Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Vấn đề tài chính trong tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước ở việt nam luận văn ths kinh doanh và quản lý 60 34 05

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.56 KB, 97 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận cơ bản về tài chính trong tiến trình cải cách doanh nghiệp
Nhà nước (DNNN) ở Việt nam
1.1 Cải cách Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) trong điều kiện Việt Nam
1.1.1. DNNN và vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường
1.1.2 Điều kiện và yêu cầu cải cách DNNN ở Việt Nam
1.2. Các khía cạnh tài chính trong tiến trình cải cách DNNN
1.2.1.

Tài chính và tác động của tài chính trong tiến trình cải cách DNNN

1.2.2. Vai trị của xử lý nợ trong tiến trình cải cách DNNN
1.2.3.Vai trị của định giá doanh nghiệp trong tiến trình cải cách DNNN
1.2.4. Những cơng cụ tài chính khác
1.3. Kinh nghiệm của một số nước giải quyết vấn đề tài chính trong tiến trình cải
cách DNNN
1.3.1. Kinh nghiệm cải cách DNNN của CHLB Đức
1.3.2. Kinh nghiệm của CHLB Nga
Chương 2: Thực trạng vấn đề tài chính trong tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà
nước ở Việt Nam


2.1. Thực trạng tác động của tài chính đến tiến trình cải cách DNNN ở Việt Nam
hiện nay
2.1.1. Tổng quan tiến trình cải cách DNNN ở Việt Nam
2.1.2. Tác động của các khía cạnh tài chính đến tiến trình cải cách DNNN ở
Việt Nam
2.2.Thực trạng vấn đề xử lý nợ và định giá DNNN trong tiến trình cải cách
DNNN
2.2.1. Thực trạng vấn đề xử lý nợ trong tiến trình cải cách DNNN


2.2.2. Thực trạng vấn đề định giá DNNN ở Việt Nam
Chương 3: Giải pháp tài chính thúc đẩy tiến trình cải cách DNNN ở nước ta hiện
nay
3.1. Một số định hướng cải cách DNNN
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện xử lý nợ DNNN
3.3. Một số giải pháp hồn thiện chính sách định giá DNNN
3.4. Một số giải pháp hỗ trợ khác Kết
luận
Tài liệu tham khảo


3

LUẬN VĂN THẠC SỸ

NGUYỄN ANH TUẤN - QTKD K12

Lời mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Cải cách doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) được thực hiện ở nhiều
nước trên thế giới bắt đầu từ cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980.
Một số biện pháp cải cách DNNN như giải thể, phá sản hoặc chuyển nhượng
quyền sở hữu tài sản từ khu vực Nhà nước sang khu vực ngoài Nhà nước như
bán, khoán, cho thuê, cổ phần hoá, suy cho cùng là quá trình Nhà nước giảm
tỷ trọng vốn Nhà nước trong các DNNN mà trước đây Nhà nước chiếm tỷ
trọng vốn đa số hay 100% vốn. Tiến trình cải cách DNNN nhanh hay chậm
cũng là quá trình Nhà nước giảm phần vốn tham gia vào các doanh nghiệp
nhanh hay chậm, nó liên quan đến những chính sách tài chính. Chính vì vậy,
các chính sách tài chính và tiến trình cải cách DNNN có mối quan hệ khá mật
thiết.

Ở Việt Nam, tiến trình cải cách DNNN bắt đầu thực hiện từ những năm
cuối thập kỷ 80. Trong hơn 10 năm qua, Nhà nước Việt Nam đã ban hành
nhiều chính sách thực hiện cải cách, chuyển đổi DNNN, tạo điều kiện thuận
lợi để cải cách DNNN đạt các mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, tiến trình cải cải
cách, chuyển đổi DNNN ở Việt Nam vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn,
một phần là do những chính sách tài chính để thực hiện cải cách DNNN cịn
có nhiều bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Cho đến nay,
những cơng trình nghiên cứu về cải cách DNNN vẫn tập trung vào tìm những
giải pháp cải cách, sắp xếp lại DNNN, chưa đề cập nhiều đến những giải pháp
tài chính. Việc nghiên cứu tìm hiểu sự tác động của chính sách tài chính tới
tiến trình cải cách DNNN có ý nghĩa thực tiễn và lý luận. Do đó, tơi quyết
TÀI CHÍNH VÀ CẢI CÁCH DNNN
2006


định chọn nghiên cứu đề tài “Vấn đề tài chính trong tiến trình cải cách doanh
nghiệp Nhà nước ở Việt Nam”
2. Tình hình nghiên cứu
Cải cách DNNN là một vấn đề kinh tế xã hội đã diễn ra ở nhiều nước
trên thế giới với nhiều mục đích khác nhau và thu hút sự chú ý của nhiều Nhà
nghiên cứu kinh tế. Ở Việt Nam, cải cách DNNN đã bắt đầu từ những năm
cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước và đã có nhiều cơng trình nghiên cứu có tính
cơ bản, hệ thống về cải cách DNNN đã được xuất bản và thành sách, tài liệu
và luận án khoa học. Ví dụ, các tác phẩm: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn
của cổ phần hoá khu vực kinh tế quốc doanh”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ, mã số 91-98-017 của Uỷ ban vật giá Nhà nước. Đề tài KX03.07.05 do Bộ
tài chính chủ trì xuất bản tại Hà nội –1993. Luận án tiến si khoa học kinh tế
“Vấn đề vốn trong cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước” của Lê Chi Mai,
chun ngành tài chính, lưu thơng tiền tệ và tín dụng, Hà nội – 1993 và nhiều
tài liệu khác.v.v. Các nghiên cứu này đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau

trong tiến trình cải cách DNNN như cổ phần hoá, lao động, vốn ở Việt Nam
và phổ biến kinh nghiệm cải cách DNNN ở một số nước trên thế giới. Tuy
nhiên nghiên cứu về vấn đề tài chính trong tiến trình cải cách DNNN ở Việt
Nam thì chưa có nhiều, vì vậy cần được tiếp tục nghiên cứu để hồn thiện
thêm.
3. Mục đích nghiên cứu
- Trình bày có hệ thống và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về
cải cách DNNN và vấn đề tài chính trong tiến trình cải cách DNNN nói
chung và trong nền kinh tế Việt nam nói riêng.


