Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

bài tiểu luận những nguyên lý cơ bản của CNML phần 2 tân thị tâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.91 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ- ĐỊA CHẤT
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
********

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CNML PHẦN 2.
ĐỀ TÀI 9:
-Phân tích các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền?
-Tại sao cần phải xây dựng xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa? Chỉ ra đặc trưng
và cách thức xây dựng nền văn hóa XHCN?

Họ và tên
Mã số sinh viên

: Tân Thị Tâm
: 1824010575

Mã học phần :
Giáo viên chính:

Hà Nội- 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................3
NỘI DUNG.............................................................................................................5
Phần 1: Phân tích các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền......5
1. Nguyên nhân hình thành của độc quyền trong chủ nghĩa tư bản.........................5
2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền...........................................................6
3. Phân tích các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền...............6
3.1. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền..............................................6


3.2. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính.........................................................8
3.3. Xuất khẩu tư bản.............................................................................................9
3.4. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền..........................10
3.5. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc.....................11
Phần 2: Tại sao cần phải xây dựng xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa? Chỉ ra đặc
trưng và cách thức xây dựng nền văn hóa XHCN.................................................12
1.Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa............................................................12
2. Lý do cần phải xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa....................................12
3. Các đặc trưng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa....................................................13
4. Cách thức xây dựng nền văn hóa XHCN..........................................................15
KẾT LUẬN..........................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................18


MỞ ĐẦU
Tiếp theo giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn cao
hơn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và sau đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước. Giai đoạn độc quyền là sự kế tục trực tiếp của giai đoan trước và thực chất,
là nấc thang mới trong quá trình phát triển và điều chỉnh của chủ nghĩa cơ bản về cả
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để thích ứng với những biến đổi về tình hình
kinh tế chính trị thế giới từ cuối thế kỉ XIX và đầu XX cho đến nay.
Hiện nay, việc nhận thức về độc quyền trong kinh doanh ở nước ta còn chưa nhất
quán, chưa nhận thấy vai trò quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế, nên chưa có
những quy định, những cơ quan giám sát các hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc
quyền. Bên cạnh đó tư tưởng chưa coi trọng kinh tế tư nhân cũng làm ảnh hưởng
không tốt đến môi trường cạnh tranh. Song với đó hiện nay tồn Đảng tồn dân ta
đang ra sức phát huy sức mạnh toàn dân tộc đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế đất
nước, xây dựng và bảo vững vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa . Trong qua trình
này Đảng và nhà nước hết sức chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa xây dựng con
người coi đó là nền tảng tỉnh thần là những yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, để phát

triển kinh tế mạnh và bền vững, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì vẫn tồn tại
rất nhiều những hạn chế những vướng mắc trong việc đổi mới tư duy về một nền văn
hóa mới trong một xã hội mới hay nói cách khúc dậy là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề văn hóa và phát triển xây dựng con người hiện nay và con người của thế kỷ
XXI con người trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đang là những vấn đề thời
sự . Hiện nay trong xã hội xuất hiện những trào lưu văn hóa khơng phù hợp hay nói
cách nhấn mạnh đó là hiện tượng suy đổi về văn hóa vì vậy việc nhìn nhận lại , tăng
vốn hiểu biết về văn hóa một cách dùng dẫn là một vấn đề cấp thiết vì vậy cần có một
cơ sở vững vàng để đi tới mục tiêu xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đã bản sắc dân tộc. coi văn hóa và con người là động lực và mục tiêu của phát triển xã
hội theo định hưởng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ lớn của toàn Đảng toàn dân ta.


Trong q trình làm bài tiểu luận của em cịn nhiều thiếu sót. Em mong thầy cơ bỏ
qua thiếu sót và hy vọng được nhận được sự góp ý của cơ để hồn thiện bài Tiểu luận
hơn. Em xin chân thành cảm ơn!


