơng trình nghiên cứu tư tưởng giáo huấn trong Nho giáo
Cuốn: “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt
Nam hiện nay” do Nguyễn Tài Thư làm chủ biên; Cơng trình nghiên cứu "Gia
đình Việt Nam và ảnh hưởng của Nho giáo" của tác giả Trần Đình Hượu, đăng
trong cuốn Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam; Cơng trình nghiên
cứu "Nho giáo và gia đình"; Cuốn "Nho giáo và phát triển ở Việt Nam" của Vũ
Khiêu; Tác phẩm “Không học đăng” của Phan Bội Châu, v.v., đều bàn đến sự ra
đời và các bước thăng trầm của Nho giáo cũng như sự du nhập của Nho giáo và
ảnh hưởng của nó đến Việt Nam.
Tác giả Trần Trọng Kim với tác phẩm Nho giáo; Công trình “Nho giáo
Trung Quốc” của Nguyễn Tơn Nhan; Tào Thượng Bân với cuốn Tư tưởng nhân
bản của Nho học Tiên Tần, v.v. đều tập trung phân tích vai trị của đạo Hiếu từ vị
thế là gốc của đức nhân, đã vượt ra ngồi quan hệ gia đình để trở thành phạm trù
đạo đức trong đường lối trị nước của các triều đại phong kiến. Một số tác giả khác
4
đã làm rõ những ảnh hưởng của Nho giáo trên các mặt: Chính trị, xã hội, tư tưởng,
văn hóa... Cao Xuân Huy với cuốn “Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn
tham chiếu”; cuốn “Khổng Tử và Luận ngữ” của Nguyễn Hiến Lê; Nho giáo và
đạo đức của Vũ Khiêu, Nho học và Nho học Việt Nam của Nguyễn Tài Thư,
Khổng giáo phê bình tiểu luận của Đào Duy Anh... là những tác phẩm đã chỉ ra
những yếu tố tiêu cực trong Nho giáo cần phải khắc phục, cũng như những ảnh
hưởng tích cực của Nho giáo cần được tiếp thu góp phần xây dựng đất nước trong
giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh các tác giả bàn về những ảnh hưởng có tính chất tích cực, cũng có
những tác giả có quan điểm ngược lại, nhấn mạnh mặt tiêu cực của đạo đức Nho
giáo, chẳng hạn cuốn Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm, Nho giáo tại Việt
Nam của Lê Sĩ Thắng; Bộ sách 2 tập về “Đại cương triết học Trung Quốc” của
Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê; Công trình Lịch sử triết học phương Đơng do Dỗn
Chính chủ biên, v.v.
Ngồi ra có một số luận án cũng đề cập đến đạo đức Nho giáo, vấn đề con
người trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam như: Ảnh hưởng của
Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống của Trần Thị Hồng
Thúy; luận án Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ của Nguyễn Tài Thư; luận
án Quan niệm của Nho giáo nguyên thủy về con người và ý nghĩa của nó đối với
việc giáo dục con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Nguyễn Thị Nga, v.v. đều tập trung bàn về vấn đề con người với tư cách là đối
tượng của một học thuyết với mục đích làm rõ cách thức thực hiện mục tiêu chính
trị bằng đạo đức, tức là lấy đạo đức để cảm hóa con người trong việc thiết lập và
duy trì trật tự xã hội.
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến nội dung cơ bản của các gia huấn
Việt Nam trong lịch sử
Tác phẩm “Nho giáo với văn hóa Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Đăng
Duy; Cuốn sách “Việt Nam văn hóa sử cương” của học giả Đào Duy Anh; Luận
án Tiến sĩ của tác giả Lê Thị Thủy về "Vai trò đạo đức đối với nhân cách con
người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay"; Cơng trình "Đạo đức xã hội ở
nước ta hiện nay-vấn đề và giải pháp" do Nguyễn Duy Q chủ biên; Cơng trình
của Phạm Cơn Sơn: "Đạo nghĩa trong gia đình"; Cơng trình nghiên cứu "Đạo trị
gia" của tác giả Trí Tuệ; Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thọ, năm 2010,
"Đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay"; Cơng
trình nghiên cứu của tác giả Hà Văn Tác về “Vai trò của gia đình đối với sự phát
triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở TP. Hồ Chí
Minh”, v.v. đã làm rõ khái niệm gia đình và vai trị của gia đình trong việc phát
triển nguồn lực của đất nước ta hiện nay.
5
1.3. Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến ý nghĩa của gia huấn
đối với lĩnh vực giáo dục đạo đức cho học sinh nước ta hiện nay
Mặc dù nhiều cơng trình nghiên cứu ở trên từ những góc cạnh nông sâu
khác nhau liên quan đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam, song việc
làm rõ ý nghĩa của các gia huấn đến giáo dục đạo đức cho học sinh nước ta vẫn
cịn khiêm tốn, chưa nói đến thực tế là rất hiếm. Tuy nhiên, nhiều công trình dưới
đây có thể coi là đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề này.
Đó là: Cơng trình nghiên cứu "Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam" do
Phan Đại Dỗn chủ biên; Cơng trình tập thể về “Một số vấn đề lối sống, đạo đức,
chuẩn giá trị xã hội” do Huỳnh Khái Vinh chủ biên; Luận án tiến sĩ Giáo dục học
về “Giáo dục lòng nhân nghĩa cho học sinh trung học phổ thông trong giai đoạn
hiện nay” của Nguyễn Xuân Thanh; Bàn về thực học, chúng tôi nhận thấy bài viết
của Dương Ngọc Dũng đăng trên “Tuổi trẻ chủ nhật” ngày 28/5/2015; Thái Huy
Phong trong bài viết về “Ý nghĩa của vấn đề thực học” đăng trên trang điện tử Đại
tạng kinh Việt Nam ngày 02/3/2010; Trong cuốn “Phát triển giáo dục, phát triển
con người phục vụ phát triển xã hội kinh tế”của tác giả Phạm Minh Hạc; Bài viết
“Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong trường phổ thông hiện nay” của
Phạm Nguyên Nhung đăng trên tạp chí Lý Luận chính trị số 3/2013; Ngồi những
cơng trình nêu trên, chúng ta có thể tìm thấy một số bài viết cơng bố trên các trang
báo điện tử về giáo dục đạo đức nói chung, đạo làm người nói riêng.
Tóm lại, các cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan đến thực trạng nền giáo
dục nước ta thời gian qua đã tập trung phân tích những thành tựu và hạn chế trong
việc thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào
tạo. Tuy nhiên, những kết quả đạt được không như kỳ vọng của xã hội, chưa chú
trọng đến một số giá trị cơ bản của giáo dục truyền thống, cụ thể là hình thức giáo
dục bằng gia huấn. Đó cũng là những vấn đề cịn bỏ ngỏ mà luận án chúng tơi tiếp
tục nghiên cứu về hình thức, đối tượng, nội dung và phương pháp giáo huấn được
thể hiện qua hai bản gia huấn là “Bùi gia huấn hài” của Bùi Dương Lịch và “Gia
huấn diễn ca” (khuyết danh) với mục đích và nhiệm vụ dưới đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở trình bày sự hình thành và hệ thống hóa những nội dung tư tưởng giáo
huấn cơ bản trong “Bùi gia huấn hài” và “Gia huấn diễn ca”, luận án chỉ ra những
giá trị, hạn chế và bài học lịch sử của các gia huấn đó đối với việc giáo dục đạo
đức cho học sinh nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án cần thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
6
Thứ nhất, phân tích, trình bày những điều kiện, tiền đề cơ bản cho sự ra đời các
bản gia huấn Việt Nam trong lịch sử
Thứ hai, phân tích hệ thống hóa những nội dung tư tưởng giáo huấn cơ bản trong
“Bùi gia huấn hài” và “Gia huấn diễn ca”, trên cơ sở đó chỉ ra những đặc điểm chủ
yếu của hai bản gia huấn này.