- Thơng qua phân tích thực trạng q trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước ở
Việt Nam, chỉ ra những kết quả đã đạt được, những mặt tồn tại, thiếu sót,
thực trạng vấn đề tài chính trong cải cách DNNN. Từ đó làm cơ sở để đề
xuất một số giải pháp về tài chính nhằm tiếp tục cải cách doanh nghiệp Nhà
nước ở nước ta.
- Xây dựng những quan điểm, đề xuất một số phương hướng và giải pháp
chủ yếu nhằm tiếp tục cải cách doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích trên, đối tượng nghiên cứu là vấn đề tài chính trong tiến
trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu : Luận văn khảo sát những vấn đề về giải pháp
tài chính mà trọng tâm về định giá doanh nghiệp và giải quyết công nợ trong
cải cách doanh nghiệp Nhà nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp nghiên cứu được
sử dụng là: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp
tiếp cận hệ thống, phương pháp trừu tượng hoá, khái qt hố. Ngồi ra luận
văn cịn sử dụng các phương pháp thống kê so sánh.

- Số liệu thực tế được sử dụng thông qua các biểu bảng, sơ đồ luận chứng.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn


- Đánh giá thực trạng những vấn đề về tài chính trong tiến trình cải cách
doanh nghiệp Nhà nước cũng như thực trạng của cả tiến trình cải cách
doanh nghiệp Nhà nước.
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cải cách doanh nghiệp Nhà nước, những
vấn đề tài chính trong cải cách doanh nghiệp Nhà nước.
- Đề xuất những giải pháp về tài chính khắc phục những hạn chế hiện nay về
tài chính để đẩy nhanh tiến trình cải cách DNNN.
7. Bố cục của luận văn
Tên của luận văn “Vấn đề tài chính trong tiến trình cải cách Doanh
nghiệp Nhà nước ở Việt Nam”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương,
Chương 1: Cơ sở lý luận cơ bản về đề tài chính trong tiến
trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng vấn đề tài chính trong tiến trình cải
cách doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tài chính thúc đẩy tiến trình cải cách
doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay.


Chương 1
Cơ sở lý luận cơ bản về tài chính trong tiến trình cải cách
doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở Việt Nam
1.1 Cải cách Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) trong điều kiện Việt Nam
1.1.1. DNNN và vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.1. Khái niệm về Doanh nghiệp Nhà nước

Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là loại hình tổ chức doanh nghiệp
phổ biến ở các quốc gia trên thế giới. Mỗi một quốc gia lại có những quy định
khác nhau về DNNN. Theo Liên hợp quốc, DNNN là những doanh nghiệp do
Nhà nước nắm toàn bộ hoặc sở hữu từng phần và kiểm soát ở mức độ nhất
định quá trình ra quyết định ở doanh nghiệp. Ngân hàng thế giới (WB) định
nghĩa DNNN là pháp nhân kinh tế do Chính phủ sở hữu hoặc điều hành nhằm
tạo ra thu nhập từ việc bán các sản phẩm và dịch vụ.
Theo quy định của CHLB Nga, khu vực Nhà nước bao gồm toàn bộ các
pháp nhân chịu sự quản lý của Nhà nước thơng qua các cơ quan chính quyền
liên bang và các cơ quan chính quyền của các chủ thể liên bang. Khu vực
kinh tế Nhà nước bao gồm.
- Các doanh nghiệp Nhà nước độc lập, tổ chức thương mại khơng có
quyền sở hữu tài sản được giao
- Các công sở Nhà nước
- Các công ty cổ phần, trong đó hơn 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu liên
bang hoặc sở hữu của các chủ thể liên bang


- Các doanh nghiệp con có cơng ty đầu đàn nằm trong thành phần của
khu vực Nhà nước
- Các doanh nghiệp thành viên của cơng ty holding trong đó cơng ty mẹ
thuộc khu vực Nhà nước
Nước Pháp quy định DNNN là loại doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước,
do Nhà nước trực tiếp quản lý (gồm cả các chi nhánh) và những doanh nghiệp
là công ty liên doanh hỗn hợp trong đó Nhà nước chiếm cổ phần lớn (chi
phối) tham gia hơn 30% vốn điều lệ trở lên và là cổ đông lớn nhất, hàng năm
Nhà nước công bố danh mục các DNNN Nhà nước. Tại New Zealand chỉ có
16 DNNN, tất cả đều là các công ty trách nhiệm hữu hạn và đều có 100% vốn
thuộc sở hữu Nhà nước và khơng tồn tại một DNNN có vốn Nhà nước thấp
hơn 100%. Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia mà khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động

tương đối hiệu quả, thì tất cả các doanh nghiệp được chia thành hai nhóm, đó
là các doanh nghiệp kinh tế Nhà nước và các tổ chức kinh tế Nhà nước. Các
doanh nghiệp kinh tế Nhà nước là các pháp nhân có vốn thuộc về Chính phủ
và hoạt động phù hợp với nguyên tắc kinh tế thị trường, còn các tổ chức kinh
tế Nhà nước là các pháp nhân có vốn thuộc về chính phủ, tham gia sản xuất
và phân phối sản phẩm cụ thể do Nhà nước quy định khối lượng, chủng loại
và giá cả.
Tại Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng
được sử dụng phổ biến từ đầu những năm 1990 trở lại đây và luôn được bổ
sung, hoàn thiện. Lần đầu tiên, Quốc hội Việt Nam đã thông qua và ban hành
Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995, trong đó quy định DNNN là tổ chức
kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh
doanh hoặc cơng ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước
giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách


nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh
nghiệp quản lý, DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở trên lãnh thổ
Việt Nam. Đây là lần đầu tiên ở Việt nam, DNNN được phân chia thành theo
hai mục tiêu hoạt động là DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN cơng ích,
khơng xếp chung tất cả DNNN thành một loại như trước đây, lẫn lộn giữa
hoạt động kinh doanh và hoạt động cơng ích. Tuy nhiên, căn cứ theo quy định
của Luật DNNN, tỷ lệ vốn tối thiểu của Nhà nước trong doanh nghiệp là bao
nhiêu để được coi là DNNN khơng được quy định cụ thể, dẫn đến có nhiều
quan điểm khác nhau về quan niệm thế nào là DNNN như chỉ DNNN có
100% vốn Nhà nước hoặc doanh nghiệp mà tỷ lệ vốn Nhà nước trong doanh
nghiệp chiếm 51% trở lên hoặc DNNN là doanh nghiệp có cổ phần nhiều hơn
2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất, hoặc DNNN là doanh nghiệp mà ở đó
Nhà nước có cổ phần đặc biệt.
Để tiếp tục hồn thiện và đưa ra một khái niệm nhất quán về DNNN,

năm 2003, Quốc hội thông qua Luật DNNN sửa đổi, quy định DNNN là tổ
chức kinh tế do Nhà nước sở hữu tồn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, góp
vốn chi phối, được tổ chức dưới hình thức cơng ty Nhà nước, công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn. Như vậy, tại Việt Nam DNNN là những công ty
mà trong đó Nhà nước có cổ phần chi phối (51% trở lên).
Tóm lại, DNNN là những cơ sở kinh doanh do Nhà nước sở hữu hoàn
toàn hay một phần, DNNN phân biệt với doanh nghiệp tư nhân ở quyền sở
hữu của Nhà nước và phân biệt với các cơ quan khác của Nhà nước ở tính
chất kinh doanh thương mại, tạo ra thu nhập thông qua cung cấp hàng hoá và
dịch vụ của doanh nghiệp. Đặc điểm sở hữu của Nhà nước hầu như bao gồm
cả quyền kiểm soát, chỉ đạo, can thiệp ở một mức độ nào đó vào hoạt động
của doanh nghiệp.


1.1.1.2. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường
Là một loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế thị trường, vì
vậy DNNN có một vai trị quan trọng và không thể thay thế trong bất cứ nền
kinh tế nào, dù là những nước phát triển hay những nước đang phát triển. Vai
trò của DNNN trong nền kinh tế không chỉ thể hiện ở sự hiện diện trong nền
kinh tế nơi mà khu vực DNNN chiếm tỷ trọng từ 5% GDP đến 90% GDP tùy
theo điều kiện và chính sách kinh tế phát triển của từng quốc gia và còn thể
hiện ở một số vai trò chủ yếu sau :
Thứ nhất, vai trò quan trọng nhất của DNNN trong nền kinh tế là công
cụ giúp Nhà nước khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, đảm
nhận các lĩnh vực sản xuất kinh doanh có tính chiến lược đối với sự phát triển
kinh tế-xã hội đòi hỏi vốn đầu tư lớn, khu vực tư nhân không muốn tham gia,
DNNN tham gia vào những lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn, tham gia
vào một số ngành có lợi thế cạnh tranh. Tại Việt Nam, khu vực kinh tế Nhà
nước đóng vai trị chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng
và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mơ nền kinh tế, trong đó

DNNN là bộ phận chủ yếu của kinh tế Nhà nước và sở hữu Nhà nước tham
gia trực tiếp vào hoạt động kinh tế.
Vai trò thứ hai của DNNN trong nền kinh tế là đóng những vai trị
chính trị. DNNN nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến an
ninh, quốc phòng như cơng nghiệp quốc phịng, khai mỏ. Ngồi ra, DNNN
cịn tham gia chiếm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng, tuỳ theo từng thời
kỳ phát triển kinh tế để chủ động định hướng xã hội, làm đối trọng trong phát
triển hội nhập kinh tế quốc tế. Tại một số quốc gia, nhất là ở các nước đang
phát triển, DNNN còn là một kênh quan trọng tạo nguồn thu cho ngân sách
Nhà nước (NSNN), là một kênh thu hút viện trợ và vốn đầu tư nước ngoài cho


phát triển kinh tế, DNNN còn là biểu tượng và là một phương tiện để đề cao
tinh thần độc lập tự chủ quốc gia về kinh tế, là một phương tiện để thực hiện
cơng bằng xã hội.
DNNN cịn có vai trò gánh vác chức năng, vai trò xã hội và khác biệt
so với các loại hình doanh nghiệp khác, DNNN có mặt ở những ngành ở
những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị xã hội mà tư nhân không muốn
đầu tư, đảm bảo cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các
ngành sản xuất hàng hố, cơng cộng thiết yếu. DNNN cung cấp những hàng
hố và dịch vụ cơng cộng mà quyền sở hữu khơng thể xác định (giao thơng,
đường thuỷ, cơng trình kiến trúc lịch sử, phong cảnh thiên nhiên…) hoặc
những hàng hoá, dịch vụ mà tư nhân không muốn làm (điện, nước…)
Nhà nước còn trợ giúp cho các doanh nghiệp lớn, nhất là các DNNN có
tuyển dụng nhiều lao động nhằm tạo sự ổn định và duy trì chỗ làm việc của
người lao động bằng cách tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động của
doanh nghiệp nếu khơng thì những doanh nghiệp này sẽ phá sản, gây ra
những hậu quả xã hội nghiêm trọng và sự trợ giúp này cũng có giới hạn và
thời gian.
DNNN có vai trị quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia,

