Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

chuyên đề kỹ thuật thủy canh và vấn đề bệnh cây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.3 KB, 33 trang )

Chuyên đề tiến sỹ: Kỹ thuật thuỷ canh và vấn đề bệnh cây.
Mục lục
TT Nội Dung Trang
Phần 1
Phần 2
2.1.
2.2.
2.3.
Phần 3
3.1.
3.2.
Phần 4
4.1.
4.1.1.
4.1.2
4.2.
Phần 5
5.1.
5.2.
5.3.
5.4.
5.5.
Phần 6
Lời mở Đầu
Giới thiệu về kỹ thuật thuỷ canh
Khái niệm.
Cơ sở khoa học và lịch sử phát triển của thuỷ canh.
Một số ưu, nhược điểm của kỹ thuật thuỷ canh.
Một số kết quả nghiên cứu về dung dịch dinh dưỡng và dụng
cụ để trồng cây bằng kỹ thuật thuỷ canh.
Một số kết qủa nghiên cứu về dung dịch dưỡng để trồng cây bằng


kỹ thuật thuỷ canh.
Một số kết qủa nghiên cứu về dụng cụ để trồng cây bằng kỹ thuật
thuỷ canh.
Một số kết quả nghiên cứu về khả năng ứng dụng của kỹ
thuật thuỷ canh.
Một số kết quả nghiên cứu về khả năng ứng dụng của kỹ thuật
thuỷ canh để sản xuất nông sản thương phẩm.
Một số kết quả nghiên cứu và ứng dụng về kỹ thuật thuỷ canh để
sản xuất nông sản thương phẩm trên Thế giới.
Một số kết quả nghiên cứu và ứng dụng về kỹ thuật thuỷ canh để
sản xuất nông sản thương phẩm ở Việt Nam.
Một số kết quả nghiên cứu về khả năng ứng dụng của kỹ thuật
thuỷ canh để sản xuất cây giống ở vườn ươm.
Vấn đề bệnh cây trong kỹ thuật thuỷ canh.
Một số điểm khác của bệnh cây ở thuỷ canh so với địa canh.
Một số bệnh hại cây thường gặp trong kỹ thuật thuỷ canh
Các nguồn bệnh và con đường lan truyền trong kỹ thuật thuỷ
canh.
ảnh hưởng của môi trường đến sự lan truyền bệnh trong kỹ thuật
thuỷ canh.
Các phương pháp kiểm soát bệnh cây trong kỹ thuật thuỷ canh.
Kết luận.
1
1
1
2
4
5
5
8

12
12
12
14
15
18
18
18
20
22
22
26
Phần 1
Lời Mở Đầu
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
2
Trên thế giới kỹ thuật thuỷ canh bắt đầu được nghiên cứu cách đây khoảng
hơn ba thế kỷ. Những năm gần đây thuỷ canh được ứng dụng khá rộng rãi trên thế
giới để sản xuất nông sản sạch. ở Việt nam kỹ thuật thuỷ canh mới được du nhập
vào để nghiên cứu và ứng dụng từ năm 1993 nhờ sự móc nối của giáo sư Lê Đình
Lương - ĐHQG Hà Nội với tổ chức R&D (nghiên cứu và phát triển) của Hồng
Công. Tuy rất non trẻ nhưng kỹ thuật thuỷ canh ở Việt nam được nghiên cứu và
ứng dụng với một tiến độ rất cao. Khá nhiều các kết quả nghiên cứu đã được ứng
dụng vào để sản xuất nông sản sạch như nghiên cứu tự sản xuất dung dịch dinh
dưỡng để chủ động trong việc nuôi cấy, nghiên cứu cải tiến dụng cụ thuỷ canh để
giảm giá thành đặc biệt là trường Đại học nông nghiệp I đã đề xuất một hướng
ứng dụng mới của thuỷ canh là sử dụng phương pháp thuỷ canh để đưa cây nuôi
cấy mô ra vườn ươm sản suất cây giống.
Trước đây người ta quan tâm rằng kỹ thuật thuỷ canh được tiến hành trong
nhà màn hoặc nhà kính nên vấn đề sâu bệnh trở nên không đáng ngại. Tuy nhiên

thực tế không hoàn toàn như vậy. Hiện nay người ta đã thấy bệnh trong kỹ thuật
thuỷ canh là vấn đề nan giải. Bởi vì khi nó đã xuất hiện thì khả năng lan truyền
nhanh hơn rất nhiều ở trên đất. Có thể nói một trong những khó khăn của việc ứng
dụng kỹ thuật thuỷ canh hiện nay là phòng trừ saau bệnh hại. Chính vì vậy chúng
tôi chọn chuyên đề kỹ thuật thuỷ canh và vấn đề bệnh cây trong nó.
Phần 2
Giới thiệu về kỹ thuật thuỷ canh.
2.1. Khái niệm.
Thuỷ canh (còn gọi là trồng cây trong dung dịch hay hydroponic) là một hình
thức canh tác không sử dụng đất, là một phần lớn của các phương pháp trồng cây
không dùng đất mà cây trồng được trồng trên hoặc trong dung dịch dinh dưỡng, sử
dụng dinh dưỡng hoà tan trong nước dưới dạng dung dịch.
2.2. Cơ sở khoa học và lịch sử phát triển của kỹ thuật thuỷ canh.
Từ xưa người ta đã thấy được vai trò của nước đối với đời sống sinh vật nói
chung và cây trồng nói riêng. Có thể nói “không có nước là không có sự sống”. Có
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
3
lẽ người đầu tiên nghiên cứu về thuỷ canh là Boyle (1666), ông đã thử trồng cây
trong những lọ con chỉ chứa nước, cây vẫn sống. Tiếp theo, năm 1699 Jonh Wood
Ward (Anh) đã trồng cây bạc hà trong nước có độ tinh khiết khác nhau, ông nhận
thấy: Cây sinh trưởng trong nước tự nhiên (không làm tinh khiết) tốt hơn trong
nước cất và cây sinh trưởng tốt nhất trong nước đục (dung dịch đất). Dù sao cách
giải thích đúng đắn kết quả đó tức là đất hoặc nước không tinh khiết đã cung cấp
dinh dưỡng cho cây trồng vẫn nằm ngoài sự hiểu biết của người thí nghiệm đầu
tiên. Giai đoạn đó các nhà khoa học đều tin vào sự quan trọng độc nhất của mùn-
đất trong dinh dưỡng thực vật, gọi là “thuyết mùn đất”, thuyết này tồn tại cho đến
thế kỷ 19. Justus Vonliebig (1803 - 1873) đã xác định tầm quan trọng của muối vô
cơ trong dinh dưỡng thực vật, gọi là “thuyết vô cơ phân bón”. Từ đó mở ra con
đường nghiên cứu khoa học về nguyên lý dinh dưỡng thực vật, dùng những dung
dịch dinh dưỡng có hoặc không có giá thể rắn để trồng cây. Có thể kể đến một số