Thứ ba, từ việc phân tích các nội dung giáo huấn cơ bản và đặc điểm chủ yếu của
“Bùi gia huấn hài” và “Gia huấn diễn ca”, luận án nêu những giá trị, hạn chế và
bài học lịch sử của của hai bản gia huấn này đối với việc giáo dục đạo đức cho học
sinh nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những tư tưởng giáo huấn cơ bản trong nội
dung hai bản gia huấn là “Bùi gia huấn hài” của Bùi Dương Lịch và “Gia huấn
diễn ca (Khuyết danh).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do các bản gia huấn Việt Nam trong lịch sử có số lượng khá nhiều và phong phú
về mặt nội dung, trong luận án này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu hai bản gia
huấn được xem là điển hình về nội dung và hình thức, cụ thể là Bùi gia huấn hài
của Bùi Dương Lịch và Gia huấn diễn ca (khuyết danh) cũng như các cơng trình
nghiên cứu về gia huấn nói chung, về hai bản gia huấn này nói riêng.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh nước ta
hiện nay. Ngoài ra luận án tiếp thu, kế thừa những thành tựu đạt được của một số
cơng trình khoa học đã được cơng bố liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học, cụ thể: phân tích – tổng hợp, logic – lịch sử cụ thể, quy nạp và diễn dịch, khái
quát hóa, đối chiếu so sánh; tham khảo và sử dụng các phương pháp liên ngành
như Sử học, Địa lý, Giáo dục học, v.v.
6. Những đóng góp mới về khoa học,
7
- Từ việc phân tích, làm rõ những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời cũng như những
nội dung cơ bản của Bùi gia huấn hài và Gia huấn diễn ca, luận án làm rõ giá trị
và hạn chế của hai bản gia huấn này từ góc độ giáo dục đạo đức.
- Làm rõ khái niệm đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức đối với lĩnh vực giáo
dục đạo đức cho học sinh nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng nền giáo dục đạo đức cho học sinh nước ta từ thời kỳ đổi
mới đến nay, làm rõ nguyên nhân của những thành tựu cũng như hạn chế của thực
trạng đó, đồng thời đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những thành
tựu đạt được và khắc phục những mặt hạn chế trong lĩnh vực giáo dục đạo đức cho
học sinh nước ta hiện nay trên cơ sở bài học lịch sử từ Bùi gia huấn hài và Gia
huấn diễn ca.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần tìm hiểu những tư tưởng cơ bản trong nội dung Bùi gia huấn hài
và Gia huấn diễn ca, chỉ ra những giá trị và hạn chế cũng như ý nghĩa của các bản
gia huấn này đối với lĩnh vực giáo dục đạo đức cho học sinh nước ta hiện nay.
Luận án chỉ ra sự cần thiết của việc kế thừa và phát huy các giá trị của giáo dục
truyền thống qua nghiên cứu Bùi gia huấn hài và Gia huấn diễn ca trong lĩnh vực
giáo dục đạo làm người cho học sinh nước ta hiện nay.
Luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định chủ trương,
chính sách phát triển giáo dục đạo đức cho học sinhtrên cơ sở phân tích thực trạng
và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới “căn bản
và tồn diện nền giáo dục đào tạo nước ta hiện nay”.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng dạy và học tập
môn lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam nói riêng, lịch sử triết học phương Đơng
nói chung. Luận án cũng là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến đạo đức,
giáo dục đạo đức của gia huấn Việt Nam trong lịch sử cũng như tư tưởng giáo dục
của Nho giáo.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án
gồm 3 chương 9 tiết.
NỘI DUNG
Chƣơng 1
8
CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
HÌNH THÀNH CÁC GIA HUẤN VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ
1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ, ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ XÃ HỘI VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XVIII – ĐẦU THẾ KỶ XX
Gia huấn là một trong những hình thức giáo huấn, giáo dục của Nho giáo nhằm
thiết lập, củng cố các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình mà đối tượng
của nó là con em từ lúc sơ sinh cho đến tuổi trưởng thành. Với tư cách là một
trong những loại hình giáo dục, gia huấn đương nhiên phải phản ánh triết lý, hay
nói cách khác, phản ánh tâm thế của thời đại về giáo dục và đào tạo con người lẽ
sống vì bản thân, gia đình và cộng đồng. Chính vì vậy, việc phân tích, trình bày
bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XX, điều kiện kinh tế,
chính trị - xã hội và những tiền đề lý luận đương thời cho sự hình thành “Bùi gia
huấn hài” và “Gia huấn diễn ca” là hết sức cần thiết.
1.1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XX
Thứ nhất, tác phẩm “Bùi gia huấn hài” của Bùi Dương Lịch, một nho gia có trình
độ Nho học xuất thân từ giịng họ khoa bảng và đồng thời cũng là người tham gia
hoạt động nhà nước, được ông viết vào cuối thế kỷ XVIII trong điều kiện lịch sử
đất nước hết sức phức tạp. Đại Việt thời kỳ này bị chia cắt bởi các thế lực phong
kiến đối lập nhau dưới tên gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài, vua Lê – chúa Trịnh
cai quản Đàng Ngoài và bên kia là chúa Nguyễn cai quản Đàng Trong.
Thứ hai, bản “Gia huấn diễn ca” (khuyết danh) ra đời ở vùng đất Nam Bộ vào đầu
thế kỷ XX, tức là vào thời kỳ đất nước bị thực dân Pháp đô hộ và bắt đầu tiến hành
khai thác thuộc địa lần thứ hai. Chính vì vậy, sự xuất hiện của “Gia huấn diễn ca”
dù có đề cập đến những nguyên tắc đạo đức Nho giáo về tinh thần trung quân,
song trên thực tế cũng chỉ mang tính hình thức và những nội dung cốt lõi khác của
nó chủ yếu vẫn là làm thế nào để dạy con em mình.
1.1.2. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội
Về kinh tế
Đại Việt cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XX vẫn là một nước nông nghiệp lạc
hậu, do đó yếu tố quyết định đến phương thức sản xuất chủ yếu vẫn là quan hệ sở
hữu về ruộng đất. Việt Nam trong lịch sử không trải qua các hình thái kinh tế - xã
hội như phương Tây, song cũng như các nước châu Á khác, đã duy trì một phương
thức sản xuất cổ đại được C.Mác biểu thị bằng khái niệm “phương thức sản xuất
châu Á”. Mặc dù bị qui định bởi “phương thức sản xuất châu Á” với những đặc
trưng cơ bản của nó, trong thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XX các ngành thủ công
nghiệp, kéo theo đó là thương nghiệp cũng bắt đầu có những chuyển biến tích cực.
9
Nhà nước với quyền thu tô theo đơn vị ruộng đất để một mặt, nuôi bộ máy quan
lại và triều đình, mặt khác để chi cho việc hà đê và dẫn thủy nhập điền. Chính vì
vậy, vấn đề giáo dục và giáo huấn đạo đức sẽ giúp cho con người nhận thức được
trách nhiệm của bản thân trước nhà, làng, nước trong việc đóng
Về chính trị - xã hội
Từ việc phân tích ở trên về phương thức sản xuất châu Á với hình thức sở hữu
cơng cộng về ruộng đất do nhà vua (triều đình) nắm giữ, cho thấy đây cũng là cơ
sở để nhà nước phong kiến phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng từng
bước củng cố và phát triển chế độ phong kiến trung ương tập quyền ngày càng
cao.
Mục đích thắt chặt sự lệ thuộc từng cá nhân, cộng đồng vào bộ máy trung ương
tập quyền trên cơ sở thiết lập nền giáo dục, giáo huấn được xem là khả dĩ nhất.