DNNN đảm nhận vai trò quan trọng để giảm thiểu những thất bại của thị
trường, vì thế khu vực DNNN hoạt động có hiệu quả luôn là một mục tiêu các
quốc gia theo đuổi để có được sự phát triển kinh tể ổn định và bền vững.
1.1.2. Điều kiện và yêu cầu cải cách DNNN ở Việt Nam
Điểm nổi bật bao quát toàn bộ khu vực DNNN trên thế giới bất kể đó là
nền kinh tế phát triển hay không phát triển, kinh tế thị trường hay không thị


trường là sự cần thiết phải tồn tại và có những tác động tích cực khơng thể
phủ nhận của khu vực DNNN thì DNNN cũng lại là khu vực hoạt động kém
hiệu quả của nền kinh tế, gây ra những tổn thất to lớn cho các nguồn lực phát
triển của đất nước. Do đó, cải cách DNNN là một việc làm cần thiết góp phần
phát triển kinh tế-xã hội. Lợi ích đầu tiên của cải cách DNNN là làm giảm độc
quyền và tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế bởi nhiều DNNN hoạt động
theo nguyên tắc độc quyền, dẫn đến làm mất tác dụng của cơ chế cạnh tranh
kích thích tính hiệu quả của doanh nghiệp. Thêm vào đó phần lớn các hoạt
động sản xuất kinh doanh của DNNN lại cạnh tranh với các doanh nghiệp dân
doanh. Với những ưu đãi của Nhà nước như giảm thuế, ưu đãi tín dụng, do đó
DNNN có được những lợi thế và thuận lợi hơn trong cuộc cạnh tranh trên thị
trường, tạo ra rào cản cho sự phát triển của các doanh nghiệp dân doanh nói
riêng và vì thế ảnh hưởng đến q trình phát triển kinh tế quốc dân nói chung.
Cải cách DNNN giúp Nhà nước giảm thâm thủng ngân sách bởi DNNN
đã làm trầm trọng vấn đề thâm hụt ngân sách và nợ Chính phủ thơng qua các
khoản vay kém hiệu quả với độ rủi ro cao dành cho DNNN. Cải cách DNNN
giúp cân bằng lại ngân sách Nhà nước, khơng chỉ những chi phí thường
xun của Nhà nước giảm đi khi những khoản bù trợ cấp cho các DNNN
thua lỗ khơng cịn nữa, ngồi ra Nhà nước cũng có cơ hội thu được một
phần ngân sách thông qua việc chuyển giao sở hữu vốn trong các
DNNN. Cải cách DNNN giúp cho sự thịnh vượng chung của xã hội tăng
lên. Người dân nhận được nhiều thành quả hoạt động của DNNN hơn và phù

hợp với nhu cầu hơn so với sự cung cấp theo chức năng của các cơ quan Nhà
nước.


Trong điều kiện Việt Nam, cải cách DNNN xuất phát từ yêu cầu của
một nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung mà ở đó các DNNN
đóng vai trị độc tơn sang một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần mà ở


đó DNNN là một bộ phận của nền kinh tế. Khi hoạt động trong nền kinh tế thị
trường, DNNN đã bộc lộ nhiều điểm còn bất cập, cần phải cải cách và chuyển
đổi để đảm nhận vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của DNNN còn thấp,
chưa tương xứng với những điều kiện và lợi thế có được, tốc độ tăng trưởng
của DNNN có xu hướng suy giảm, nợ khó địi ngày càng lớn. Tốc độ tăng
trưởng tổng tài sản của các DNNN trong một thập kỷ qua bình qn tăng là
27%, tăng trưởng vốn tự có là 16%, tăng trưởng doanh thu là 15%, tăng
trưởng lợi nhuận 17%, tăng trưởng nộp ngân sách là 17%. Trong khi đó, con
số này của các doanh nghiệp dân doanh (DNDD) lần lượt là 40%, 29%, 33%,
35% và 29% và của các doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngồi (FDI) lần
lượt là 18%, 16%, 34% và 26%. Số DNNN có lãi chiếm 77% nhưng chỉ
khoảng 40% trong số đó có mức lãi cao hơn lãi suất huy động vốn của các
ngân hàng thương mại. Nếu loại trừ các doanh nghiệp có những lợi thế riêng
biệt như bưu chính viễn thơng, điện, khống sản, tài chính, ngân hàng thì hiệu
quả hoạt động thực sự của các DNNN là rất thấp. Tổng lợi nhuận đạt được
trong vòng một thập kỷ vừa qua của tất cả các DNNN chỉ vào khoảng
150.1 tỷ đồng. Nếu tính thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp khoảng 40% thì số thuế
thu nhập mà các DNNN đã nộp vào khoảng 60.000 tỷ đồng, thấp hơn số trợ
cấp trở lại cho DNNN vào khoảng 60.000-70.000 tỷ đồng. Điều đó có nghĩa
là trong vịng 10 năm qua , Nhà nước không những không thu được đồng

nào từ hơn 200.000 tỷ đồng vốn của mình tại các DNNN mà cịn phải bỏ
thêm tiền vào các DNNN. (Xem bảng 1)
Bảng 1 : Hiệu quả hoạt động của các loại hình doanh nghiệp
(1995-2005)


DNNN

45
40
35
30
( 25
% 20
15
10
5
0

Tang truong tong Tang truong von
tai san
tu co

DNDD

FDI

Tang truong doanh thuTang truong loi nhuan
Tang tuong nop ngan sach


Nguồn: Tổng cục thơng kê

Trình độ cơng nghệ lạc hậu cũng đang là cản trở lớn đối với khả năng
cạnh tranh của các DNNN. Theo số liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ, dây
chuyền sản xuất của các DNNN lạc hậu so với thế giới và khu vực từ 10 đến
30 năm như các ngành cơ khí, luyện kim; trình độ cơ khí hóa, tự động hóa
dưới 10%, mức độ hao mịn hữu hình từ 30%-50%, chỉ có một số DNNN
trong các ngành như sản xuất thiết bị đo điện, lắp ráp điện tử,.. đạt trinh độ
công nghệ hiện đại và trung trình của thế giới và khu vực. Điều đó dẫn đến
tình trạng là chi phí sản xuất của các DNNN cao hơn so với các doanh nghiệp
cùng ngành từ 20%-40% và làm giảm khả năng cạnh tranh của DNNN.
Chính những lý do trên và để các doanh nghiệp thích ứng với sự biến
đổi mạnh mẽ của thị trường trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện nay đã
biến quá trình cải cách, chuyển đổi DNNN trở thành một xu thế tất yếu ở Việt
Nam.
1.2. Các khía cạnh tài chính trong tiến trình cải cách DNNN
1.2.1.Tài chính và tác động của tài chính trong tiến trình cải cách DNNN