người đầu tiên đã dùng cát hoặc các giá thể trơ khác để thí nghiệm như:
Wiegmann (1771 - 1853), Polstorff (1781 - 1844), Boussingault (1802 - 1887).
Từ năm 1849 đến 1856, Salm - Horstmar đã chứng minh được rằng cây lúa
mạch muốn sinh trưởng phát triển được bình thường phải cần đến những nguyên
tố như: N, P, S, Ca, K, Mg, Si, Fe, Mn.
Sau khi phát hiện được để cây trồng sinh trưởng và phát triển bình thường
cần có 16 nguyên tố cơ bản là: C, H, O, N, P, K, Ca, Mg, S, Fe, Cu, Mn, Zn, Mo,
B, Cl; hai nhà sinh lý học thực vật người Đức Sachs và Knop (1838) đã đề xuất
phương pháp trồng cây trong dung dịch. Trong 16 nguyên tố cơ bản kể trên nếu
thiếu bất kỳ một nguyên tố nào trong số đó, cây cũng không thể hoàn tất được chu
kỳ sinh trưởng, phát triển của mình một cách bình thường. Bảy nguyên tố sau cùng
(Fe, Cu, Mn, Zn, Mo, B, Cl) cây cần rất ít nên gọi là các các nguyên tố vi lượng.
Các nguyên tố còn lại là khoáng đa lượng. Ba nguyên tố C, H, O, cây lấy chủ yếu
từ khí cacbonic và nước. Mười ba nguyên tố kia cây phải lấy từ đất. Như vậy con
người hoàn toàn có thể trồng cây trong dung dịch có đầy đủ các nguyên tố kể trên
mà không cần đất.
Tóm lại cơ sở khoa học của kỹ thuật thuỷ canh là dựa vào bản chất của sự
sinh trưởng, phát triển của cây trồng là chỉ phụ thuộc vào một số yếu tố như nước,
muối khoámg, ánh sáng, sự lưu thông không khí mà không phụ thuộc vào môi
trường trồng có đất hay không? Cho nên chúng ta hoàn tòan có thể trồng cây mà
không cần sử dụng đất, chỉ cần đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên.
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
4
Dung dịch dinh dưỡng đầu tiên để trồng cây được Knop sản xuất đã được sử
dụng rộng rãi trong các nghiên cứu sinh lý thực vật, cho đến nay đã có hàng loạt
dung dịch trồng cây được nghiên cứu và đề xuất. Có lẽ công trình sớm nhất về sự
triển khai cách trồng cây không dùng đất như một dự án thương mại mà chúng ta
biết rõ nhất là công trình của Gericke vào năm 1930 ở trạm nghiên cứu nông
nghiệp California, từ đấy đã phổ biến rộng rãi thuỷ canh tại nước Mỹ. Trong
những năm chiến tranh thế giới thứ 2, quân đội Mỹ đã dùng thuỷ canh trong các

trang trại lớn để tự túc rau tươi. Trong đó trang trại lớn nhất rộng 22 ha ở Chofu
(Nhật).
Tuy nhiên để cây có thể hút được các nguyên tố dinh dưỡng và nước trong
dung dịch, rễ cây cần hô hấp. Như thế muốn trồng cây trong dung dịch phải cung
cấp liên tục ô xy cho rễ cây ngập trong dung dịch. Chính vì thế mà hàng loạt các
hệ thống trồng cây trong dung dịch đã dược nghiên cứu và đề xuất cần phải đảm
bảo vừa cung cấp đủ dinh dưỡng cho cây, vừa cung cấp đủ ô xy cho rễ cây. Người
ta liên tục cải tiến các hệ thống trồng cây trong dung dịch từ hệ thống trồng trong
dung dịch sâu của Gericke (1930) cho đến hệ thống trồng trong dung dịch sâu tuần
hoàn của Kyowa, Kubota (1977 - 1983), rồi gần đây là kỹ thuật màng mỏng dinh
duỡng (NFT = Nutrient Film Technique). Sự đa dạng của các kiểu trồng cây
không dùng đất đã tăng lên nhiều trong những năm gần đây. Từ các hệ thống có
chi phí tương đối thấp, dùng các giá thể tự nhiên sẵn có cho đến các hệ thống đắt
tiền và rất tinh vi, dùng giá thể nhân tạo trơ như len đá (Rock Wool) hoặc kiểu
trồng tiên tiến trong dung dịch không có giá thể rắn.
Tuy nhiên các hệ thống kể trên đều phức tạp và khó triển khai do đầu tư quá
cao cho hệ thống bơm tuần hoàn dung dịch nhằm đảm bảo cung cấp đủ ô xy cho
rễ, điều chỉnh pH và hàm lượng dinh dưỡng. Hơn thế nữa trồng cây trong điều
kiện dòng nước chảy hoàn toàn, sự lây lan bệnh rất nhanh chóng nếu trong hệ
thống chỉ cần vừa xuất hiện một cây nhiễm bệnh.
Có thể nói hệ thống cải tiến tối ưu hiện nay là hệ thống trồng cây trong dung
dịch không tuần hoàn của trung tâm nghiên cứu và phát triển rau Châu á (AVRDC
= Asian Vegetable Research Development Centre) - Hệ thống này đang được áp
dụng rộng rãi. Hiện nay nhóm các nhà nghiên cứu khoa học về thuỷ canh của Việt
Nam và công ty R & D (Research and Developmemt) của Hồng Công cũng đang
tiếp tục hoàn thiện thêm hệ thống trồng cây trong dung dịch này.
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
5
Từ dung dịch dinh dưỡng đầu tiên để nuôi cây là dung dịch của Knop đã
được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu sinh lý thực vật. Đến nay đã có hàng

loạt các dung dịch để trồng cây không dùng đất như dung dịch FAO, dung dịch I
Mai, dung dịch Đài Loan
2.3. Một số ưu, nhược điểm của kỹ thuật thuỷ canh.
2.3.1. Ưu điểm của kỹ thuật thuỷ canh.
- Chủ động điều chỉnh được dinh dưỡng cho cây trồng: Các chất cần thiết cho
quá trình sinh trưởng phát triển của cây trồng được cung cấp theo từng đối tượng
cây trồng. Một số thành phần có hại cho cây có thể được giữ trong giới hạn an
toàn hoặc loại bỏ. Các chất được cung cấp đồng đều cho tất cả các cây trong cùng
một hệ thống và không có tác động tồn dư của các vụ trước và các cách xử lý
trước đó.
- Giảm bớt nhu cầu về lao động nhờ loại bỏ được các khâu xới xáo trong quá
trình canh tác.
- Không phải tưới nước.
- Dễ thanh trùng: Nếu canh tác trên đất trong nhà kính liên tục thì phải thanh
trùng bằng xông hơi, việc này khó khăn và tốn kém. Trong khi đó các hệ thống
thuỷ canh chỉ cần thau rửa bằng formaldehyt loãng sau đó tráng lại bằng nước
sạch là xong.
- Nâng cao năng suất cây trồng: Do chủ động kiểm soát được các chất dinh
dưỡng mà cây trồng hấp thu nên kỹ thuật thuỷ canh có khả năng nâng cao năng
suất cây trồng vài chục, thậm chí tới hàng trăm phần trăm so với canh tác trên đất.
Ví dụ: ở Anh (năm 1976) trồng cà chua trong hệ thống màng mỏng dinh dưỡng
năng suất đạt 40,1 kg/m
2
, tăng 24,6% so với trồng trên than bùn (Spensley và cộng
sự - 1978) [14, tr.117]. Hoặc ở Hà Lan người ta thu được năng suất cà chua và cà
tím trồng trên len đá tương ứng cao hơn 6 - 34% và 13% so với trồng trên đất.
(Van O.S., 1982). Năng suất dưa chuột của Mỹ trên hydroponic là 103 tấn/ha, gấp
3 lần trồng trên đất [14, tr.130]. Theo Lê Đình Lương (1995) thì năng suất của cây
trồng trong dung dịch có thể cao hơn so với trồng ở đất từ 25 - 500 % [4, tr.5] do
có thể trồng được liên tục.