Tình hình kinh tế, chính trị - xã hội của Đại Việt nửa cuối thế kỷ XVIII rơi vào
khủng hoảng. Nạn đói kéo dài trầm trọng không chỉ bởi thiên tai, mà nguyên nhân
khác nữa là chính sách thuế thổ sản của nhà nước làm cho nhân dân vô cùng cực
khổ. Về mặt xã hội, Việt Nam đầu thế kỷ XX cũng có những biến đổi, trước hết là
sự xuất hiện của những giai cấp, tầng lớp mới.
Trong bối cảnh lịch sử và tình hình kinh tế, chính trị - xã hội Việt Nam như vậy,
các nhà nho Việt Nam dù có trực tiếp tham gia vào các phong trào yêu nước hay
không, trong tâm thế của họ bao giờ cũng mang nỗi ưu tư về sự mất nước và chính
họ thấm nhuần hơn bao giờ hết nguyên tắc “quốc gia hưng vong, sĩ phu hữu trách”
và “tấm lòng “lo trước vui sau thiên hạ”. Chúng tơi cho rằng, đó cũng là cơ sở để
bản “Gia huấn diễn ca” ra đời, và mặc dù trong nội dung của nó khơng nói đến
đấu tranh hay giải phóng đất nước, dân tộc nhưng một số nội dung giáo dục thực
học về lịch sử, địa lý, v.v. đã nói lên điều tiềm ẩn đó của tâm hồn con người Việt
Nam.
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
1.2.1. Văn hóa truyền thống dân tộc
Trong sự hình thành các gia huấn Việt Nam dưới thời phong kiến, chúng ta đều
cảm nhận được vai trò của văn hóa truyền thống dân tộc được biểu hiện dưới dạng
ca dao, tục ngữ và những tài liệu liên quan đến qui định sinh hoạt của gia đình,
dịng họ, làng xóm như gia phong, gia lễ, tộc ước, hương ước và cao nhất, đó là
các bộ hình luật mà các triều đại phong kiến ban hành.
Ngoài ra, cần phải đề cập đến một yếu tố qui định nội dung của giáo huấn là luật
pháp thành văn của nhà nước phong kiến mà chúng ta được biết đến như hai bộ
luật tiêu biểu, khá hồn chỉnh như Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) và
Hoàng triều luật lệ (Luật Gia Long). Các điều khoản trong những bộ luật này về
10
thực chất là luật pháp hóa các qui tắc đạo đức ứng xử của con người với nhau, con
người với xã hội vì mục tiêu ổn định trật tự xã hội, đồng thời thắt chặt sự ràng
buộc và lệ thuộc của con người vào cấu trúc hình tháp của mơ hình nhà nước này.
Chính vì vậy, trong lịch sử chế độ phong kiến, vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497)
đã ban “Nhị thập huấn điều” (1470) để giáo huấn dân. Các ơng vua triều Nguyễn
(1802-1945) cũng có những tâm thế tương tự như Lê Thánh Tơng, vì vậy, đến đầu
thế kỷ XX, dù vua Nguyễn thời bấy giờ chỉ là bù nhìn, nhưng theo tinh thần Nho
giáo, đất nước khơng thể thiếu vua, tinh thần trung qn vẫn khơng hồn tồn bị
xóa đi trong tâm khảm người dân, đặc biệt là những nhà nho khi đó đang tìm cách
vãn hồi những giá trị tốt đẹp của Nho giáo trước sự xâm nhập ngày một gia tăng
của văn hóa phương Tây vào Việt Nam.
1.2.2. Ảnh hƣởng Tam giáo (Nho, Phật, Đạo) đến sự hình thành các gia huấn
Nho giáo là học thuyết mang tư tưởng nhân bản sâu sắc. Ngay từ thời
Tiên Tần, Nho giáo đã chú trọng đến đối tượng của nó là con người, trong đó đạo
làm người chiếm vị thế chủ đạo. Để triển khai tư tưởng nhân bản, Khổng Tử lấy
vấn đề nhân tính con người làm xuất phát điểm, trở thành chủ đề quan trọng cho
các học trị của ơng “suy tư tìm hiểu về nhân tính luận, diện mạo vốn có của con
người”.
Vì có chung mục đích dạy cách làm người nên cuốn sách rất gần gũi, thậm chí là
nguồn tư liệu để các tác giả của “Gia huấn” lấy đó làm cơ sở cho sự biên soạn
thành sách dạy trẻ trong gia đình. Thêm nữa, việc khẳng định các thánh hiền đời
xưa phát biểu ra những nguyên tắc mang tính chỉ đạo cho việc dạy người không
chỉ riêng của Nho giáo, mà cả từ các học thuyết triết học, tôn giáo khác như Lão
giáo hay Phật giáo. Tư tưởng Lão – Trang thường ảnh hưởng trực tiếp đến giới trí
thức Nho học hơn cả bởi những lập luận, suy lý uyên bác của nó mà thoạt kỳ thủy,
người đọc kinh điển của học thuyết này như sách Đạo Đức kinh của Lão Tử, Nam
Hoa kinh của Trang Tử. Tuy nhiên, trong các tác phẩm này chúng ta vẫn tìm thấy
những nội dung thiết thực, có ảnh hưởng khơng nhỏ đến các hành vi đạo đức của
con người như biết dừng, biết đủ, bất tranh, nhu thuận, v.v. Phật giáo cũng là một
học thuyết triết học – tôn giáo được du nhập vào nước ta khá sớm, tồn tại và phát
triển qua hàng trăm năm để hình thành nên những tơng phái mang đặc sắc Phật
giáo Việt Nam. Tư tưởng từ bi hỷ xả của Phật giáo đã kết hợp hài hòa với tinh
thần bác ái, ái vật của Nho và Lão; chủ trương dùng “tam học” (giới, định, tuệ) để
trừ “tam độc” (tham, sân, si) của Phật giáo đã ảnh hưởng không nhỏ tới mục tiêu
tiết dục, quả dục của hai học thuyết kia đã trở thành những bài học quí giá của Gia
huấn trong sứ mệnh dạy cách làm người và đối nhân xử thế cho con người ngay từ
khi đang ở trong “tế bào xã hội”.
1.3. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ “BÙI GIA HUẤN HÀI” VÀ “GIA
HUẤN DIỄN CA”
11
1.3.1. Về khái niệm “Gia huấn”
“Gia huấn” là sự dạy dỗ con em về lề lối ăn ở trong nhà, được trình bày dưới dạng
các bài văn vần, hình thức thơ ca. “Gia huấn” là một trong những hình thức giáo
dục đạo đức, được những người có uy tín về nhân cách và đạo đức sáng tạo ra để
giáo dục cho con em trong gia đình; là sản phẩm của một thời đại lịch sử nó đóng
vai trị quan trọng trong việc thiết lập trật tự xã hội và xây dựng mơ hình xã hội lý
tưởng. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, “Gia huấn” đã trở thành hình thức giáo
dục đạo đức khá phổ biến và ít nhiều mang tính đặc trưng riêng trong giáo dục
đạo đức truyền thống gia đình.
1.3.2. Bùi Dƣơng Lịch và tác phẩm “Bùi gia huấn hài”
Bùi Dương Lịch (1757 – 1827), tự là Tôn Trai và Tôn Thành, hiệu là Thạch Phủ,
người làng An Hội, xã An Toàn, huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà
Tĩnh. Tác phẩm Bùi gia huấn hài (sách dạy trẻ em của gia đình họ Bùi) được Bùi
Dương Lịch biên soạn trong thời gian ông dạy học ở Thăng Long (trước năm
1787). Đây là một cuốn sách giáo khoa dùng để dạy cho trẻ em (tiểu tử) những
kiến thức phổ thông cơ bản nhất.
Về nội dung, theo Bùi Dương Lịch, ông “biên tập những điều yếu ước, trên tự trời
đất nhân vật sinh ra, kế đến đế vương lịch số, lần lượt những sự tích nước Việt ta
khi phân khi hợp, rồi thứ đến đạo học tương truyền, cuối cùng đến phương pháp
tiểu tử đi học. Tôi chiết trung những thuyết các tiên nho phát minh giảng dạy, rồi
đặt thành câu văn, hiệp vận, bằng trắc xem nhau, làm cú đậu 4 chữ một, cả thảy
2000 câu, để cho trẻ con trong gia đình, mới đi học thì học sách ấy”.