NỘI DUNG
Phần 1: Phân tích các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc
quyền?
1. Nguyên nhân hình thành của độc quyền trong chủ nghĩa tư bản.
- Một là: Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác dụng của tiến bộ KHKT,
làm xuất hiện những ngành sản xuất mới. Ngay từ đầu nó đã là những ngành có trình
độ tích tụ cao, đó là những xí nghiệp lớn địi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới.
Chỉ điểm danh vài thành tựu tiêu biểu như trong Kĩ thuật, luyện kim được cải tiến,
với việc sử dụng lò Bét-xme và lò Mác-tanh đã đẩy nhanh quá trình sản xuất thép,
tuốc bin phát điện được sử dụng để cung cấp điện năng; Dầu hỏa được khai thác để
thắp sáng và cung cấp nguồn nhiên liệu mới cho giao thơng vận tải. Cơng nghiệp hóa
học ra đời phục vụ ngành nhuộm, phân bón và thuốc nổ; Phát minh ra điện tín giúp

cho liên lạc ngày càng xa và nhanh; xe ô tô được đưa vào sử dụng nhờ phát minh về
động cơ đốt trong đã cho thấy sự thay đổi mạnh mẽ trong xã hội, làm biến đổi cơ cấu
kinh tế của xã hội theo hướng sản xuất tập trung quy mô lớn.
- Hai là: Cạnh tranh tự do. Một mặt buộc các nhà TB phải cải tiến kỹ thuật, tăng
quy mơ tích lũy. Mặt khác, đã dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém,
hoặc bị các đối thủ mạnh thơn tính, hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trong
cạnh tranh. Vì vậy xuất hiện một số xí nghiệp tư bản lớn nắm địa vị thống trị một
ngành hay trong một số ngành công nghiệp.
- Ba là: Khủng hoảng kinh tế làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản. Một
số sống sót phải đổi mới kỹ thuật để thốt khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy q trình
tập trung sản xuất. Ngồi ra, sự phát triển của tín dụng TBCN mở rộng trở thành đòn
bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các cơng ty cổ phần.
- Bốn là: Những xí nghiệp và cơng ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh mẽ lại tiếp tục
cạnh tranh với nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế nảy sinh xu hướng


thỏa hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền. IBM, P&G và General Electric là
ba ông lớn đã sinh trưởng mạnh mẽ sau khủng hoảng kinh tế năm 1873.
2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Xét về bản chất chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang phát triển mới của
chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế.
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất
của chủ nghĩa tư bản.
Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một hình thái biến tướng của
quy luật giá trị thặng dư
3.Phân tích các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
3.1. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền.

Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc
điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh, Pháp đều có tình hình là các xí nghiệp
lớn chỉ chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp nhưng chiếm hơn 3/4 tổng số máy hơi
nước và điện lực, cần một nửa tổng số công nhân và sản xuất ra gần một nửa tổng số
sản phẩm. Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến
hình thành các tổ chức độc quyền. Bởi vì, một mặt, do có một số ít các xí nghiệp lớn
nên có thể dễ dàng thỏa thuận với nhau: mặt khác, các xí nghiệp có quy mơ lớn, kỹ
thuật cao nên cạnh tranh sẽ rất gay gắt, quyết liệt, khó đánh bại nhau, do đó đã dẫn đến
khuynh hướng thỏa hiệp với nhau để nắm độc quyền.


Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào
trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục
đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.
Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa, các liên minh độc quyền hình thành theo
liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành,
nhưng về sau theo mổi liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo
liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Những hình thức độc quyền cơ bản là
cácten, xanhđica, tơnrớt, cơngxoỏcxiom, cơnggơlơmêrát.
- Cácten (Cartel) là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp nghị
thỏa thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh
toán, V.V.. Các nhà tư bản tham gia cácten vần độc lập về sản xuẩt và thương nghiệp.
Họ chỉ cam kết làm đúng hiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp
nghị. Vì vậy, cácten là liên minh độc quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp,
những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã rút ra khỏi cácten, làm cho cácten thường
tan vỡ trước kỳ hạn.
- Xanhđica (Syndicate) là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn
cácten. Các xí nghiệp tham gia xanhđica vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập
về lưu thông: mọi việc mua - bán do một ban quản trị chung của xanhđica đảm nhận.