Ngoài ra thuỷ canh còn một số ưu điểm như không cần đất, chỉ cần không
gian đặt hộp, có thể trồng được trái vụ, không phải sử dụng thuốc trừ sâu
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
6
2.3.2. Nhược điểm của kỹ thuật thuỷ canh.
- Đầu tư ban đầu lớn nên giá thành sản phẩm cao: Đây là nhược điểm lớn
nhất và do đó đã cản trở việc phổ triển kỹ thuật thuỷ canh, đặc biệt đối với những
nước nghèo hoặc những vùng mà thuận lợi đối với trồng cây trên đất.
- Yêu cầu trình độ kỹ thuật cao: Rõ ràng rằng khi sử dụng kỹ thuật thuỷ canh
thì yêu cầu của người trồng trọt về vấn đề sinh lý cây trồng, về hoá học và về kỹ
thuật trồng trọt cao hơn nhiều so với người trồng cây trên đất. Vì trong đất tính
đệm hoá cao, nên những thay đổi lớn trong việc cung cấp dinh dưỡng cũng không
ảnh hưởng sâu sắc tới sự sinh trưởng của cây; còn trong dung dịch dinh dưỡng thì
đặc tính này thấp, nên việc sử dụng quá liều một chất dinh dưỡng nào đó có thể
gây hại thậm chí có thể dẫn đến chết cây
- Sự lan truyền bệnh nhanh: Nhất là ở các hệ thống kín hoặc dùng lại dung
dịch dinh dưỡng, khi mầm bệnh đã xuất hiện thì trong thời gian rất ngắn chúng đã
có mặt ở toàn bộ hệ thống như vi khuẩn gây héo cà chua, hạt tiêu và cà
(Pseudomonas solanacearum) [3, tr.34].
- Một nhược điểm nữa của thuỷ canh là đòi hỏi nguồn nước đảm bảo những
tiêu chuẩn nhất định: Có đảm bảo được như vậy con người mới hoàn toàn chủ
động kiểm soát được thành phần dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng. Theo D. J.
Midmore thì yêu cầu về độ mặn trong nước dùng cho các hệ thống thuỷ canh là
nhỏ hơn 2.500 ppm.
Phần 3
Một số kết quả nghiên cứu về dung dịch dinh dưỡng và dụng cụ để trồng
cây bằng kỹ thuật thuỷ canh.
3.1. Một số kết qủa nghiên cứu về dung dịch dưỡng để trồng cây bằng
kỹ thuật thuỷ canh.
3.1.1. Một số kết qủa nghiên cứu về dung dịch dưỡng để trồng cây bằng

kỹ thuật thuỷ canh trên Thế giới.
Dung dịch dinh dưỡng để trồng cây bằng kỹ thật thuỷ canh được nghiên cứu
cùng với sự ra đời của kỹ thuật thuỷ canh. Sau khi các nhà khoa học xác định được
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
7
sự sinh trưởng của cây trồng sẽ không bình thường nếu thiếu 1 trong 16 nguyên tố
hoá học sau: C, H, O, N, P, K, Ca, Mg, S, Fe, Cu, Mn, Zn, Mo, B, Cl; hàng loạt
các dung dịch dinh dưỡng để nuôi trồng cây bằng kỹ thuật thuỷ canh được các nhà
khoa học đưa ra. Có lẽ dung dịch dinh dưỡng đầu tiên được sử dụng để nuôi cây là
của nhà sinh lý thực vật Knop (từ giữa thế kỷ 19). Dung dịch Knop có đặc điểm là
thành phần rất đơn giản, chỉ gồm 6 loại muối vô cơ, trong đó chứa các nguyên tố
đa và trung lượng, không có các nguyên tố vi lượng. Do vậy khả năng sinh trưởng
của cây trồng trong dung dịch này không được tốt lắm. Sau đó là các dung dịch
dinh dưỡng phổ biến để nuôi trồng thực vật bậc cao. Từ những môi trường dung
dịch dinh dưỡng đơn giản nhất như: Hoagland-Arnon chỉ gồm 4 hợp chất muối vô
cơ cho đến những môi trường phức tạp gồm hàng chục loại muối vô cơ khác nhau
như môi trường của Arnon, của Olsen, của Sinsadze [10, tr.36-41]; và một số
dung dịch gần đây thường được sử dụng như dung dịch của FAO, của Đài Loan
Các nhà khoa học còn nghiên cứu các dung dịch dinh dưỡng riêng cho một số
loài cây trồng như dung dịch để trồng lúa của Axan, dung dịch để trồng củ cải
đường của Belouxov, dung dịch để trồng cà chua của Kitxon, dung dịch để trồng
chè của Khaan và Xcurea, dung dịch để trồng táo của Mori [10, tr.43-46], dung
dịch của Winsor (1973) để trồng cà chua [14, tr.90-91].
Ngoài ra còn một số các nghiên cứu khác trên Thế giới về dung dịch dinh
dưỡng trong kỹ thuật thuỷ canh như: Sandoval và cộng sự (Mehico - 1994) nghiên
cứu việc thay thế 1 phần đạm nitrat trong dung dịch bằng đạm amol dưới dạng
cacbonat để trồng lúa mì và kết luận: Năng suất chất khô và hạt giảm khi sử dụng
đạm amol [36]. Tác giả Carbonell và cộng sự (Mỹ - 1994) còn nghiên cứu ảnh
hưởng của nguyên tố asen đến hàm lượng các nguyên tố vi lượng trong cây cà
chua được trồng trong thuỷ canh và kết luận: Có asen trong dung dịch dinh dưỡng

làm tăng sự hấp thu sắt và giảm sự hấp thu B, Cu, Mn, Zn, tức là asen gây nên sự
phá huỷ cấu trúc cây [18].
Sudradfat -R và Herenati -E (Indonesia - 1992) đã nghiên cứu sử dụng hỗn
hợp nước sản xuất từ lên men yếm khí lá rác như một dung dịch dinh dưỡng để
trồng cây bằng kỹ thuật thuỷ canh và thấy rằng dưa chuột Nhật Bản trồng bằng
nước lên men yếm khí lá rác pha loãng 2 lần có chiều cao cây thấp hơn, chiều dài
quả và trọng lượng quả tương đương với dùng dung dịch dinh dưỡng thuỷ canh
[44].
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
8
3.1.2. Một số kết qủa nghiên cứu về dung dịch dưỡng để trồng cây bằng
kỹ thuật thuỷ canh ở Việt Nam.
ở Việt Nam khi kỹ thuật thuỷ canh bắt đầu được nghiên cứu thì dung dịch
dinh dưỡng chủ yếu nhập từ Đài Loan. Để chủ động về dinh dưỡng đã có một số
tác giả nghiên cứu và thu được một số kết quả nghiên cứu về dung dịch dinh
dưỡng để trồng cây bằng kỹ thuật thuỷ canh như: Công ty phân bón Sông Gianh
đã pha chế được dung dịch dinh dưỡng thủy canh Thăng Long để trồng các loại
rau ăn lá và ăn quả. Theo tác giả Nguyễn Thị Dần (1998) đã khảo nghiệm dung
dịch này và kết luận dung dịch dinh dưỡng Thăng Long không thua kém gì so với
dung dịch dinh dưỡng của Đài Loan đối với rau ăn lá, hoa và quả về năng suất và
chất lượng rau, hoa và quả. Đặc biệt ớt ngọt trồng trong dung dịch này cho năng
suất cao hơn 72,8 % so với dung dịch Đài Loan. Giá thành sử dụng của dung dịch
sẽ thấp hơn 46,3% do giá dinh dưỡng chỉ bằng 1/3 giá dung dịch nhập từ Đài Loan
[2, tr.19].
Tác giả Nguyễn Quang Thạch và cộng sự (1998) đã nghiên cứu tự pha chế 2
dung dịch dinh dưỡng (NC1 và NC2) để trồng thử nghiệm với một số loại rau ăn
lá bằng kỹ thuật thuỷ canh. Các tác giả đã thu được kết quả như sau: Cả 2 dung
dịch mà hoàn toàn chủ động pha chế là NC1 và NC2 đều cho sản phẩm rau xà lách
và rau cải có chất lượng tương đương và năng suất đạt được từ 70 - 90% so với
cùng loại rau trồng bằng dung dịch nhập từ AVRDC; nhưng giá 2 dung dịch tự