1.3.3. Về tác phẩm khuyết danh “Gia huấn diễn ca”
Gia huấn là loại sách dùng để dạy dỗ, khuyên răn những người thân trong gia đình
do các bậc khoa bảng hoặc những người giỏi chữ nghĩa viết ra dựa trên nền tảng
luân lý Nho học hoặc khái quát kinh nghiệm thực tiễn của cuộc sống. Lịch sử các
bản gia huấn được dịch ra Việt ngữ dưới hình thức thơ lục bát có Gia huấn diễn ca
do Võ Văn Sổ dịch Việt ngữ, Nxb phương Đông, 2005, là một bản thơ Nơm.
Về kết cấu và nội dung, “tồn văn “Gia huấn diễn ca” được chi làm 25 điều, dạy
con trai, dạy con gái đạo làm vợ, làm dâu, cách đối đãi trong nhà, ngoài đời…
chiếm dung lượng nhiều là phần dạy con trai, tùy theo độ tuổi mà có những lời bảo
ban thích hợp, dạy tốn pháp, thiên văn, địa dư, lịch sử…
Như vậy, cũng là những tác phẩm thuộc loại hình gia huấn, song Bùi gia huấn hài
và Gia huấn diễn ca có cấu trúc khác nhau, ngôn ngữ được sử dụng cũng khác
nhau: Bùi gia huấn hài được viết bằng chữ Hán, còn Gia huấn diễn ca được viết
bằng chữ Nôm; một bên là văn vần với câu ngắn 4 chữ, một bên là thơ nôm theo
thể câu 6 – 8. Nếu như Gia huấn diễn ca đề cập đến những vấn đề căn bản, liên
12
quan đến cuộc sống thường nhật của con người từ giai đoạn ấu thơ đến tuổi về già,
thì Bùi gia huấn hài chú trọng đến đối tượng “tiểu tử” bắt đầu đi học, cần được
trang bị những kiến thức vượt ra ngồi những kiến thức thường nhật và có hàm
lượng khoa học chun sâu hơn. Chính vì vậy, chúng tơi chọn hai tác phẩm này
một mặt, lấy các vấn đề đặt ra trong tiến trình tu dưỡng đạo đức và phát triển nhận
thức chung của Gia huấn diễn ca làm chủ để và mặt khác, lấy các vấn đề chuyên
sâu theo tinh thần “cách vật trí tri” của Nho giáo trong Bùi gia huấn hài để bổ trợ,
làm cứ liệu luận giải cho vai trò của các gia huấn Việt Nam trong lịch sử.
Tiểu kết chƣơng 1
Gia huấn là hình thức giáo dục tổng thể được áp dụng trong phạm vi đời sống gia
đình để xây dựng và củng cố gia thế, gia phong do các tri thức đương thời biên
soạn. Nhu cầu về hình thức giáo dục này mang tính thường xuyên và liên tục, song
tùy thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa và tư tưởng của
từng thời đại mà nội dung và đặc điểm của từng gia huấn phản ánh nhu cầu của
thời đại đó. Do đó, gia huấn suy cho cùng, được ra đời như sản phẩm của “sự đặt
hàng” gián tiếp từ nhu cầu của thời đại.
Tạo điều kiện cho sự ra đời của các bản gia huấn trong lịch sử nói chung, “Bùi gia
huấn hài” và “Gia huấn diễn ca” nói riêng cịn có các tư liệu q báu của văn hóa
dân tộc là tục ngữ ca dao, hương ước, tộc ước, v.v. Mặt khác, tục ngữ ca dao, luật
pháp, các chỉ dụ, huấn điều của triều đình được ban bố trong thiên hạ đều là những
tiền đề cho sự ra đời của các bản gia huấn trong lịch sử.
Chƣơng 2
MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU
CỦA TƢ TƢỞNG GIA HUẤN TRONG BÙI GIA HUẤN HÀI
VÀ GIA HUẤN DIỄN CA
2.1. MỘT SỐ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN TRONG “BÙI GIA HUẤN
HÀI” VÀ “GIA HUẤN DIỄN CA”
2.1.1. Thế giới quan
Trong hai bản gia huấn “Gia huấn diễn ca” và “Bùi gia huấn hài” có điểm tương
đồng về các môn học “cách vật” mà trước hết, là tìm hiểu thế giới xung quanh con
13
người là gì? Sự hình thành của vũ trụ ra sao? Cấu trúc của bầu trời như thế nào?
Cái gì có thể nâng đỡ được đất và nước? Trời và đất có mối quan hệ với nhau như
thế nào?
2.1.1.1. Quan niệm về vũ trụ
Vũ trụ là tồn thể những gì tồn tại trong khơng gian theo thời gian, trong đó nổi
bật nhất là hệ thống các hành tinh và định tinh, còn vũ trụ luận là lý thuyết về
nguồn gốc của vũ trụ, còn gọi là vũ trụ nguyên thủy luận. Từ khái niệm “vũ trụ”,
trong lịch sử văn minh nhân loại đã xuất hiện nhiều giả thuyết khác nhau về sự
hình thành và tiến hóa của vũ trụ. Chúng ta khơng thể địi hỏi gì thêm ở các tác giả
Gia huấn, song việc đưa vấn đề vũ trụ nguyên thủy vào chương trình dạy học, hay
ít ra là khuyến khich con em tìm hiểu vấn đề này, theo chúng tôi, là hết sức mạnh
dạn bởi đây là đề tài khó.
2.1.1.2. Quan niệm về con người và sự vật
Triết học Trung Hoa cổ đại đã đưa ra nhiều phương án hình thành vũ trụ và vạn
vật, trong đó có cả các phương án duy lý và phi duy lý. Đề cập đến sự ra đời của
người và vật, tính duy lý vẫn áp đảo hơn cả, bởi truyền thống triết học này lấy âm
dương, ngũ hành làm cơ sở, hay còn gọi là “nhị ngũ”. Khái niệm “trời”, “đất” và
“người” (ba bộ phận cấu thành của tam tài) đồng thời là nội dung cơ bản thuộc đối
tượng thế giới quan trong triết học mà Bùi Dương Lịch đã tích hợp chúng từ lịch
sử triết học Trung Hoa cũng như từ quan điểm của các nhà tư tưởng Việt Nam
trong lịch sử khi họ đề cập đến các đối tượng này.
Sự xuất hiện của người và vật mới chỉ là giả thuyết, vấn đề ở chỗ làm thế nào mà
con người và vạn vật tiếp tục sinh sôi. Bùi Dương Lịch dựa vào Thái cực đồ thuyết của Châu Đôn Di để lý giải việc đó trong phần nguyên chú của bài học: “Chân
lý của vơ cực, tinh khí của nhị ngũ, hỗn hợp vô gián mà ngưng tụ lại để thành
hình. Dương mà cương kiện thì thành con trai, âm mà nhu thuận thì thành con gái.
Hai khí âm dương giao cảm với nhau, tự khắc hóa sinh mn vật. Rồi mn vật do
đấy sinh sản biến hóa vơ cùng vậy”.
Tóm lại, tuy đạo trời lưu hành và phú cho mn lồi những thuộc tính, khả năng
hoạt động để tồn tại và phát triển, song con người khác với mọi lồi ở chỗ nó nhận
được chính khí, nhờ đó mà nó có lý tính, có tư duy, biết chấp hành các nguyên tắc
đạo đức. Động vật dù có năng lực hoạt động đến đâu cũng không thể sánh với con
người, thực vật cịn kém hơn.