Mục đích của xanhđica là thống nhất đầu mối mua và bán đề mua nguyên liệu với giá
rẻ, bán hàng hóa với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
- Tơrớt (Trust) là một hình thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm
thống nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý. Các nhà
tư bản tham gia tơrớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.
- Cơngxcxiom (Consortium) là một hình thức độc quyền có trình độ và quy mơ
lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia cơngxcxiom khơng chỉ có các nhà
tư bản lớn mà còn cả các xanhđica, tơrớt, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan
với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một cơngxcxiom có thể


có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hồn tồn phụ thuộc về tài hình vào một
nhóm tư bản kếch sù.
3.2. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
Cùng với q trình tích tụ và tập trung sản xuất trong cơng nghiệp cũng diễn ra q
trình tích tụ, tập trung tư bản trong; ngân hàng dẫn đến hình thành các tổchức độc
quyền trong ngân hàng. Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống
như trong cơng nghiệp, do q trình cạnh tranh các ngân hàng vừa và nhỏ bị thơn tính,
dẫn đến hình thành những ngân hàng lớn. Khi sản xuất trong ngành cơng nghiệp tích tụ
ở mức độ cao, thì các ngân hàng nhỏ khơng đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho cơng
việc kinh doanh của các xí nghiệp cơng nehiệp lớn. Các tổ chức độc quyền này tìm
kiếm các ngân hàng lớn hơn, thích hợp với các điều kiện tài chính và tín dụng của
mình. Trong điều kiện đó, các ngân hàng nhỏ phải tự sáp nhập vào các ngân hàng
mạnh hơn, hoặc phải chấm dứt sự tồn tại của mình trước quy luật khốc liệt của cạnh
tranh. Quá trình này đã thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.
- Sự xuất hiện, phát triển của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng đã làm thay
đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản cơng nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu
có vai trò mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là trung gian trong việc thanh tốn và tín dụng,
nay đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng, khống
chế mọi hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Dựa trên địa vị người chủ cho

vay, độc quyền ngân hàng cử đại diện của mình vào các cơ quan quản lý của độc
quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay, hoặc trực tiếp đầu tư vào công
nghiệp. Trước sự khốngchế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá
trình xâm nhập tương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng
diễn ra. Các tổ chức độc quyền công nghiệp cùng tham gia vào công việc của ngân
hàng bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng,
hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho mình. Q trình độc quyền hóa trong cơng
nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một
thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.


V.I.Lênin nói: “Tư bản tài chính là két q của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng
của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền
các nhà công nghiệp".
Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền,
chi phối tồn bộ đời sống kinh tế và chính trị của tồn xã hội tư bản gọi là các đầu sỏ
tài chính.
- Các đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự.
Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đồn tài chính
nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công
ty gốc (hay là “công ty mẹ”); công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị
được công ty khác, gọi là “công ty con”; “công ty con” đến lượt nó lại chi phối các
“cơng ty cháu” cũng bằng cách như thế... Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ
chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà
tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn
gấp nhiều lần.
Ngoài “Chế độ tham dự”, các đầu sỏ tài chính cịn sử dụng những thủ đoạn như:
lập cơng ty mới, phát hành trái khốn, kinh doanh cơng trái, đầu cơ chứng khoán ở sở
giao dịch, đầu cơ ruộng đất,... để thu được lợi nhuận độc quyền cao.
- Thống trị về kinh tế là cơ sở để các đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các

mặt khác, về mặt chính trị, các đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ
quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng. Sự
thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phátxít, chủ nghĩa quân phiệt và
nhiều thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược
để áp bức, bóc lột các nước đang phát triển và chậm phát triển.
3.3. Xuất khẩu tư bản


V.I.Lênin vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc
quyền.
- Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngồi để thực hiện giá trị và giá trị
thặng dư. Còn xuất khẩu tư bản là mang tư bản đầu tư ở nước ngoài để sản xuất giá trị
thặng dư tại nước sở tại.
- Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, vì trong những nước tư bản phát triển đã tích
lũy được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình trạng một số “tư bản thừa” tương
đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận so với đầu tư ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật
ở các nước này đã dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi nhuận:
trong khi đó ở nhiều nước lạc hậu về kinh tế, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương
thấp, nguyên liệu rẻ, nhưng lại rất thiếu tư bản nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn
đầu tư tư bản.
- Xuất khẩu tư bản xét về hình thức đầu tư, có thể phân chia thành xuất khẩu tư bản
hoạt động (đầu tư trực tiếp) và xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp). Xuất khẩu
tư bản trực tiếp là đưa tư bản ra nước ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao.
Xuất khẩu tư bản gián tiếp là cho vay để thu lợi tức. Xét về chủ sở hữu tư bản, có thể
phân chia thành xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân.
Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước
ngồi, là cơng cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nơ dịch của tư bản tài
chính trên phạm vi tồn thế giới. Tuy nhiên, việc xuất khẩu tư bản, về khách quan cũng
có những tác động tích cực đến nền kinh tế các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá

trình chuyển biến từ cư cấu kinh tế thuần nông thành cơ cấu kinh tế nông - công
nghiệp, mặc dù cơ cấu này cịn q quặt, lệ thuộc vào kinh tế của chính quốc.
3.4. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền


Q trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về
quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập
đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường trong nước luôn
luôn gắn với thị trường ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền, thị trường ngoài nước cịn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đế
quốc. Một mặt, do lực lượng sản xuất phát triển cao địi hỏi ngày càng phải có nhiều
nguồn nguyên liệu và nơi tiêu thụ: mặt khác, do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch thúc
đẩy tư bản độc quyền tăng cường bành trướng ra nước ngồi, cần có thị trường ổn định
thường xuyên. V.I.Lênin nhận xét: “Bọn tư sản chia nhau thế giới, khơng phải do tính
độc ác đặc biệt của chúng, mà do sự tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào
con đường ấy để kiếm lời'’.
Sự dụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền quốc gia có sức mạnh
kinh tế hùng hậu lại được sự ủng hộ của nhà nước “của mình” và các cuộc cạnh tranh
khốc liệt giữa chúng tất yếu dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, ký kết các hiệp định, để củng
cố địa vị độc quyền của chúng trong những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ
đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica, tơrớt quốc
tế...
3.5. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc.
Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia
thế giới về lãnh thổ. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao,
nguyên liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn
ngun liêu trên tồn thế giới càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng
quyết liệt hơn".
Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa là nơi bảo

đảm nguồn nguyên liệu và thị truờng thường xuyên; là nơi tương đối an toàn trong
cạnh tranh, bảo đảm thực hiện đồng thời những mục đích về kinh tế, quân sự và chính
trị. Từ sau năm 1880, những cuộc xâm chiếm thuộc địa bắt đầu phát triển mạnh. Đến


cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX. các nước đế quốc đã hoàn thành việc phân chia lãnh
thổ thế giới. Đế quốc Anh chiếm được nhiều thuộc địa nhất, sau đó đến Nga (Nga
Hồng) và Pháp, số dân thuộc địa của Pháp lại nhiều hơn số dân thuộc địa của ba nước
Đức, Mỹ, Nhật cộng lại.
Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến
cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới. Đó là ngun nhân chính dẫn đến cuộc Chiến tranh
thế giới thứ nhất 1914 -1918 và cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai 1939- 1945.
V.I.Lênin viết: “Khi nói đến chính sách thực dân trọng thời đại chủ nghĩa đế quốc tư
bản, thì cần chú ý rằng tư bản tài chính và chính sách quốc tế thích ứng với nó,... đã
tạo nên hàng loạt hình thức lệ thuộc có tính chất quá độ của các nước. Tiêu biểu cho
thời đại đó, khơng những chỉ có hai loại chủ yếu: Những nước chiếm thuộc địa và
những thuộc địa, mà còn có nhiều nước phụ thuộc với những hình thức khác nhau,
những nước này trên hình thức thì được độc lập về chính trị, nhưng thực tế lại mắc vào
cái lưới phụ thuộc về tài chính và ngoại giao”.
Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ với
nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc vè mặt kinh tế là sự thống trị của chủ
nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.
Phần 2: Tại sao cần phải xây dựng xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa?
Chỉ ra đặc trưng và cách thức xây dựng nền văn hóa XHCN?
1.Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Chế độ mới xã hội chủ nghĩa được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề
chính trị (sau khi giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền) và
tiền đề kinh tế (chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu được thiết lập). Từ hai
tiền đề chính trị và kinh tế đó, tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát
triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có sự hình thành, phát triển của

nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
2. Lý do cần phải xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.