chế chỉ bằng 1/3 nên giá thành rau đã giảm được 22 - 27% so với sử dụng dinh
dưỡng nhập từ AVRDC [11, tr.455].
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của dung dịch FAO và Knop có cải tiến bằng cách
bổ sung vi lượng đến sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cà chua VR2 và
XH2, tác giả Vũ Quang Sáng đã cho biết: Chủ động được việc pha chế dung dịch
FAO và Knop cộng với vi lượng để trồng cà chua bằng kỹ thuật thuỷ canh, không
cần điều chỉnh pH mà chỉ cần bổ sung dung dịch dinh dưỡng khi cây ra hoa. Năng
suất và chất lượng quả trồng trên 2 dung dịch này tốt và giá thành hạ hơn so với sử
dụng dung dịch dinh dưỡng nhập từ AVRDC [7, tr.324-325].
Năm 1996, chúng tôi cũng đã nghiên cứu một số dung dịch dinh dưỡng để
trồng cây bằng kỹ thuật thuỷ canh. ở đây chúng tôi sử dụng 8 loại dung dịch trong
đó có 4 loại được sử dụng nguyên bản là dung dịch nhập từ Đài Loan (đ/c), dung
dịch FAO, dung dịch Knop, dung dịch I Mai và 4 loại dung dịch được cải tiến từ 4
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
9
dung dịch nguyên bản trên. Qua theo dõi ảnh hưởng của chúng tới sự sinh trưởng
của rau cải xanh và quá trình sinh trưởng phát triển và năng suất của cà chua
chúng tôi thấy: Tất cả 7 dung dịch tự pha chế và cải tiến đều cho năng suất cải
xanh thấp hơn trong đó có dung dịch FAO cho năng suất cải xanh cao nhất đạt
76,8% so với sử dụng dung dịch nhập từ Đài Loan. Tuy nhiên, đối với quá trình
sinh trưởng, phát triển và năng suất của cà chua thì có tới 4 trong 7 dung dịch
chúng tôi tự pha chế và cải tiến cho năng suất cao hơn; đặc biệt là dung dịch Knop
cải tiến bằng cách bổ sung thêm vi lượng và sắt của Đài Loan đã cho năng suất cà
chua đạt 5,69 kg/m
2
vượt 82,37% so với sử dụng dung dịch nhập từ Đài Loan [8].
3.2. Một số kết qủa nghiên cứu về dụng cụ để trồng cây bằng kỹ thuật
thuỷ canh.
3.2.1. Một số kết qủa nghiên cứu về dụng cụ để trồng cây bằng kỹ thuật
thuỷ canh trên Thế giới.

Từ khi kỹ thuật thuỷ canh ra đời đến nay nó đã trải qua rất nhiều kiểu dụng
cụ để trồng cây. Nếu căn cứ vào đặc điểm sử dụng dung dịch dinh dưỡng thì có thể
chia ra thành những kiểu hệ thống thuỷ canh sau:
+ Hệ thống thuỷ canh tĩnh: Trong quá trình sử dụng dung, dịch dinh dưỡng
không chuyển động. Những hệ thống này có ưu điểm là không phải đầu tư chi phí
cho thiết bị làm chuyển động dung dịch dinh dưỡng nên thường giá thành hạ hơn,
nhưng nhược điểm là thường thiếu ô xy trong dung dịch và dễ sinh ra chua (pH
giảm dần).
+ Hệ thống thuỷ canh động: Trong quá trình sử dụng dung dịch dinh dưỡng
có chuyển động nên đặc điểm của nó ngược lại với các hệ thống thuỷ canh tĩnh là
chi phí cao nhưng không thiếu ô xy trong dung dịch.
Riêng các hệ thống thuỷ canh động có thể chia làm 2 loại sau:
- Hệ thống thuỷ canh mở: Trong đó dung dịch dinh dưỡng không có sự tuần
hoàn trở lại, gây ra sự lãng phí dung dịch nhưng không mất tiền đầu tư cho bơm để
bơm dung dịch dinh dưỡng tuần hoàn trở lại.
- Hệ thống thuỷ canh kín: Trong đó dung dịch dinh dưỡng có sự tuần hoàn trở
lại nhờ một hệ thống bơm hút dung dịch dinh dưỡng ở bể chứa đầu thấp đưa lên
đầu cao của hệ thống máng trồng cây nên thường chi phí ban đầu cao nhưng tiết
kiệm được dung dịch.
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
10
Lịch sử phát triển của hệ thống kỹ thuật thuỷ canh đã trải qua một số loại
hình thuỷ canh chính như sau:
- Hệ thống trồng cây trong nước sâu (hệ thống Gericke): là hệ thống trồng
cây thuỷ canh tĩnh của Gericke đưa ra rất thịnh hành trong những năm 1930. Nó
gồm một hệ thống máng chứa dung dịch, trên mặt máng căng một lớp lưới, bên
trên lưới rải cát mỏng để giữ gốc cho cây đứng và che tối cho rễ cây trong dung
dịch. Một phần hoặc toàn bộ rễ cây được nhúng vào trong dung dịch dinh dưỡng.
Người ta điều chỉnh khoảng cách giữa lớp lưới và bề mặt dung dịch để tăng dần
khoảng lưu không ở vùng rễ ngay dưới gốc cây cho phù hợp với tuổi của cây (cây

càng lớn thì khoảng lưu không càng cần nhiều). Về sau có một số hệ thống cải tiến
sang thuỷ canh động (dung dịch dinh dưỡng có tuần hoàn).
- Hệ thống thuỷ canh nổi: là hệ thống thuỷ canh động kín. Luống trồng cây
được thả nổi trên dung dịch. Cây trồng được di chuyển dần trên máng. Gieo hạt ở
đầu máng và thu hoạch ở cuối máng. Hệ thống này là cả một dây chuyền khép
kín.
- Hệ thống trồng cây trong nước sâu có tuần hoàn: Gồm nhiều loại khác nhau
nhưng có chung một đặc điểm là trồng cây trong nước sâu hoặc nửa sâu. Có hoặc
không sử dụng bể chứa dung dịch dinh dưỡng. Trong hệ thống có các máng trồng
cây tĩnh. Dung dịch dinh dưỡng được chảy tới với một vận tốc thích hợp qua rễ
cây và có hồi lưu nhờ một hệ thống bơm, trước khi chảy vào vùng rễ dung dịch
được chảy qua một máy hoà khí. Rễ cây hoàn toàn nằm trong dung dịch dinh
dưỡng sâu lưu chuyển. Độ sâu của dung dịch được điều chỉnh theo yêu cầu của
mỗi loại cây và từng giai đoạn sinh trưởng của cây.
- Hệ thống màng mỏng dinh dưỡng (Nutrient Film Technique = NFT): Đây là
hệ thống thuỷ canh động. Đặc điểm là rễ cây được ngâm trong một dòng dung
dịch dinh dưỡng rất nông chảy ở đáy máng nên phát triển thành một lớp nệm
mỏng trên đáy máng. Ưu điểm nổi bật của hệ thống này là tỷ lệ giữa diện tích bề
mặt đối với khối lượng dung dịch rất cao cho phép thông khí tốt. Dung dịch dinh
dưỡng được chảy qua rễ thường xuyên ở độ dày khoảng 5 mm và với lưu lượng
khoảng 2 lít/phút.
- Hệ thống màn sương dinh dưỡng (còn gọi là khí canh - aeroponic): là một
biến thái của thuỷ canh. Trong hệ thống này cây được trồng trong những lỗ thủng
của các tấm polystyrene xốp, hoặc các loại vật liệu khác. Đặc điểm là rễ cây được
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
11
treo lơ lửng trong không khí ở phía dưới tấm đỡ gốc cây trong hộp xốp có hệ
thống phun mù dung dịch dinh dưỡng. Dinh dưỡng và nước được cung cấp đều
đặn định kỳ cho rễ cây bằng hệ thống này, khoảng cách giữa các lần phun thích
hợp là 2 đến 3 phút. Hộp naỳ cần che kín để cho rễ được nằm trong bóng tối. Hệ