2.1.2. Nhân sinh quan từ góc độ đạo làm ngƣời
Trên đây có thể coi là những nội dung liên quan đến giáo dục đạo trời, tức là tìm
hiểu quá trình hình thành vũ trụ và vạn vật, sự tồn tại cũng như những qui luật cơ
bản của nó. Một lĩnh vực quan trọng khác mà các gia huấn quan tâm nhất, đó là
14
giáo dục đạo người và đạo làm người. Đạo người là con đường mà tất cả các mối
quan hệ người đều vận hành trên đó. Sự vận hành như thế nào đều phụ thuộc vào
tâm thế của “thánh nhân đời xưa”, tức những người vạch ra những nguyên tắc cơ
bản trong sự ứng xử của con người với chính bản thân mình, với mọi người xung
quanh theo quan hệ chiều ngang và với các hạng bậc bề trên theo chiều dọc.
2.1.2.1. Quan điểm giáo dục trẻ từ trong bào thai cho đến tuổi học đường
Vấn đề giáo dục con người được các gia huấn hết sức quan tâm, đặc biệt là giáo
dục đạo làm người cho con trẻ ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ, hay còn gọi là
thai giáo. Với khái niệm này, Bùi Dương Lịch đã nói rõ hơn vai trò của thai phụ
trong việc giáo dục con ngay khi còn trong bào thai bằng những cử chỉ, hành động
lương thiện của mình, vì thế dân gian có câu: “Phúc đức tại mẫu” (phúc đức ở
người mẹ). Ở đây, hai bản gia huấn, đặc biệt là “Gia huấn diễn ca” đã dạy con trẻ
ngay từ thuở biết suy nghĩ phải nhớ cơng ơn đó của mẹ.
2.1.2.2. Quan điểm giáo dục cách ứng xử trong gia đình và xã hội
Vấn đề giáo dục đạo làm người có nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, được
thể hiện trong nhiều lĩnh vực văn hóa dân gian như ca dao, tục ngữ, thành ngữ,
song dưới hình thức gia huấn, việc giáo dục này đưa ra một kết cấu nội dung khá
logic, đó là nêu luận giải về nhân luân, ngũ luân, tam cương như những mối quan
hệ xã hội căn bản và để thực hiện nó trong cuộc sống thường nhật, làm hình thành
nên nhân cách của con người thì phương tiện cần có là ngũ thường (nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín).
2.1.3. Giáo dục “thực học” và các kiến thức cơ bản trong “Bùi gia huấn hài”
và “Gia huấn diễn ca”
Thực học là khái niệm dùng để chỉ sự học thực chất để đạt tới “chân tri” (tri thức
thật sự), nó hồn toàn trái ngược với lối học hời hợt, chỉ mang tính hình thức,
khơng có thực chất, thậm chí là giả tạo bởi lối học khơng có mục đích chân chính,
dẫn đến việc học vơ bổ, khơng có hiệu quả và rốt cục, khơng có giá trị thực sự.
Nói ngắn gọn, thực học là học thật để tìm đến kiến thức cho hoạt động thực tiễn
đạt hiệu quả. Đó là các lĩnh vực giáo dục kiến thức địa lý và thiên văn, kiến thức
Nam – Bắc sử, kiến thức về lịch sử Nho học, v.v.
2.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA TƢ TƢỞNG GIA HUẤN
TRONG “BÙI GIA HUẤN HÀI” VÀ “GIA HUẤN DIỄN CA”
2.2.1. “Bùi gia huấn hài” và “Gia huấn diễn ca” là hình thức giáo dục đạo đức
trong gia đình nhằm góp phần củng cố chế độ phong kiến tập quyền Việt
Nam.
Hình thức giáo dục đạo đức trong gia đình được thực hiện thơng qua các bản giáo
huấn do chính nhà nước phong kiến ban hành nhằm thắt chặt mối quan hệ NHÀ –
15
LÀNG – NƯỚC trên cơ sở giáo huấn từ trong gia đình. Hình thức này có thể kể
đến văn bản “Nhị thập huấn điều” do vua Lê Thánh Tông ban hành năm 1470,
kèm theo yêu cầu phổ biến đến tận địa bàn làng xã và những người biết chữ cùng
với các chức sắc trong làng có trách nhiệm thi hành. Trên tinh thần đó, “Bùi gia
huấn hài” và “Gia huấn diễn ca” cũng góp phần khơng nhỏ vào việc giáo huấn con
cái trong gia đình. Các bản gia huấn này khơng bó hẹp phạm vi đạo đức gia đình,
mà cịn mở rộng ra các mối quan hệ xã hội, trong đó có đạo vua tơi, bạn hữu và
thầy trị.
2.2.2. Tính qui luật trong quá trình giáo huấn các đối tƣợng con cái trong gia
đình
Như trên đã trình bày, các bản gia huấn đã dựa vào những giai đoạn phát triển của
con người cả về tuổi tác lẫn hiểu biết cuộc sống. Những hoạt động cụ thể của con
người trong các giai đoạn đó được lặp đi lặp lại một cách có qui luật từ giai đoạn
đầu đời đến lúc trưởng thành của mình. Dù cách thức phân bố mơn học có khác
nhau, song ở cả hai bản gia huấn, chúng ta vẫn tìm thấy nét đặc trưng ở đó là dạy
con trẻ những điều thiết yếu nhất ở giai đoạn đầu đời để tạo hành trang cho nó
trong q trình hình thành nhân cách.
2.2.3. Nội dung giáo huấn lấy Nho giáo làm cơ sở trong sự kết hợp với văn
hóa dân tộc
Qua việc phân tích những nội dung chủ yếu trong hai bản gia huấn cho thấy, nội
dung giáo huấn không chỉ dựa vào đạo đức học Nho giáo, mà có sự kết hợp của
nhiều yếu tố, trong đó có văn hóa dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm, các yếu tố cấu
thành tồn tại xã hội của nước ta được ý thức xã hội phản ánh trên nhiều khía cạnh
của nó. Các yếu tố cấu thành của ý thức xã hội ở đây là ý thức đạo đức, ý thức
chính trị, ý thức pháp luật, v.v.
2.2.4. Phƣơng pháp tùy thuộc độ tuổi của đối tƣợng giáo huấn trong suốt q
trình hình thành và hồn thiện nhân cách
Thứ nhất, về phương pháp truyền thụ của gia huấn: tối giản hóa các nội dung
truyền thụ bằng bằng thơ, văn vần cho dễ đọc, dễ nhớ, chẳng hạn như Bùi gia
huấn hài viết theo lối văn vần, Gia huấn diễn ca viết bằng thơ lục bát, v.v.
Thứ hai, giáo huấn đi từ thấp lên cao theo nguyên tắc “đắp gò” (Khổng Tử), nghĩa
là người học phải nỗ lực vươn lên, không được nản chí, bỏ dở vì ngại khó, ngại
khổ.
Tiểu kết chƣơng 2
Khảo cứu hai tác phẩm gia huấn trong lịch sử cách nhau hai thế kỷ là “Bùi gia
huấn hài” và “Gia huấn diễn ca”, chúng tôi nhận ra đối tượng giáo dục của hai bản
gia huấn này khơng hồn tồn trùng hợp, song cũng không phải bản này chứa
đựng, bao hàm hết nội dung và đối tượng của bản kia, mà có sự bổ sung cho nhau
16
để trở thành đối tượng nghiên cứu những nội dung tư tưởng cơ bản trong loại hình
giáo dục mang tính đặc thù này. Trước hết, sự khác nhau về đối tượng, một bên
lấy sự hình thành con người và nhân cách của nó trong diễn tiến của cuộc đời, nó
được giáo dục từ trong bào thai (thai giáo) cho đến khi trưởng thành và đến lượt
nó, lại thực hiện sứ mệnh giáo dục thế hệ tiếp theo, còn một bên, là những đứa trẻ
(hài nhi, tiểu tử) cần được giáo huấn một cách toàn diện ở bậc tiểu học để trở
thành những hài nhi có tri thức, đặng bước vào đời theo những nấc thang của “Bát
điều mục”.