Tài chính và tiến trình cải cách DNNN có mối quan hệ khá mật thiết,
có thể nói tiến trình cải cách DNNN nhanh hay chậm phụ thuộc vào các biện
pháp tài chính được Nhà nước ban hành. Tài chính được hiểu là những quan
hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Trong các quan
hệ tài chính của doanh nghiệp với các chủ thể, thì mối quan hệ của doanh
nghiệp với Nhà nước chiếm một vị trí quan trọng. Đây là mối quan hệ phát
sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước và khi Nhà nước
góp vốn vào doanh nghiệp. Khi Nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp ở một
mức độ đủ lớn để kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp thì đó là q trình
quốc hữu hố, cịn khi Nhà nước thực hiện các chính sách giảm tỷ trọng vốn
trong doanh nghiệp thì đó là q trình chuyển đổi, cải cách DNNN.

Quá trình cải cách DNNN càng phát triển thì càng địi hỏi hệ thống tài
chính phát triển dựa trên cơ sở thị trường. Ngược lại, một hệ thống tài chính
phát triển sẽ thúc đẩy cải cách DNNN và giúp các DNNN tiếp cận được
những nguồn vốn, nguồn tín dụng tư nhân, phát triển các doanh nghiệp tư
nhân, đồng thời giảm thiểu nguy cơ biến những doanh nghiệp độc quyền Nhà
nước thành độc quyền tư nhân trong quá trình cải cách DNNN. Một trong
những đặc điểm đặc trưng của hệ thống tài chính mạnh là khả năng của các
ngân hàng nhận được và xử lý được thông tin về hoạt động kinh doanh nhằm
phân bổ nguồn vốn có hiệu quả và nâng cao trách nhiệm của các doanh
nghiệp để bảo đảm lợi nhuận, an tồn vốn của ngân hàng nói chung và an
tồn của hệ thống tài chính quốc gia nói riêng, đồng thời khuyến khích cạnh
tranh, tiết kiệm tín dụng, khuyến khích các doanh nghiệp cung cấp thơng tin
đầy đủ về hoạt động của các doanh nghiệp. Những biện pháp nhằm tăng
cường sức mạnh và khả năng tài chính để thúc đẩy cải cách DNNN như nới
lỏng các quy tắc hoạt động của các định chế tài chính như ngân hàng, quỹ
đầu tư để các định chế tài chính quyền tự quyết định mức lãi suất để các tổ
chức tài chính


cạnh tranh với nhau và tăng cường trách nhiệm đối với các khoản cho vay để
từ đó giảm thiểu rủi ro đối với những khoản cho vay đối với các doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước phải giảm bớt những khoản cho vay và những
khoản tín dụng chỉ đạo và có tính chính sách nhằm buộc các DNNN trước và
sau khi chuyển đổi để các DNNN chấp nhận những hạn chế gắt gao khi tiếp
nhận hỗ trợ từ Nhà nước và tăng cường tự chủ về tài chính đồng thời tạo điều
kiện cho khu vực tài chính phát triển. Có thể nói tốc độ và mục tiêu cải cách
DNNN có đạt được hay khơng phụ thuộc vào các chính sách tài chính được
Nhà nước ban hành.
Có hai hình thức cải cách DNNN chủ yếu được thực hiện là chuyển đổi
sở hữu và không thay đổi sở hữu. Biện pháp cải cách DNNN thứ nhất là

chuyển đổi sở hữu từ sở hữu 100% vốn Nhà nước sang các hình thức đồng sở
hữu như cổ phần hóa DNNN, chuyển giao dứt điểm như bán doanh nghiệp
cho tập thể người lao động trong doanh nghiệp, bán cho các đơn vị, cá nhân
ngoài doanh nghiệp. Biện pháp cải cách DNNN thứ hai là không thay đổi sở
hữu bao gồm các hình thức giao DNNN cho tập thể người lao động, khoán
kinh doanh, cho thuê DNNN, chuyển DNNN thành công ty TNHH một thành
viên.
Khi cải cách, chuyển đổi DNNN theo bất cứ biện pháp nào, thì vấn đề
đầu tiên là phải xác định doanh nghiệp có giá trị bao nhiêu hay là q trình
định giá doanh nghiệp, vấn đề thứ hai là xác định những khoản nợ của DNNN
bao gồm cả nợ phải thu, phải trả, hay là quá trình xử lý nợ. Xuất phát từ quan
điểm mỗi doanh nghiệp đều có một lượng vốn nhất định để hình thành nên tài
sản của doanh nghiệp phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn của doanh
nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau gọi là nguồn vốn, một tài
sản có thể được hình thành từ nhiều vốn khác nhau, ngược lại một nguồn vốn


có thể tham gia hình thành nên nhiều tài sản. Vốn chủ sở hữu chính là vốn của
Nhà nước trong DNNN trước khi chuyển đổi sở hữu, quy mô của vốn chủ sở
hữu phụ thuộc vào giá trị của tài sản và quy mô của công nợ. Vấn đề đặt ra
trong quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN là xác định đầy đủ giá trị tài sản và
quy mô công nợ để từ đó xác định đúng giá trị doanh nghiệp khi chuyển đổi
sở hữu từ Nhà nước sang khu vực ngoài Nhà nước để cả người bán là Nhà
nước bán đúng giá để không làm thâm hụt nguồn vốn và hoàn thành mục tiêu
cải cách đặt ra, trong khi đó người mua DNNN với giá cả hợp lý và có cơ hội
phát triển doanh nghiệp sau khi chuyển đổi.
Bên cạnh đó, cịn có các chính sách tài chính ưu đãi và hỗ trợ của Nhà
nước dành cho những DNNN trước và sau chuyển đổi để các doanh nghiệp
này chuyển đổi thuận tiện và hoạt động tốt hơn ở giai đoạn hậu chuyển đổi.
Các biện pháp tài chính hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp của Nhà nước thì có