thống này có ưu điểm đặc trưng là không lo thiếu ô xy, nhưng nhược điểm là phức
tạp khó làm với quy mô lớn. Một nhược điểm nữa là ở hệ thống này rễ cây phải
thực hiện chức năng của rễ mà không có chỗ dựa nên chúng thường cuộn rối với
nhau và có ít lông hút nên thường cây mọc không khỏe bằng ở những hệ thống
khác [14, tr.20-49].
Ngoài một số các hệ thống thuỷ canh chính trên còn rất nhiều hệ thống thuỷ
canh khác nữa.
Khi nghiên cứu về kỹ thuật thuỷ canh các tác giả đều cho thấy một yêu cầu
chung để mở rộng ra quy mô thương mại đối với tất cả các hệ thống thuỷ canh là
cần phải đảm bảo ổn định được pH môi trường trong quá trình canh tác và không
phải sục khí để cung cấp ô xy cho rễ cây. Với nguyên lý đó người ta đã tiếp tục cải
tiến và hoàn thiện dần các hệ thống thuỷ canh sao cho ngày càng đơn giản mà vẫn
đáp ứng được yêu cầu của kỹ thuật. Ngưòi ta đã cải tiến sang sử dụng những vật
dụng hết sức đơn giản và đa dạng, kể cả những phế phẩm như: sử dụng thùng
xốp, khay gỗ, chậu nhựa, bình sứ, thậm chí cả lốp ô tô, túi nilon Giá thể đỡ cây
là trấu hun, cát, vụn than đá Những hệ thống cải tiến này có giá thành rẻ nên đã
được thịnh hành, phổ biến rộng rãi nhất là ở khu vực châu Mỹ và các nước vùng
nam á và đã được tổ chức FAO khuyến cáo sử dụng.
Cho đến gần đây và tỏ ra ưu việt nhất là hệ thống thuỷ canh cải tiến của trung
tâm nghiên cứu và phát triển rau Châu á (AVRDC), do tiến sỹ Hideo I Mai và tiến
sỹ David Midmore nghiên cứu và hoàn thiện. Hệ thống này sử dụng một loại hộp
xốp chuẩn có kích cỡ xác định để đựng dung dịch dinh dưỡng. Giá thể đỡ cây chỉ
dùng một loại là trấu hun. Rọ nhựa đựng giá thể có nhiều loại, mỗi loại chuyên
dùng để trồng một số loại cây. Ví dụ có loại chuyên dùng để trồng cà chua, cà tím
và một số rau ăn sống.
Hệ thống thuỷ canh cải tiến của AVRDC có những đặc điểm sau:
- Dung dịch dinh dưỡng phù hợp cho hầu hết các loại cây trồng đặc biệt là
rau.
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
12

- Có khoảng cách thích hợp giữa mặt nước và gốc cây tạo điều kiện cho một
phần rễ nằm lơ lửng và thở trong không khí. Đồng thời phần rễ còn lại nhúng
trong dung dịch để hút nước và dinh dưỡng, do vậy cây sinh trưởng rất khoẻ.
- Đối với cây có thời gian sinh trưởng ngắn 3 - 4 tuần (như rau cải) thì trong
suốt quá trình trồng không cần bổ sung thêm dung dịch.
Có thể nói đây là một hệ thống thuỷ canh tối ưu hiện nay. Hệ thống này có rất
nhiều ưu điểm như:
- Hộp xốp kín đựng dung dịch có tác dụng cách nhiệt, làm cho nhiệt đọ trong
dung dịch tương đối ổn định (ấm về mùa đông, mát về mùa hè) và tránh ánh sáng
cho bộ rễ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng của cây.
- Hộp gọn nhẹ, dễ di chuyển khi cần tránh gió bão, đơn giản dễ làm, đặt bất
cứ chỗ nào cũng được (như hành lang, ban công, sân thượng ).
- Tất cả các hộp được đặt chung trong một nhà màn để cách ly côn trùng.
- Dung dịch dinh dưỡng trong hộp để nuôi cây không cần phải tuần hoàn mà
lại không phải sục khí
3.2.2. Một số kết qủa nghiên cứu về dụng cụ để trồng cây bằng kỹ thuật
thuỷ canh ở Việt Nam.
Vì kỹ thuật thuỷ canh còn là mới đối với Việt Nam nên cũng như đa số các
khía cạnh khác, dụng cụ thuỷ canh còn chưa được nghiên cứu đến. Xuất phát từ
chỗ muốn hạ giá thành cây giống sản xuất từ cây nuôi cấy mô bằng con đường
thuỷ canh ở giai đoạn vườn ươm, cùng với sự nghiên cứu cải tiến dung dịch thì
chúng tôi đã nghiên cứu cải tiến cả dụng cụ. Phương châm cải tiến là: đơn giản,
dễ làm, chi phí ít, có thể áp dụng được cho hộ gia đình ở nông thôn. Với phương
châm đó, qua nhiều lần cải tiến từ hệ thống thuỷ canh của AVRDC (là những
hộp xốp có nắp đục lỗ đặt rọ nhựa, trong rọ nhựa nhồi trấu hun để trồng cây) đến
nay chúng tôi tạm sử dụng một hệ thống rất đơn giản và rẻ tiền. Có thể mô tả hệ
thống này như sau: Phần đáy hộp xốp được thay bằng những máng đào xuống
đất rộng 1 m, sâu 10 đến 15 cm, dài tuỳ ý sao cho chẵn số lần 2 m. Trên đaý
máng được lót nilon để đựng dung dịch dinh dưỡng. Phần nắp hộp xốp được
thay bằng một khung tre hoặc gỗ có kích thước 2 m x 1 m, có đáy là phên tre

đan vuông 5 x 5 cm. Trên phên tre có lót 1 lớp lưới để đựng giá thể để trồng cây.
Sườn khung cao khoảng 5 -7 cm để giữ không cho giá thể rơi ra ngoài. ở đây giá
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
13
thể chúng tôi chuyên sử dụng là trấu hun như ở hệ thống của AVRDC. Mỗi
khung này sẽ là 2 m
2
, có diện tích bằng 12 hộp xốp. Chi phí hệ thống thuỷ canh
cải tiến như thế này chỉ bằng 40 - 50% chi phí cho hệ thống thuỷ canh của
AVRDC, mà vẫn không ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng, phát triển của cây.
Phần 4
Một số kết quả nghiên cứu về khả năng ứng dụng của kỹ thuật thuỷ canh.
4.1. Một số kết quả nghiên cứu về khả năng ứng dụng của kỹ thuật
thuỷ canh để sản xuất nông sản thương phẩm.
4.1.1. Một số kết quả nghiên cứu và ứng dụng về kỹ thuật thuỷ canh để sản
xuất nông sản thương phẩm trên Thế giới.
Từ sau khi hệ thống thuỷ canh trong nước sâu của Gericke ra đời (1930), trên
Thế giới tập trung nghiên cứu và triển khai ứng dụng kỹ thuật thuỷ canh nên đã có
hàng loạt kết quả về vấn đề này ra đời. Sau đây là một số cơ sở trồng cây bằng kỹ
thuật thuỷ canh với quy mô lớn trên Thế giới.
+ Cơ sở trồng cây hydroponic của Mỹ trước kia ở gần Tokyo (Nhật): Sau
chiến tranh thế giới thứ hai quân lực Hoa Kỳ đã xây dựng ở Nhật một cơ sở lớn để
sản xuất rau xanh trong đó có 22,5 ha sử dụng kỹ thuật trồng cây trên giá thể trơ
(sỏi) có dung dịch dinh dưỡng hồi lưu.
+ Trồng cây trong hydroponic ở Gabông: ở đây năng suất một số loại rau đã
đạt được rất cao như:
- Rau diếp: Trồng với mật độ 25 cây/m
2
, năng suất đạt khoảng 150 g/cây/30-
35 ngày.