“Bùi gia huấn hài” và “Gia huấn diễn ca” đều có chung từ là “gia đình”, tức là cơ
sở nền tảng được ví như tế bào của xã hội mà ở đó, bất kỳ thành viên nào, nam
cũng như nữ đều lĩnh hội được những chuẩn mực đạo đức cơ bản theo tinh thần
Nho giáo để từ đó, con người phấn đấu khi hội nhập vào cuộc sống xã hội. “Gia
huấn diễn ca” mong muốn là con trai phải nối nghiệp cha ông, là con gái phải giữ
nguyên tắc “tam tòng”, tứ đức. Trong khi đó “Bùi gia huấn hài” lại chú trọng trang
bị những kiến thức cần thiết để các “tiểu tử” phải là những đứa trẻ có tri thức bởi
truyền thống Nho học đã gắn liền với gia đình của tác giả. Từ hai bản gia huấn đó
thể hiện sự tương đồng và khác biệt khá rõ nét.
Chƣơng 3
GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ
CỦA BÙI GIA HUẤN HÀI VÀ GIA HUẤN DIỄN CA
ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. VỀ GIÁ TRỊ
Với tư cách là hình thức giáo dục trực tiếp trong mơi trường gia đình, gia huấn
Việt Nam trong lịch sử đã phát huy được những thành quả khơng nhỏ, góp phần
xây dựng đạo đức xã hội theo chuẩn mực Nho giáo và vì vậy, đã có những đóng to
lớn cho sự ổn định trật tự xã hội phong kiến. Mặt khác, dù đề cao giáo dục đạo
đức, các gia huấn cũng coi trọng giáo dục các kiến thức liên quan đến thực học.
Với tinh thần đó, Bùi gia huấn hài và Gia huấn diễn ca đã có những giá trị nhất
định, có thể khái quát như sau:
17
Thứ nhất, giáo dục về mặt thế giới quan. Các gia huấn mà chúng tôi quan tâm đều
đề cập đến vấn đề vũ trụ luận, nhằm giải đáp cho câu hỏi thế giới quanh ta là gì?
Từ đâu mà ra? Cơ cấu của bầu trời và mặt đất ra sao? Sự vận hành của mặt trời,
mặt trăng và các vì tinh tú như thế nào? v.v.
Thứ hai, sự luận giải về tính tương đồng hình thái giữa con người với trời đất và
nguồn gốc sâu xa của con người cũng như vị thế của nó trong tam tài nhằm luận
chứng cho vấn đề thiên địa vạn vật nhất thể, con người là một bộ phận không thể
tách rời của vũ trụ. Mặt khác vị thế của con người trong tam tài là căn cứ để chứng
minh cho tính khác biệt của con người với các động vật khác: trong thế giới vạn
vật, con người là cao quí nhất.
Thứ ba, trong quan điểm giáo dục đạo làm người, “Bùi gia huấn hài “ và “Gia
huấn diễn ca” đều lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng, trong đó các mối quan hệ
đạo đức trong gia đình và xã hội đều theo những chuẩn mực xác định như nhân
luân, ngũ luân, tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức, nhằm thắt chặt tình thân
ruột thịt của các thành viên trong gia đình, tình làng, nghĩa xóm, v.v.
Thứ tư, cả hai bản gia huấn ra đời trong bối cảnh thực học của khu vực và trong
nước đang thu hút ngày càng tăng sự quan tâm của tầng lớp trị thức đương thời.
3.2. VỀ HẠN CHẾ
Gia huấn là hình thức giáo dục đạo đức được thực hiện trước hết trong phạm vi gia
đình với tư cách tế bào của xã hội. Ra đời trong bối cảnh xã hội phong kiến Việt
Nam có nhiều biến động phức tạp ở nửa cuối thế kỷ XVIII. Đến đầu thế kỷ XX,
“Gia huấn diễn ca” ra đời tỏng tình hình chính trị - xã hội Việt Nam cịn xấu đi
nhiều so với nửa cuối thế kỷ XVIII, tư tưởng “trung qn ái quốc” hay “tơn qn
quyền” khơng cịn là mệnh lệnh đạo đức tuyệt đối từ triều đình nữa, do đó những
nội dung giáo huấn trong gia đình (gia huấn) hướng đến cá nhân con người với
những gì nó cần biết, cần phải làm để tồn tại trong bối cảnh xã hội đương thời. Đó
là bảo thân và gìn giữ các giá trị vốn có và cần có của gia đình. Những hạn chế
chủ yếu của hai bản gia huấn có thể khái quát như sau:
Một là, dù xã hội có nhiều biến động bất lợi cho vai trò và vị thế của Nho giáo với
tư cách bệ đỡ hệ tư tưởng, ngay cả khi nhà nước phong kiến thời Nguyễn đầu thế
kỷ XX chỉ là bù nhìn thì các bản gia huấn vẫn khơng vượt bỏ được nội dung giáo
dục tinh thần trung quân, đề cao quân quyền.
Hai là, cả hai bản gia huấn đều thể hiện tinh thần nam tôn nữ ty. Nếu như Gia
huấn diễn ca có đề cập đến giáo dục con gái với những nội dung hết sức ngặt
nghèo, cứng nhắc với nguyên tắc tam tịng, tứ đức, thì Bùi gia huấn hài thì càng rõ
hơn ở sự phân biệt nam nữ, đó là đối tượng giáo huấn chỉ là những “tiểu tử”.
18
Ba là, việc hướng thực học như một nhu cầu cấp thiết của thời đại, song ở hai bản
gia huấn, đặc biệt là Bùi gia huấn hài đã đưa những nội dung khá nặng cho đối
tượng học là “tiểu tử” ở bậc tiểu học, trên thực tế là không phù hợp bởi các số liệu
và sự vận động của các thiên hà thể.
3.3. BÀI HỌC LỊCH SỬ TỪ “BÙI GIA HUẤN HÀI” VÀ “GIA HUẤN DIỄN
CA” ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH NƢỚC TA
HIỆN NAY
3.3.1. Giáo dục đạo đức cho học sinh nƣớc ta hiện nay: một số vấn đề lý luận
3.3.1.1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống tinh thần xã hội
Đạo đức là những qui tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, nó được hình
thành, tồn tại và phát triển trong đời sống tinh thần của xã hội, được xã hội thừa
nhận và tự giác thực hiện. Bản chất của nó là tổng hịa các quan hệ đạo đức xã
hội, đồng thời là phương tiện điều chỉnh các hành vi cá nhân con người, góp phần
hình thành nhân cách con người trong quá trình hoạt động sống của nó.
Trong tiến trình lịch sử phát triển của xã hội loài người, đạo đức với tư
cách là phương tiện điều chỉnh hành vi con người thì bất kỳ dân tộc nào, dù ở trình
độ phát triển như ra sao đều rất cần đến nó. Xã hội càng phát triển, càng tiến bộ thì
nhân loại càng cần đến đạo đức. Nho giáo quan niệm đạo là con đường mà tất cả
các mối quan hệ người đều vận hành trên đó, nếu có sự khác nhau giữa các dân tộc
thì đó là quan niệm về bản chất của đạo đức và cơ chế vận hành của đạo đức do
thể chế chính trị và tồn tại xã hội của từng dân tộc qui định. Chính vì vậy, quan
niệm về đạo đức và cơ chế vận hành của các mối quan hệ người trên nó có vai trị
rất lớn trong đời sống xã hội và nó là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải
quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân cũng như cộng đồng tồn tại phát triển.
3.3.1.2. Giáo dục đạo đức cho học sinh và vấn đề xây dựng triết lý giáo dục ở
nước ta hiện nay
Triết lý là một dạng hoạt động của con người được định hướng tới sự suy ngẫm về
sự tồn tại của bản thân, trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm, trải nghiệm và đưa
ra những lý lẽ đúng đắn cho việc chỉ đạo một hay nhiều lĩnh vực của cuộc sống.