Thứ nhất, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng xã hội có tính chất
tồn diện, triệt để: diễn ra trên mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực vãn
hố. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi phương thức sản xuất sẽ tạo ra một
phương thức sinh hoạt văn hoá tinh thần tương ứng, đáp ứng nhu cầu phát triển của nó.
Xây dựng phương thức sản xuất mới tất yếu đòi hỏi phải xây dựng một phương thức
sinh hoạt văn hoá tinh thần tương ứng cho nhu cầu phát triển của phương thức sản xuất
này - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Thứ hai, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa cũng tất yếu đòi hỏi phải từng bước xố
bỏ, cải tạo tính giai cấp trong nền văn hoá cũ (văn hoá tư sản, văn hoá phong kiến,...)
đồng thời xây dựng những giá trị văn hoá mới mang bản chất của giai cấp
Thứ ba, xây dựng nền văn hoá mới là nhằm tạo ra động lực văn hoá đảm bảo phát
huy được sức mạnh, nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân lao động trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, bởi vì
văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3. Các đặc trưng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Một là, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo,
quyết định phương hưởng phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong xã hội có giai cấp, ý thức hệ
giai cấp là nội dung cốt lõi của mọi nền văn hóa. Trong mọi thời đại, tư tưởng của giai
cấp thống trị trở thành tư tưởng thống trị của thời đại đó. Chính vì vậy, sau khi giai cấp
cơng nhân trở thành giai cấp cầm quyền thì ý thức hệ của nó trở thành nhân tố giữ vai
trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
Đặc trưng nói trên phản ánh bản chất giai cấp công nhân của nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa. Mọi sự coi nhẹ, xa rời nội dung khoa học, cách mạng của ý thức hệ giai cấp
công nhân đều nhất định dẫn đến kết cục là khơng thể xây dựng được nền văn hóa xã

hội chủ nghĩa.


Hai là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và
tính dân tộc sâu sắc. Đặc trưng này thể hiện mục đích và động lực nội tại của q trình
xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, q trình xây dựng xã hội mới. Trong các xã
hội cũ, giai cấp thống trị bóc lột độc quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất và trên cơ sở đó
cùng độc quyền chi phối đời sống tinh thần, nền văn hóa của xã hội.
Chúng độc quyền mọi phương tiện sáng tạo và sản phẩm của hoạt động tinh thần
nhằm, một mặt, tạo ra cái gọi là "văn hóa thượng lưu" phục vụ giai cấp thống trị, áp
bức bóc lột; mặt khác, nhằm nơ dịch tinh thần, ý thức của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, giam hãm họ trong tình trạng ngu tối và nơ lệ.
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt động
sáng tạo và hưởng thụ văn hóa khơng cịn là đặc quyền đặc lợi của thiểu số giai cấp
bóc lột. Giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn thể dân tộc là chủ thể sáng tạo
và hưởng thụ văn hóa. Cơng cuộc cải biến cách mạng tồn diện trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội từng buớc tạo ra tiền đề vật chất, tinh thần để đông đảo
nhân dân tham gia xây dựng nền văn hóa mới. Chính trong q trình đó, văn hóa
hướng tới nhân dân, dân tộc và mọi thành tựu văn hóa trở thành tài sản của nhân dân.
Văn hóa ln có sự kế thừa. Trong bất cứ thời kỳ nào của lịch sử, văn hóa đều
đồng thời bao gồm việc kế thừa, sử dụng di sản quá khứ và sáng tạo ra những giá trị
mới. Sự kế thừa và sáng tạo của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ln mang tính giai cấp
cơng nhân với tư tưởng chính trị tiên tiến của thời đại và hướng tới nhân dân, dân tộc.
Đông đảo nhân dân và cả dân tộc là chủ thể của văn hóa. Do đó, nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa là nền văn hóa mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, kế thừa
những giá trị văn hóa truyền thống và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Ba là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát triển một
cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức đảng cộng
sản, có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa khơng hình thành và phát triển một cách tự phát.