- Dưa tây, cà chua: Năng suất đạt 3 kg/m
2
/75 ngày.
- Dưa chuột: Trồng với mật độ 3,5-4 cây/m
2
, năng suất đạt 7 kg/m
2
/90 ngày
+ Trồng cây hydroponic quy mô thương mại ở Khaitib Land (Singapore).
Đây là chương trình hydroponic để sản xuất rau quả quy mô thương mại của
Singapore, là hệ thống trồng cây trên giá thể trơ có tuần hoàn dung dịch, với tổng
diện tích là 16,7 ha. Nhà nước cho các công ty thuê từ 0,7 - 2 ha để sản xuất.
Trong hệ thống này rau, quả được trồng trên các luống bê tông rộng 1 m dài 20 -
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
14
30 m, sâu 15 - 20 cm. Giá thể sử dụng ở đây là một loại đá mảnh Granit (có kết
cấu tương đối thô). ở đây người ta đã sử dụng máy điện toán để quản lý hệ thống.
+ Cơ sở hydroponic ở Kuwait: Cơ sở này gồm 4 nhà kính với tổng diện tích
có mái che là 0,42 ha. Các luống được bố trí dài 15 m rộng 0,85 m. Luống được
lót bằng một tấm chất dẻo rồi đổ sỏi dày 20 cm. Cây được trồng trên giá thể là sỏi.
Dung dịch dinh dưỡng được tuần hoàn bằng hệ thống bơm, và lưu lại ở luống
khoảng 20 phút, rồi trở về bể. Đối tượng cây trồng là cà chua, cà tím, ớt, dưa
chuột.
+ Cơ sở hydroponic ở Manritius: Hệ thống được thiết kế theo kiểu lắp ghép
có thể thay đổi dễ dàng, thậm chí có thể chuyển đổi tới một cơ sở khác. Các luống
được lắp ghép bởi các tấm bê tông,với độ dốc 1/2.000, đáy luống lót bằng
polythene đen. Giá thể để trồng cây ở đây sử dụng là sỏi, đá. Hệ thống này thiết kế
theo kiểu thuỷ canh mở, không hồi lưu. Các cây được trồng ở đây là: dưa tây, dưa
hấu, ớt, hành, tỏi, cà chua, gừng và khoai tây.
+ Các cơ sở trồng cây trên len đá ở Hà Lan: ở Hà Lan việc sử dụng kỹ thuật

trồng cây bằng thuỷ canh, mà giá thể là len đá rất phổ biến. Nó có thể là hệ thống
mở không hồi lưu, tưới theo cách nhỏ giọt như vườn ươm của J. Marrewijk,
Dwarshaak 38, Hock Van Holland, vườn này rộng 1,8 ha, sử dụng trồng cà chua
liên tục; hoặc có thể là hệ thống kín hồi lưu như vườn ươm của Strik, Oosteinde
108a, Wateringen rộng 1,07 ha, chủ yếu trồng ớt
+ Trồng cây trên len đá ở Anh: Van Heyningen Bros có rất nhiều cơ sở, trong
đó có cơ sở lớn nhất là: Zuider Zee (8,8 ha), chuyên sản xuất cà chua (trồng17.780
cây/ha).
+ Hệ thống trồng cây trên màng mỏng dinh dưỡng ở Anh: Chuyên sản xuất
cà chua trên dinh dưỡng hồi lưu, rộng 0,61 ha.
+ Cơ sở trồng cây trên màng mỏng dinh dưỡng ở Port thuộc Tây Ban Nha:
Chuyên sản xuất cà chua với mật độ 30.000 cây/ha.
+ Sản xuất rau diếp theo hydroponic ở Ashby Massachuchetts thuộc Hoa Kỳ:
Điển hình là cơ sở hydro-harvest của P.A. và A.M. Shippers thành lập năm 1980
chủ yếu để sản xuất rau diếp quanh năm bằng hệ thống dòng chảy dung dịch với
diện tích 3.400 m
2
, sử dụng giá thể là Perlite [14, tr.129-150].
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
15
+ Các tác giả Shinohara, -Y.; Maruo, -T.; Ito, -T. (Nhật) đã so sánh ảnh
hưởng của 3 kiểu hệ thống thuỷ canh đến sự sinh trưởng, năng suất và chất lượng
cà chua và dưa chuột. Kết quả cho thấy: Rễ của cà chua trồng bằng kỹ thuật màng
mỏng dinh dưỡng đã có nhiều rễ tơ nhất. Còn chất lượng quả cà chua trồng bằng
hệ thống mao dẫn lên đã hơn hẳn ở độ ngọt và bền vững [49].
4.1.2. Một số kết quả nghiên cứu và ứng dụng về kỹ thuật thuỷ canh để sản
xuất nông sản thương phẩm ở Việt Nam.
Kỹ thuật thuỷ canh ở Việt Nam còn rất non trẻ, chỉ mới được đưa vào nghiên
cứu và ứng dụng từ năm 1993 nhờ sự hợp tác giữa Đại học Quốc gia Hà Nội với tổ
chức R và D (nghiên cứu và phát triển) của Hồng Kông. Đến tháng tư năm 1995

mới chính thức đưa vào trồng thử với một số loại cây nên chưa đạt được nhiều kết
quả. Mạng lưới nghiên cứu kỹ thuật thuỷ canh được lan rộng rất nhanh trong toàn
quốc, đã có hàng chục đơn vị tham gia. Mạng lưới này đã thu được một số kết quả
như sau:
- Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam trồng cỏ ngọt
bằng thủy canh cho thấy năng suất tăng 5%, hàm lượng đường tăng 0,2%.
- Viện dược liệu trồng thử một số cây thuốc quý để giữ giống thấy cây sinh
trưởng tốt.
- Đặc biệt trường Đại học nông nghiệp I Hà Nội là nơi làm rất tốt vấn đề này
và thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Nhóm nghiên cứu về kỹ thuật thuỷ canh
của trường đã trồng thử với rất nhiều loại rau và hoa đều thấy rằng hầu hết các loại
cây được trồng bằng kỹ thuật thuỷ canh sinh trưởng tốt và có năng suất cao hơn
trồng trên đất, không cần điều chỉnh pH. Nhiệt độ trong và ngoài hộp xốp chênh
lệch nhau từ 0 - 4
0
C, mùa hè nhiệt độ trong hộp xốp thấp hơn bên ngoài và vào
mùa đông thì ngược lại.
Kết quả nghiên cứu của sinh viên Nguyễn Thị Hoa Lan dưới sự hướng dẫn
của thầy giáo Nguyễn Quang Thạch (ĐH nông nghiệp I) về trồng hoa cẩm chướng
và cúc trong dung dịch cho thấy: Cây cúc và cẩm chướng trồng trong dung dịch
dinh dưỡng để lấy hoa có ưu thế hơn trồng trên đất cả về chiều cao, tốc độ ra lá, sự
đẻ nhánh và đặc biệt là chất lượng hoa cao hơn (biểu thị là đường kính hoa to hơn,
màu sắc hoa đẹp hơn) trong hệ thống thuỷ canh có màn che nên cúc và cẩm
chướng không bị sâu và ít bị bệnh, còn trồng trên đất dễ bị sâu bệnh nếu không
phun thuốc kịp thời [3, tr.65].
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
16
Từ năm 1995 tới nay, chúng tôi đã và đang nghiên cứu về kỹ thuật thuỷ canh.
Lúc đầu chúng tôi nghiên cứu trồng cải xanh và cà chua bằng hệ thống thuỷ canh
của AVRDC. Như phần kết quả nghiên cứu về dung dịch đã đề cập, ở đây chúng