Giáo dục là sự nghiệp đào tạo và phát triển con người về trí tuệ và tình cảm, bồi
dưỡng cho con người ý thức trọng sự thật, yêu cái đẹp và hướng thiện. Từ đó có
thể xác định sơ bộ và mang tính khái quát về triết lý giáo dục, là tổng hòa những
lý lẽ đúng đắn cho sự nghiệp đào tạo và phát triển con người trong điều kiện xác
định của tồn tại xã hội.
Triết lý giáo dục của UNESCO gồm bốn trụ cột của giáo dục: “Học để biết, học
để làm việc, học để chung sống với nhau, học để làm người/Learning to know,
Learning to work, Learning to live together and Learning to be””. Đối chiếu với
19
triết lý giáo dục của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy có sự trùng hợp và tương đồng về
“Học để làm việc và Học để làm người”.
Giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng trong lịch sử cũng như hiện tại,
đều hướng con người tới những điều tốt lành, làm cho nó nhận thức rõ nghĩa vụ
của bản thân đối với những người xung quanh mà trước hết, là với những người
thân yêu ruột thịt, sau nữa là cộng đồng dân tộc và quốc tế.
Như đã trình bày trong chương 2 của luận án này về nội dung và phương pháp của
gia huấn nói chung, Bùi gia huấn hài và Gia huấn diễn ca nói riêng, chúng tơi
khẳng định một cách chắc chắn rằng, dù trong các bản gia huấn còn mang nặng
dấu ấn của tồn tại xã hội phong kiến đương thời như “nam tôn nữ ti”, “quá đề cao
quân quyền và đẳng cấp xã hội, song ở đó mục tiêu cuối cùng là hướng tới việc
dạy dỗ con em trong nhà “nên người”. Nếu lược bỏ những hạn chế lịch sử cũng
như tính cố hữu trong quan niệm của Nho giáo về giáo dục nói chung, của gia
huấn Việt Nam trong lịch sử nói riêng, chúng ta có thể phát huy những giá trị cơ
bản của các gia huấn trong việc xây dựng triết lý giáo dục nước ta hiện nay.
3.3.2. Thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh nƣớc ta thời gian qua và một
số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của lĩnh vực giáo dục này ở
nƣớc ta hiện nay
3.3.2.1. Thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh nước ta thời gian qua và
nguyên nhân cơ bản của nó
a. Những thành tựu trong giáo dục đạo đức cho học sinh từ quan điểm chỉ đạo
phát triển giáo dục năm 1986 đến nay
Từ Đại hội VI của Đảng (1986), với quan điểm đổi mới, là tiền đề quan trọng để
các lĩnh vực khác phát triển, trong đó có giáo dục đào tạo. Những thành tựu đạt
được trong lĩnh vực giáo dục là đáng ghi nhận, song bên cạnh đó cịn những hạn
chế nhất định mà cho đến nay, sự nghiệp đổi mới giáo dục chưa đáp ứng được yêu
cầu của Đảng đặt ra cũng như trong thực tiễn đời sống xã hội.
Đối tượng học sinh nước ta là khái niệm khá rộng, dùng để chỉ những người ở tuổi
thanh thiếu niên và nhi đồng đang theo học ở các bậc học cơ bản, phổ thông, các
trường trung cấp, cao đẳng và đại học.
Trên lĩnh vực giáo dục đạo đức cho học sinh nước ta, những thành tựu cơ bản đạt
được thời gian qua có thể khái quát ngắn gọn như sau:
Thứ nhất, việc giáo dục đạo đức cho học sinh đã góp phần xây dựng nhân cách
con người mới với các tiêu chí về thể lực, trí lực và tâm lực.
20
Thứ hai, việc giáo dục đạo đức cho học sinh nước ta góp phần hình thành nên một
thế hệ thanh niên học sinh mang những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và những yếu tố tiến bộ của thời đại.
b. Những hạn chế, yếu kém
Điểm qua một số thành tựu cơ bản như trên để thấy sự quyết tâm của hệ thống
chính trị và tồn dân trong lĩnh vực giáo dục đào tạo của nước ta từ thời kỳ đổi
mới đến nay. Tuy nhiên, bấy nhiêu thành tích vẫn khơng lấp đầy những khoảng
trống yếu kém của ngành giáo dục thời gian qua, đặc biệt là phương diện giáo dục
đạo đức cho học sinh nước ta.
Tóm lại, những hạn chế yếu kém trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh có thể
khái quát như sau:
Một là, công tác giáo dục đạo đức cho học sinh chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước trong tình hình hiện nay. Một bộ phận học sinh có biểu hiện sống
thực dụng, coi trọng các giá trị vật chất, sống thiếu niềm tin vào chế độ và tương
lai của đất nước, thờ ơ với những vấn đề chính trị - xã hội, dễ bị kích động, lơi kéo
tham gia các hoạt động trái pháp luật như vi phạm luật lệ giao thơng, đánh lộn và
có những hành vi trái với thuần phong mỹ tục, với truyền thống “tôn sư trọng đạo”
của dân tộc.
Hai là, mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh thời gian
qua cịn nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng học sinh, sinh viên khi ra trường khó tìm
được việc làm, gây tâm lý hoang mang, chán nản bởi kiến thức nặng về lý thuyết
và đặc biệt là kỹ năng mềm non kém.
Trên thực tế khó có thể liệt kê đầy đủ những mặt yếu kém về quản lý và điều hành
của ngành giáo dục và đào tạo mà các phương tiện truyền thông đã nhiều lần đề
cập. Riêng lĩnh vực giáo dục đạo đức còn nhiều bất cập bởi nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan cần được làm rõ để trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp
khả thi nhằm phát huy những mặt tốt và khắc phục những hạn chế của lĩnh vực
này trong điều kiện hiện nay.
3.3.2.2. Những nguyên nhân cơ bản
Thứ nhất, về những nguyên nhân chủ quan
Một là, hệ thống pháp luật, trong đó có Luật giáo dục ở nước ta chưa hồn thiện,
dẫn đến tình trạng bộ chủ quản ban hành các qui định dưới luật khơng phù hợp với
tình hình thực tế, thậm chí bất cập.
Hai là, việc giáo dục đạo đức cho học sinh với chương trình cịn mang tính bất cập
cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp, do đó chưa hình thành nên sự nhận thức
21
cần thiết của việc giáo dục đạo đức trong xã hội nói chung, đối với các em học
sinh nói riêng trong điều kiện hiện nay.
Ba là, học sinh phổ thông, đặc biệt là cấp tiểu học, ở vào lứa tuổi chưa biết xác
định mục đích, động cơ học tập rõ ràng, cho nên một số em khơng có hứng thú
học, không chú ý nghe giảng, dẫn đến bị hổng kiến thức cơ bản ngay từ đầu và
ngày càng chán học hơn.
Bốn là, mối liên hệ giữa gia đình và nhà trường chưa được thường xuyên và chặt
chẽ, do đó sự quan tâm thường xuyên của gia đình bị gián đoạn.
Năm là nguyên nhân có liên quan đến trách nhiệm của nhà trường với tư cách là
chủ thể giáo dục đào tạo con người trong quá trình hình thành nhân cách của học
sinh.
Thứ hai, những nguyên nhân khách quan
Một là, nền kinh tế thị trường đòi hỏi phụ huynh học sinh tập trung nhiều tâm lực
cho cơng việc, cịn việc quan tâm giáo dục đạo đức và kiến thức cho con cái đều
phó thác cho nhà trường, thành thử sự liên kết giáo dục giữa nhà trường và phụ
huynh bị gián đoạn như chúng tơi đã trình bày ở trên.
Hai là, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhu cầu về nguồn nhân
lực chất lượng cao ngày càng lớn, do đó ở mọi bậc học, người ta chú trọng đến
“dạy chữ” nhiều hơn “dạy người”.
Ba là, sự hội nhập ngày càng sâu rộng của đất nước đang đặt ta những thách thức
lớn về sự sử dụng các sản phẩm của cơng nghệ, văn hóa phẩm khơng lành mạnh,
làm cho đời sống tâm sinh lý của học sinh bị thay đổi theo hướng tiêu cực.