Trái lại, nó phải được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự quản lý của nhà


nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân. Mọi sự coi nhẹ hoặc
phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò quàn lý của nhà nước đối với
đời sống tinh thần của xã hội, đối với nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đều nhất định sẽ
làm cho đời sống văn hóa tinh thần của xã hội mất phương hướng chính trị.
4. Cách thức xây dựng nền văn hóa XHCN.
– Thứ nhất: Giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công
nhân trong đời sống tinh thần cùa xã hội làm cho hệ tư tưởng khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác Lê-nin trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của
nhân dân.
Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là hoạt động có mục đích của giai cấp
công nhân thông qua sự lãnh đạo của đảng cộng sản và quản lý của nhà nước xã hội
chủ nghĩa, nhằm xây dựng và phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, làm cho hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội. Giữ vững và
tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần
xã hội là phương thức quan trọng để xây đựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Đây là phương thức cơ bản để giữ vũng đặc trưng, bản chất của nền văn hóa đó.
Phương thức này được tiến hành thông qua việc truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp
côna nhân trong các tàng lớp nhân dân bằng những phương pháp và hình thức thích
hợp.
– Thứ hai: Khơng ngừng tăng cường sự lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò quản
lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa.
Sự lãnh đạo của đảng cộng sản và quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với
mọi hoạt động văn hóa là phương thức có tính ngun tắc và cũng là nhân tố quyết
định thắng lợi sự nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Phương thức khơng ngừng tăng cường sự lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò
quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa được coi là sự bảo



đảm về chính trị, tư tưởng để nền văn hóa xây dựng trên nền tảng của hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân đi đúng quỹ đạo và mục tiêu xác định.
Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hóa bằng cương lĩnh, đường lối, chính sách văn
hóa của mình và sự lãnh đạo của đảng phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp
luật, chính sách. Nhà nước thực hiện quản lý văn hóa theo đúng các nguyên tắc, quan
điểm, chủ trương của đảng cộng sản.
– Thứ ba: Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp
giữa việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc
những tinh hoa của văn hóa nhân loại.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa khơng hình thành từ hư vơ, trái lại nó được hình
thành trên cơ sở kế thừa những giá trị văn hóa của dân tộc. Văn hóa dân tộc là nền
móng và trên cơ sở đó tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Sự gắn kết giữa giữ gìn, kế
thừa văn hóa dân tộc, tiếp thu giá trị văn hóa nhân loại với q trình sản sinh giá trị
mới tạo nên sự thống nhất biện chứng của hai mặt giữ gìn vả sáng tạo văn hóa.
Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp giữa việc
kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh
hoa của văn hóa nhân loại được coi là phương thức nhằm xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa phong phú, đa dạng. Cùng với q trình này là những phương pháp thích
hợp nhằm đưa những giá trị văn hóa vào đời sống xã hội để đơng đảo nhân dân được
hưởng thụ văn hóa do mình sáng tạo ra.
– Thứ tư: Tổ chức và tập hợp quần chúng nhân dân vào các hoạt động sáng tạo văn
hóa.
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, nhân dân lao động đã trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Tuy nhiên, để phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của quần chúng, đảng cộng
sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tổ chức nhiều phong trào nhằm lôi cuốn
đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động và sáng tạo văn hóa.



KẾT LUẬN.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Một số yếu tố bất hợp lý của mơ hình kinh
tế trước đây vẫn cịn tồn tại và địi hỏi cần phải có những giải pháp cụ thể để giải quyết
trong thời gian tới. Một trong những vấn đề cần giải quyết là tình trạng độc quyền của
các doanh nghiệp nhà nước. Sự tồn tại quá nhiều doanh nghiệp nhà nước (rất nhiều
trong số đó kinh doanh khơng hiệu quả) và việc độc quyền của doanh nghiệp nhà nước
trong nhiều lĩnh vực là một trong những lý do được các luật sư Mỹ sử dụng để khẳng
định Việt Nam khơng có nền kinh tế thị trường trong vụ kiện cá da trơn của Việt Nam .
Để 4 hội nhập kinh tế thế giới cũng như đảm bảo các điều kiện gia nhập WTO trong
thời gian tới và tránh thua thiệt trong thương mại quốc tế, vấn đề này cần phải được
hoàn thiện để quy định một mức độ hợp lý cho sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà
nước, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo thúc đẩy sản xuất trong nước
phát triển.


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.Giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lênin
2. />3. />ghia-tu-ban-doc-quyen
4. />5. 11



×