nhiều, nhưng tựu trung lại có mấy cơng cụ chính như miễn giảm các loại thuế
đối với các DNNN hậu chuyển đổi để doanh nghiệp giảm bớt khó khăn và
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mới và mở rộng hoạt động kinh doanh, các
chính sách giúp tăng khả năng tiếp cận những nguồn vốn mới thông qua
chuyển nhượng cổ phần của các doanh nghiệp trước và sau khi chuyển đổi,
các chính sách hỗ trợ người lao động trong doanh nghiệp như trợ cấp cho lao
động dơi dư trong q trình chuyển đổi để giảm thiểu những bất lợi của người
lao động bởi quá trình chuyển đổi DNNN đồng thời với quá trình cơ cấu lại
hoạt động doanh nghiệp. Vì vậy, vai trị và tác động của tài chính đến tiến
trình cải cách DNNN chủ yếu trên các mặt :
- Định giá doanh nghiệp
- Xử lý nợ


- Những hỗ trợ tài chính khác, bao gồm : hỗ trợ tài chính cho người lao
động, ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp chuyển đổi,.v.v..
Tài chính và tiến trình cải cách DNNN có những mối quan hệ tác động
lần nhau, cải cách DNNN giúp thị trường tài chính phát triển. Những chính
sách tài chính hợp lý sẽ thúc đẩy tiến trình cải cách DNNN, những chính sách
tài chính khơng hợp lý sẽ kìm hãm tiến trình cải cách DNNNN. Trong những
chính sách tài chính nói trên thì xử lý công nợ và định giá DNNN là hai biện
pháp tài chính quan trọng nhất bởi suy cho cùng cải cách DNNN là tiến trình
Nhà nước tăng hay giảm tỷ lệ vốn đóng góp vào doanh nghiệp, xử lý nợ xác
định xem doanh nghiệp còn những khoản nợ phải thu phải trả là bao nhiêu và
định giá doanh nghiêp xác định được giá doanh nghiệp là bao nhiêu để cả
người bán và người mua doanh nghiệp đều thấy hài lòng.
1.2.2.Vai trị của xử lý nợ trong tiến trình cải cách DNNN
Trong hoạt động của doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng ln
phát sinh các khoản nợ phải thu, phải trả. Nợ phải thu của doanh nghiệp là
những khoản nợ mà con nợ nợ doanh nghiệp, nợ phải trả là khoản nợ mà

doanh nghiệp đang nợ những chủ nợ. Cả hai khoản nợ này nếu khơng được
thanh tốn đúng kỳ hạn thì từng bước trở thành nợ tồn đọng và sẽ là nợ khó
địi, những khoản nợ khó địi hay nợ tồn đọng này tác động tiêu cực đến hoạt
động của doanh nghiệp. Nợ tồn đọng được hiểu là các khoản cho vay của tổ
chức như các ngân hàng, quỹ tín dụng, các cơng ty tài chính, cơng ty khác gặp
rủi ro thanh toán về vốn gốc hoặc lãi. Các khoản nợ tồn đọng của DNNN là
những khoản mà DNNN vay của các tổ chức tài chính, vay Nhà nước và nợ
giữa các công ty Nhà nước với nhau và với các doanh nghiệp khác.


Để xác định nợ tồn đọng, một số quốc gia sử dụng tiêu chí định lượng
như số ngày quá hạn phải trả, hoặc dựa vào tiêu chuẩn định tính như đánh giá
của các Nhà quản lý về khả năng chi trả trong tương lai. Một số quốc gia khác
lại không đưa ra bất cứ tiêu chuẩn gì, tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa chủ nợ
và con nợ. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 trở lại đây
nhiều quốc gia đã chuyển từ cơ chế phân loại lỏng lẻo và khơng có hệ thống
trước đây sang sử dụng tiêu chí hướng về tương lai. Theo cách phân loại này,
các khoản cho vay được xem xét, phân loại không chỉ trên cơ sở chất lượng
trả nợ trong quá khứ khi mà thời gian nợ đã quá hạn mà còn dựa vào khả năng
trả nợ của người vay trong tương lai khi người vay có thể trả gốc và lãi đúng
hạn hay không, các khoản cho vay dù đang trong hạn nhưng có dấu hiệu cho
thấy người vay suy giảm năng lực trả nợ cũng được xếp vào diện nợ khó địi.
Việc xử lý nợ tồn đọng của mỗi quốc gia có những điểm khác nhau,
theo quan điểm chung thì trong điều kiện hoạt động bình thường của doanh
nghiệp và tổ chức thì việc xử lý nợ được thực hiện theo nguyên tắc tự xử lý
nợ giữa con nợ và chủ nợ. Nhà nước chỉ can thiệp vào quá trình xử lý nợ bằng
một chương trình xử lý nợ tổng thể khi các khoản vay tồn đọng của cả nền
kinh tế (bao gồm cả DNNN) đã tích tụ đến một quy mô khá lớn và đe doạ sự
an tồn của hệ thống tài chính và ổn định kinh tế vĩ mơ, chính sách xử lý nợ
chủ đạo xoay quanh việc giải quyết quyền của các chủ nợ chứ không xử lý

các khoản nợ phải thu quá hạn của doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, các quy định về nợ tồn có sự khác biệt so với thơng lệ
quốc tế. Nhà nước đã ban hành hai quy định về xử lý nợ, một dành riêng cho
xử lý nợ DNNN, một văn bản là quy định về xử lý nợ của ngân hàng thương
mại. Văn bản thứ nhất là Nghị định số 69/2002/NĐ-CP ban hành ngày
12/7/2002 của Chính phủ về quản lý và xử lý nợ tồn động đối với DNNN quy