Bốn là, chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục của Đảng chưa thu
hút được sự quan tâm thỏa đáng của các địa phương về tham gia quản lý học sinh,
đến khi các em vi phạm lại dùng đến các biện pháp mạnh tay như tra tấn, đánh đập
ép buộc các em nhận tội dù tội đó khơng phải do các em vi phạm.
Tóm lại, những nguyên nhân chủ quan và khách quan là hai mặt của một vấn đề
tạo nên một nền giáo dục yếu kém về nhiều mặt, trong đó có giáo dục đạo đức cho
học sinh phổ thơng. Trong một số trường hợp, chính các ngun nhân khách quan
đã tạo đà cho những nguyên nhân chủ quan phát sinh và phát triển, gây ra những
bất cập và kìm hãm quá trình đổi mới nền giáo dục nước ta thời gian qua.
3.3.3. Một số bài học lịch sử chủ yếu từ “Bùi gia huấn hài” và “Gia huấn diễn
ca” đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh nƣớc ta hiện nay
Trên cơ sở năm bài học lịch sử rút ra từ nghiên cứu “Bùi gia huấn hài và “Gia
huấn diễn ca” cũng như việc phân tích để chỉ ra những hạn chế, thiếu sót của lĩnh
22
vực giáo dục đạo đức cho học sinh nước ta thời gian qua, chúng tôi rút ra một số
bài học và kiến nghị sau đây:
Về những bài học:
Bài học thứ nhất, phải chú trọng đến lĩnh vực giáo dục đạo đức trong gia đình bởi
gia đình là tế bào của xã hội.
Bài học thứ hai, nội dung giáo dục trong gia đình phải lấy gương đạo đức của ơng
bà, cha mẹ, anh chị làm mẫu mực để răn dạy con cái.
Bài học thứ ba, về phương pháp giáo dục cần tùy thuộc vào lứa tuổi và năng lực
của người học; việc dạy và học phải đi từ thấp lên cao, tránh nhồi nhét kiến thức
không phù hợp với độ tuổi và năng lực tiếp thu của người học.
Bài học thứ tư, cần chú trọng nhiều hơn đến lĩnh vực giáo dục “thực học” với
những kiến thức chuyên môn phục vụ sinh kế và phát triển sản xuất xã hội;
Bài học thứ năm, cần lược bỏ những hạn chế trong hai bản gia huấn để xây dựng
xã hội công bằng, văn minh, đó là thái độ trọng nam khinh nữ; tư tưởng tôn quân
quyền dẫn đến tệ sùng bái cá nhân.
Một số kiến nghị:
Một là, cần phải tiếp tục hoàn thiện Luật Giáo dục để tạo nên môi trường giáo dục
đạo đức lành mạnh và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng con người mới đủ thể
lực, trí lực và tâm lực trong điều kiện hội nhập và phát triển đất nước ta hiện nay.
Hai là, quán triệt quan điểm đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục của Đảng,
triết lý giáo dục Hồ Chí Minh; kế thừa và phát huy các giá trị của giáo dục truyền
thống từ các bản gia huấn Việt Nam trong lịch sử để giáo dục đạo đức cho học
sinh trong điều kiện nước ta hiện nay.
Ba là, cần nêu cao trách nhiệm của gia đình, đặc biệt cần tăng cường mối liên hệ
giữa gia đình và nhà trường trong giáo dục đạo đức cho học sinh.
Bốn là, tăng cường giáo dục tinh thần “thực học” và phát huy tính chủ động, sáng
tạo của nhà trường trong lĩnh vực giáo dục đạo đức cho học sinh.
Tiểu kết chƣơng 3.
Từ việc phân tích làm rõ những giá trị và hạn chế chủ yếu của hai bản gia huấn
Việt Nam trong lịch sử là Bùi gia huấn hài và Gia huấn diễn ca, trong chương này
chúng tơi tập trung phân tích ý nghĩa của hai bản gia huấn đó đối với lĩnh vực giáo
dục đạo đức cho học sinh nước ta hiện nay.
Trong kho tàng tư liệu lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung, tư tưởng giáo dục với
hình thức khá phổ biến trong thời kỳ tồn tại và phát triển của chế độ phong kiến,
23
các bản gia huấn còn tồn tại đến ngày nay đều lấy mục đích giáo dục các thành
viên gia đình để duy trì gia phong, gia thế. Nguồn gốc tư tưởng giáo dục của gia
huấn chủ yếu lấy từ học thuyết Nho giáo, một học thuyết hiện tại khơng cịn đóng
vai trị hệ tư tưởng của đất nước nhưng đã và đang để lại những dấu ấn tích cực về
giáo dục con người trong quá trình hình thành nhân cách truyền thống, đặc biệt là
lứa tuổi nhi đồng và thiếu niên. Tuy nhiên, ngồi những giá trị khơng thể phủ
nhận, trong gia huấn Việt Nam vẫn còn nhiều mặt hạn chế, trước hết là hạn chế
mang tính lịch sử, tính giai cấp và tệ bất bình đẳng giới (nam tơn nữ ti) mà khơng
phải ngày một ngày hai có thể khắc phục được. Chính vì vậy, cả giá trị lẫn hạn chế
trong gia huấn lẽ đương nhiên trở thành bài học lịch sử cho chúng ta trong việc
giáo dục đạo đức cho con trẻ.
Với ý nghĩa đó, luận án khảo cứu thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh nước
ta hiện nay, chỉ ra những thành tựu và hạn chế cũng như nguyên nhân gây ra thực
trạng này để có hướng giải quyết trên cơ sở xác định một số giải pháp khả thi phù
hợp với triết lý giáo dục mà những năm gần đây chúng ta đã và đang bàn thảo.
KẾT LUẬN
Trong kho tàng tư liệu của Lịch sử tư tưởng Việt Nam có một loại hình tư liệu tồn
tại cho đến ngày nay nhưng ít nhận được sự quan tâm khai thác, nghiên cứu của
các học giả nước nhà. Khác với những tư liệu bàn về giáo dục mang dấu ấn kinh
điển như Tứ thư của Nho gia (Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử), Gia
huấn là hình thức giáo dục tổng thể được áp dụng trong phạm vi đời sống gia đình
để xây dựng và củng cố gia thế, gia phong do các tri thức Nho học biên soạn.
Chính vì vậy, ngồi những nội dung cốt lõi được chắt lọc từ tư tưởng giáo dục của
Nho giáo và ít nhiều từ sản phẩm tiếp biến văn hóa của tam giáo (Nho – Phật –
Đạo) với các yếu tố bản địa, các nội dung giáo dục của gia huấn còn phản ánh tồn
tại xã hội Việt Nam trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, đưa ra những gợi mở cho
sự phát triển giáo dục cho tương lai. Có lẽ vì thế mà các bản gia huấn ít nhiều
mang tính hệ tư tưởng của thời đại, đồng thời bộc lộ những mặt hạn chế lịch sử
không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, bản thân các bản gia huấn
cũng để lại những giá trị nhất định và khẳng định tính trường tồn của một số yếu
tố tích cực của nó mà thời nào cũng phải quan tâm kế thừa. Từ việc nghiên cứu, hệ
thống hóa theo các chủ đề của hình thức giáo huấn và làm rõ về mặt thể và dụng
của hai bản gia huấn này, chúng tôi rút ra một số kết luận sau đây:
Thứ nhất, sự ra đời của hai bản gia huấn này là sản phẩm của “sự đặt
hàng” gián tiếp từ nhu cầu của thời đại. Theo đó, luật pháp, các chỉ dụ, huấn điều
của triều đình được ban bố trong thiên hạ cần có sự hưởng ứng, hiện thực hóa chủ
trương đó của nhà nước nhằm củng cố các mối quan hệ từ gia đình đến xã hội, từ