tôi sử dụng 8 loại dung dịch trong đó có 4 loại được sử dụng nguyên bản là dung
dịch nhập từ Đài Loan (đối chứng), dung dịch FAO, dung dịch Knop, dung dịch I
Mai và 4 loại dung dịch được cải tiến từ 4 dung dịch nguyên bản trên. Kết quả cho
thấy với cải xanh sau trồng 45 ngày ở đối chứng cho năng suất đạt 4,18 kg/m
2
.
Tuy nhiên theo tính sơ bộ thì giá thành lên tới 8.218 đ/kg. Trong 7 công thức thí
nghiệm thì chỉ có ở dung dịch FAO là tuy năng suất chỉ đạt 3,21 kg/m
2
, nhưng do
chi phí về dung dịch giảm nên giá thành đã thấp hơn ở đối chứng, chỉ là 7.523
đ/kg. Với cà chua thì khác hẳn: ở đối chứng chỉ cho năng suất là 3,12 kg/ha, tương
ứng với giá thành là 23.547 đ/kg. Nhưng có tới 4 trong 7 dung dịch chúng tôi tự
pha chế và cải tiến cho năng suất cao hơn; đặc biệt là dung dịch Knop cải tiến
bằng cách bổ sung thêm vi lượng và sắt của Đài Loan đã cho năng suất cà chua
đạt 5,69 kg/m
2
vượt 82,37% so với sử dụng dung dịch nhập từ Đài Loan, và giá
thành tương ứng là 9.326 đ/kg (ở đây là sản xuất trên quy mô thí nghiệm) [8].
4.2. Một số kết quả nghiên cứu về khả năng ứng dụng của kỹ thuật
thuỷ canh để sản xuất cây giống ở vườn ươm.
Sử dụng kỹ thuật thuỷ canh để sản xuất cây giống là một ứng dụng mới nảy
sinh. Hiện nay kết quả nghiên cứu về vấn đề này trên Thế giới còn rất ít. Qua tập
hợp tài liệu chúng tôi thấy ở trạm nông nghiệp Okinaura của JIRCA ở Nhật (1997)
đã sử dụng hệ thống thuỷ canh để sản xuất giống mía từ chồi đốt. Phương pháp
này có thể tóm tắt như sau: Dựng đứng các đoạn thân mía trong dung dịch dinh
dưỡng để rễ phát triển từ đốt dưới nhất và các chồi đốt được phát triển ở hầu hết
các vị trí, trong khi trồng ở ngoài đồng chồi đốt chỉ xuất hiện ở 3 đốt phía trên. Giá
thể được sử dụng để kéo dài chồi đốt là Magic Soil và Jam Breaker (đều là các sợi
hoá học). Hệ thống này được tiến hành trong nhà kính nên sẽ giữ được nhiệt độ tối

thích cho mía sinh trưởng. Kết quả là sản xuất được một khối lượng lớn cây con từ
chồi đốt của cây mẹ trong một thời gian ngắn [5, tr.9].
ở Việt Nam, ngay sau khi kỹ thuật thuỷ canh được du nhập vào các nhà khoa
học đã nghĩ ngay đến việc ứng dụng kỹ thuật này vào giai đoạn vườn ươm của cây
nuôi cấy mô để sản xuất cây giống. Có thể nói các tác giả trường Đại học nông
nghiệp I là những người đề xướng hướng nghiên cứu này. Trong thời gian qua các
tác giả đã nghiên cưu cấy chuyển một số cây ăn quả (chuối, dứa), cây hoa (cúc,
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
17
cẩm chướng, loa kèn ), cây rau (khoai tây ). Theo hướng này Viện nghiên cứu
rau quả cũng nghiên cứu cấy chuyển một số cây rau, cây ăn quả, cây hoa Viện
dược liệu nghiên cứu cấy chuyển một số cây thuốc quý từ nuôi cấy trong ống
nghiệm ra hệ thống thuỷ canh để sản xuất cây giống Kết quả nghiên cứu của các
cơ sở này đều bước đầu nhận xét chung là: Các cây nuôi cấy mô trong ống nghiệm
đưa ra trồng trên hệ thống thuỷ canh để sản xuất cây giống ở giai đoạn vườn ươm
đều có tỷ lệ sống cao, sinh trưởng nhanh, rút ngắn được thời gian xuất vườn và
chất lượng cây giống được cải thiện, nhưng giá thành cây giống cao hơn đưa thẳng
ra đất.
Có thể điểm qua một số kết quả bước đầu về vấn đề này ở Việt Nam như sau:
Học viên cao học Nguyễn Thị Nhẫn dưới sự hướng dẫn của thầy giáo
Nguyễn Quang Thạch (Đại học nông nghiệp I, 1995) đưa dứa nuôi cấy mô ra thuỷ
canh để sản xuất dứa giống đã nhận xét: Sau 2 tháng ở vườn ươm cây dứa ở thuỷ
canh có các chỉ tiêu sinh trưởng (trừ số lá) gấp 2 lần và có khối lượng tươi gấp 8
lần trồng trên cát [6, tr.98].
Học viên cao học Đặng Thị Vân dưới sự hướng dẫn của thầy giáo Nguyễn
Quang Thạch (Đại học nông nghiệp I, 1995) đưa khoai tây nuôi cấy mô ra vườn
ươm trong điều kiện vụ thu có nhận xét: Khoai tây có tỷ lệ sống 90% trên thuỷ
canh, trong khi trên đất chỉ đạt 40%. Sử dụng hệ thống thuỷ canh của AVRDC để
sản xuất củ giống khoai tây gốc có khả năng tạo củ bình thường như trồng trên đất,
nhưng năng suất tăng gấp 8 lần và giá thành giảm 60% so với trồng trên đất. Dung

dịch Knop có hiệu quả hơn dung dịch MS khi sử dụng vào mục đích nhân cây
khoai tây in vitro trên bồn mạ.
Tác giả Phạm Thị Kim Thu và Đặng Thị Vân (1997) nghiên cứu đưa chuối
nuôi cấy mô ra vườn ươm bằng kỹ thuật thuỷ canh đã nhận xét: Tỷ lệ sống của
chuối nuôi cấy mô trồng trên dung dịch có biểu hiện cao hơn trồng trên đất. Cả 2
giai đoạn vườn ươm chuối nuôi cấy mô trồng trên thuỷ canh đều sinh trưởng tốt
hơn trồng trên hỗn hợp cát + đất + phân mùn [13, tr.13].
Tác giả Phạm Thị Kim Thu và Nguyễn Khắc Anh (1996) khi nghiên cứu trên
cây dứa cũng kết luận: Cây dứa nuôi cấy mô dưa ra vườn ươm trồng trên hệ thống
thuỷ canh AVRDC với các loại dung dịch khác nhau đều có khối lượng tươi sau
trồng 2 tháng lớn hơn hẳn ở trên đất. Các tác giả cũng cho biết có thể sử dụng hệ
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
18
thống Hydroponic của ARVDC để tạo cây hoàn chỉnh phục vụ sản xuất, và các tác
giả cũng đề nghị nghiên cứu thêm về vấn đề này [12, tr.12].
Sinh viên Lê Hoàng Anh dưới sự hướng dẫn của Thầy giáo Nguyễn Quang
Thạch (ĐH nông nghiệp I, 1996) đã nghiên cứu thăm dò ứng dụng kỹ thuật thuỷ
canh vào giai đoạn vườn ươm để đưa một số cây nuôi cấy mô như: Chuối, dứa,
mía, cúc, cẩm chướng ra vườn ươm sản xuất cây giống, và đã có một số nhận xét
sau: Các cây nuôi cấy mô đưa ra vườn ươm bằng kỹ thuật thuỷ canh có tỷ lệ sống
cao hơn. Riêng với cây mía thì có khả năng đẻ nhánh cao hơn so với đưa thẳng ra
hỗn hợp đất, cát và phân mục. Mỗi loại cây nuôi cấy mô khi đưa ra có thích hợp
với một môi trường khác nhau. Ví dụ: Cây mía thích hợp với dung dịch của Đài
Loan pha loãng ở nồng độ 25% của nồng độ chuẩn có bổ sung thêm sắt. Cây
chuối, cây dứa, cây hoa cẩm chướng thì thích hợp với dung dịch của Đài Loan pha
loãng 50 % [1, tr.62].
Sinh viên Đinh Trường Sơn dưới sự hướng dẫn của Thầy giáo Nguyễn Quang
Thạch và Cô giáo Nguyễn Thị Nhẫn (ĐH nông ngghiệp I, 1999) khi nghiên cứu
“góp phần hoàn thiện quy trình nhân giống dứa Cayenne bằng phương pháp nuôi
cấy mô” đã cho thấy: phương thức thuỷ canh giúp cho quá trình sinh trưởng và