định nợ tồn đọng được hiểu là các khoản nợ phải thu, phải trả đã quá thời hạn
thanh toán, doanh nghiệp đã áp dụng các biện pháp xử lý, như đối chiếu xác
nhận, đơn đốc thanh tốn nhưng vẫn chưa thanh toán được. Nợ tồn đọng được
xác định bao gồm: Nợ ngân sách Nhà nước, nợ các Ngân hàng thương mại,
nợ Dự trữ Quốc gia, nợ bảo hiểm xã hội, nợ các tổ chức, cá nhân ngoài doanh
nghiệp và cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp, các khoản nợ khác.
Văn bản pháp luật thứ hai là Quyết định số 149/QĐ-TTg ban hành ngày
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng của ngân hàng
thương mại là các khoản cho vay đã quá hạn thanh tốn và được chia làm ba
loại; nợ tồn đọng có tài sản bảo đảm, nợ tồn đọng khơng có tài sản bảo đảm
và khơng cịn đối tượng để thu hồi nợ, nợ tồn đọng khơng có tài sản bảo đảm
nhưng khách nợ còn tồn tại và đang hoạt động. Đối với các khoản nợ của
DNNN thì được xử lý bằng một số cách sau :
-

Xoá nợ : Đối với các khoản nợ khó địi và khơng thể xác định
được chủ nợ, nợ Nhà nước thì Nhà nước tiến hành xố nợ. Biện
pháp này ít được áp dụng vì Nhà nước mất một khoản ngân
sách

-


Chuyển nợ thành cổ phần : Chuyển nợ thành cổ phần của Nhà
nước trong doanh nghiệp chuyển đổi, vừa bảo tồn được vốn
của Nhà nước, vừa có cơ hội tăng nguồn vốn của Nhà nước

-

Giãn nợ : Kéo dài thời gian trả nợ, không phải trả lãi suất đối
với các khoản nợ trong một thời gian

Xử lý nợ tồn đọng có vai trị quan trọng đối với an tồn tài chính của
nền kinh tế nói chung và tiến trình cải cách DNNN nói riêng. Khi DNNN hoạt
động kém hiệu quả thì dẫn đến khả năng khơng trả được nợ và làm xuất hiện
và tích tụ nợ phải trả tồn đọng, khi đó ngân hàng và các tổ chức cho vay,


doanh nghiệp khác sẽ xuất hiện nợ phải thu tồn đọng và do không xử lý được
nên một lượng lớn vốn của ngân hàng tồn tại trong các DNNN, về phía Nhà
nước, ngân sách Nhà nước giảm do các khoản nợ làm DNNN và ngân hàng
hoạt động kém hiệu quả. Do bị hạn chế nguồn lực, Nhà nước buộc phải cơ
cấu, cải cách DNNN nhưng sự tồn tại của nợ tồn đọng kiến cho việc chuyển
đổi các DNNN gặp khó khăn. Điểm mấu chốt là Nhà nước phải có những
chính sách đột phá xử lý nợ tồn đọng làm trong sạch tài chính của DNNN
trước khi tiến hành chuyển đổi sở hữu. Xử lý nợ là một việc làm cần thiết,
vừa giúp đẩy mạnh cải cách chuyển đổi sở hữu DNNN, giúp lành mạnh hóa
tài chính cho doanh nghiệp trước và sau khi chuyển đổi qua đó giúp nền kinh
tế quốc dân nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững.
1.2.3.Vai trò của định giá doanh nghiệp trong tiến trình cải cách DNNN
Định giá doanh nghiệp hay xác định giá trị của doanh nghiệp giúp các
hoạt động giao dịch mua bán, sát nhập, hợp nhất và chia tách doanh nghiệp
diễn ra đảm bảo được quyền lợi của các bên tham gia. Định giá doanh nghiệp

nói chung và định giá DNNN nói riêng giúp xác định giá trị của doanh nghiệp
trên thị trường, nhất là thị trường chứng khoán, đối với các DNNN chuyển
đổi thì định giá DNNN chính là xác định giá doanh nghiệp được Nhà nước
bán cho các nhà đầu tư khác. Vì thế, định giá DNNN ln là mối quan tâm
của Nhà nước bởi Nhà nước không muốn bán tài sản với giá rẻ còn các nhà
đầu tư thì khơng muốn mua DNNN với giá đắt. Giá trị doanh nghiệp là sự
biểu hiện bằng tiền của các khoản thu nhập mà doanh nghiệp đó mang lại
cho các nhà đầu tư trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp hay là quá trình xác định giá
trị thực tế doanh nghiệp. Có hai cách xác định giá trị doanh nghiệp, cách thứ
nhất là trực tiếp


đánh giá giá trị của các tài sản trong doanh nghiệp, hay gọi là phương pháp
giá trị tài sản thuần, giá trị doanh nghiệp theo cách tiếp cận này bao gồm cả
tài sản hữu hình, tài sản vơ hình và định lượng giá trị của các yếu tố về tổ
chức, danh tiếng, thị phần.. của doanh nghiệp. Phương pháp giá trị tài sản
thuần xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên giá trị thị trường của các loại tài
sản của doanh nghiệp. Theo phương pháp này, giá trị thị trường của tài sản
được tính tốn dựa trên bảng cân đối tài sản và tham khảo giá thị trường của
loại tài sản tương tự hoặc cùng loại.
Cách tiếp cận thứ hai là định giá doanh nghiệp theo khả năng sinh lời
của doanh nghiệp được đánh giá gián tiếp thông qua việc lượng hoá các
khoản thu nhập kỳ vọng mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư
trong suốt thời gian hoạt động của doanh nghiệp dựa trên cơ sở là giá trị
doanh nghiệp có thể tính bằng giá trị hiện tại của các dòng lợi nhuận thu được
trong tương lai. Phương pháp này được dùng khi các nhà đầu tư kỳ vọng vào
các khoản lợi nhuận do doanh nghiệp mang lại hơn là mục tiêu làm chủ sở
hữu những doanh nghiệp được chuyển đổi.
Với hai cách tiếp cận định giá doanh nghiệp như trên, có nhiều cách

phương pháp xác định giá trị định giá doanh nghiệp khác nhau. Ví dụ như
phương pháp giá trị hiện tại thuần, phương pháp hiện tại hóa lợi nhuận,
phương pháp hiện tại hóa dịng tiền thuần, phương pháp định lượng dựa trên
lợi thế thương mại, phương pháp định giá doanh nghiệp dựa vào khả năng
sinh lời của doanh nghiệp thông qua chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận, phương
pháp sử dụng dữ liệu của thị trường chứng khốn, phương pháp chiết khấu
dịng tiền sau thuế và một số phương pháp khác. Bên cạnh đó quan hệ cung
cầu cũng ảnh hưởng rất lớn đến định giá doanh nghiệp, việc đánh giá được
quan hệ cung cầu về doanh nghiệp cũng là quan trọng khi xác định giá trị


doanh nghiệp. Ngồi ra cịn có các nhân tố khác như tình hình kinh tế, tài
chính và định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước cũng ảnh hưởng đến giá
trị của doanh nghiệp, nếu nhân tố này trong trạng thái bất ổn định thì chắc
chắn giá cả của doanh nghiệp sẽ tăng hoặc giảm.
Giá trị doanh nghiệp khi chuyển đổi sở hữu là giá trị hữu dụng của
doanh nghiệp tức là giá trị thực được huy động vào trong hoạt động kinh
doanh. Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị tồn bộ tài sản hiện có của
doanh nghiệp tại thời điểm chuyển đổi sở hữu mà người mua người bán đều
chấp nhận được, nó là giá cả thực tế mà người mua trả cho người bán khi
nhận quyền sở hữu một phần hay toàn bộ doanh nghiệp. Định giá doanh
nghiệp chính xác sẽ tránh thiệt hại cho bên bán, bên mua, người bán khơng
cho là mình bán rẻ và người mua khơng cho là mình mua đắt.
Định giá doanh nghiệp có vai trị quan trọng trong tiến trình chuyển
đổi sở hữu DNNN. Quá trình định giá doanh nghiệp nhanh hay chậm thì tiến
trình chuyển đổi DNNN nhanh hay chậm, Nhà nước không muốn bị mang
tiếng là bán rẻ tài sản Nhà nước, mà về thực chất đó là tiền đóng thuế của
người dân, trong khi đó các nhà đầu tư cũng không muốn mua DNNN với giá
cao, q trình tìm được tiếng nói chung giữa Nhà nước và nhà đầu tư để đi
đến một mức giá chấp nhận được đối với cả hai là không hề dễ dàng. Tại Việt

Nam, tiến trình cải cách chuyển đổi DNNN nói chung và q trình định giá
DNNN nói riêng là một quá trình vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Hiện tại, theo
Nghị định 187/NĐ/CP của Chính phủ ban hành ngày 16/11/2004 và Thông tư
số 126/2004/TT-BTC quy định cụ thể hai phương pháp định giá doanh nghiệp
được áp dụng ở Việt Nam là phương pháp giá trị tài sản ròng và phương pháp
dịng tiền chiết khấu, ngồi ra doanh nghiệp có thể áp dụng các phương pháp
khác nếu được sự đồng ý của Bộ Tài chính.


Định giá doanh nghiệp là một công việc không hề đơn giản, kết quả xác
định giá trị doanh nghiệp thường có những chênh lệch lớn khi sử dụng các
phương pháp khác nhau, và ngay cả khi áp dụng cùng một phương pháp vì kết
quả định giá phụ thuộc vào độ chính xác của các tham số tính tốn. Do vậy,
mỗi phương pháp định giá đưa ra đều có những thích ứng với hoàn cảnh cụ
thể của từng doanh nghiệp và kỳ vọng của nhà đầu tư. Chính vì vậy, định giá
doanh nghiệp cần dựa trên giá thị trường để thỏa mãn cả người chuyển đổi sở
hữu doanh nghiệp và người tiếp nhận là cách làm đúng nhất.
1.2.4. Những công cụ tài chính khác
Bên cạnh hai cơng cụ tài chính chủ yếu là xử lý nợ và định giá DNNN,
cịn có những cơng cụ tài chính khác mà Nhà nước ban hành để hỗ trợ cho
tiến trình cải cách DNNN. Những biện pháp tài chính hỗ trợ các DNNN trước
và sau khi chuyển đổi nhằm khuyến khích các DNNN có được những thuật
lợi về tài chính trước khi chuyển đổi và có được những điều kiện thuận lợi để
phát triển sau khi chuyển đổi bởi mục tiêu của Nhà nước cũng mong muốn
các DNNN sau khi chuyển đổi hoạt động có hiệu quả chứ khơng phải làm các
DNNN biến mất hồn tồn. Các chính sách thuế hỗ trợ doanh nghiệp sau khi
chuyển đổi từ DNNN sang các loại hình doanh nghiệp khác là một trong
những ưu đãi mà Nhà nước hay thực thi, các chính sách thuế ưu đãi như tăng
thời gian được giảm thuế thu nhập sau khi chuyển đổi, giảm thuế đối với các
doanh nghiệp chuyển đổi, miễn thuế thu nhập cho phần lợi nhuận để tái đầu

tư mở rộng hoạt động của doanh nghiệp.
Biện pháp hỗ trợ thứ hai mà Nhà nước dành cho những DNNN chuyển
đổi là những chính sách ưu đãi dành cho người lao động trong những DNNN
chuyển đổi. Để khuyến khích người lao động ủng hộ tiến trình cải cách
DNNN, Nhà nước hỗ trợ tài chính trợ cấp cho người lao động dơi dư khi


×