phát triển thuận lợi, vì cây con có thể xuất vườn sớm hơn so với các phương thức
khác từ 1 đến 2 tháng [9, tr.84].
Từ 1996 đến nay chúng tôi chúng tôi nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật thuỷ canh
vào giai đoạn vườn ươm của chuối và dứa nuôi cấy mô để sản xuất chuối, dứa
giống đã thu được rất nhiều kết quả, đó là nội dung chính xin được trình bày kỹ
trong luận án.
Phần 5
Vấn đề bệnh cây trong kỹ thuật thuỷ canh.
5.1. Một số điểm khác của bệnh cây ở thuỷ canh so với địa canh.
Mặc dù canh tác thuỷ canh đã giảm được rất nhiều về mặt số lượng trong
các nguồn bệnh mà ở địa canh vốn rất sẵn như từ đất, từ phân bón, từ nước mà
thuỷ canh không phải sử dụng đến hoặc có sử dụng thì ở dạng sạch hơn rất
nhiều. Tuy nhiên vấn đề bệnh cây trong kỹ thuật thuỷ canh vẫn sẩy ra và thỉnh
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
19
thoảng tổn thất do bệnh gây ra còn lớn hơn nhiều so với địa canh vì những lý do
sau:.
- Không khí: Nhìn chung các bệnh có ng
- Một khi đã xuất hiện bệnh cây thì khả năng lan truyền của nó trong thuỷ
canh rất nhanh, nhất là đối với các hệ thống thuỷ canh động (dung dịch dinh
dưỡng chuyển động), vì khi đó mầm bệnh được đưa từ nơi này đến nơi khác một
cách dễ dàng theo dung dịch.
- Phần lớn các bệnh hại cây lây lan và phát triển nhanh trong điều kiện
nhiệt độ ổn định và ẩm độ cao. Thế mà trong hệ thống thuỷ canh thì ẩm độ luôn
gần như bão hoà, còn nhiệt độ trong hệ thống thuỷ canh thường ổn định hơn
nhiệt độ ngoài trời vài độ (ấm hơn về mùa đông và mát hơn về mùa hè). Do đó
môi trường thuỷ canh là nơi rất thuận lợi cho sự sinh sôi phát triển nhanh của
bệnh cây.
- Cây trồng trong hệ thống thuỷ canh thường ít tiếp súc với ánh sáng trực
xạ nên non yếu, mềm hơn, hàm lượng cellulose ít, hàm lượng nước cao, các mô

thịt lá xốp hơn nên dễ dàng xuất hiện những vết thương do ngoại cảnh mang lại,
đây là cơ hội để nhiễm bệnh và khi đã nhiễm thì mức độ thiệt hại lớn hơn cây
trồng ngoài đồng ruộng rất nhiều.
- Còn một lý do nữa là hầu hết các cây trong cùng một hệ thống thuỷ canh
thì đồng nhất về kiểu gen, cùng độ tuổi sinh trưởng nên khi bệnh đã xuất hiện thì
khả năng lây lan bệnh rất nhanh.
5.2. Một số bệnh hại cây thường gặp trong kỹ thuật thuỷ canh.
Các bệnh hại cây trong thuỷ canh thường xuất hiện ở rễ, vì đây là nơi thuận
lợi nhất cho chúng phát sinh phát triển. Về số lượng bệnh so với canh tác trên
đất thì ở thuỷ canh ít hơn rất nhiều. Cho đến năm 1994 người ta mới biết được 4
bệnh do virus, 2 bệnh do vi khuẩn và 20 bệnh do nấm hại rễ rau trồng thuỷ canh.
Hầu hết các bệnh phá hại rễ cây trồng thuỷ canh đều trực tiếp hay gián tiếp do
nấm Pythium, Phytophthora, Plasmopara và Olpidium gây nên. Chỉ riêng một
bệnh hại trên rễ và ngọn cà chua là do nấm Fusarium oxysporum f. sp. radicis-
lycopersici gây ra. Những loại nấm này có thể hại cả cây con, cũng như cây đã
lớn. Tất cả chúng đều sản sinh ra bào tử có thể di động được gọi là động bào tử.
Các động bào tử này rất thích hợp với môi trường nước. Những bào tử này hình
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
20
thành trong những nốt phồng của rễ những cây nhiễm bệnh và cuối cùng thoát ra
ngoài. Quá trình di chuyển của chúng có thể kéo dài 12 giờ đồng hồ, thông qua
một cơ chế hoá học chúng gắn vào rễ và thành nang rồi chui sâu vào rễ cây mới
để phá hại. Khả năng sinh sản của những bào tử nấm này là rất lớn. Theo tính
toán người ta thấy trên một đoạn rễ dài 1 cm của cây rau diếp bị bệnh có khoảng
40 bào tử. Mỗi bào tử này có thể sinh ra 100 bào tử nữa, vậy từ 1 cm rễ có thể có
4.000 bào. Trong khi một cây rau diếp trưởng thành có khoảng 2.000 cm rễ, như
vậy chúng có thể sinh ra và lan truyền khoảng 8 triệu bào tử nấm. Các loại nấm
bệnh trên được xác định là đã gây ra các bệnh phá hại ở các cây trồng này trồng
trên đất như: bệnh Pythium aphanidermatum, Pythium myriotylum, Phytopthora
cryptogea và Phytophthora nicotianae [33, tr.1129-1131].

Tuy nhiên việc canh tác thuỷ canh còn có thể bị nhiễm những bệnh mới mà
chưa thấy xuất hiện ở ngoài đồng ruộng. Ví dụ Phytopthora cryptogea sẽ phá hại
cây rau diếp trong hệ thống thuỷ canh mà chưa thấy nói tới trên đồng ruộng
[15]. Gần đây người ta đã phát hiện ra một loại nấm bệnh mới hại rau diếp trồng
thuỷ canh. Loại nấm này, như một lớp mốc lông tơ làm hại rễ cây có tên là
Plasmopara lactucaeradicis chưa thấy nói đến hại bất cứ một loại cây trồng nào
trên đồng ruộng [31]. Hơn nữa có một số bệnh rễ cây đã không gây thiệt hại lớn
trên đồng ruộng nhưng lại phá hại rất nặng trong kỹ thuật thuỷ canh như bệnh
Pythyum dissotocum. Loại nấm này lần đầu tiên được xác định là nguyên nhân
của bệnh thối rễ trầm trọng đối với rau chân vịt và rau diếp trồng thuỷ canh.
Nhưng đến nay người ta đã loại trừ được bệnh này ra khỏi rễ cây rau diếp trồng
thuỷ canh [30]. Hình như bệnh này có ở khắp mọi nơi trong tự nhiên trên cây
rau diếp, chúng phá hại âm ỉ. Cây bị bệnh không thể hiện rõ triệu chứng, chỉ có
tốc độ sinh trưởng của cây là chậm đi nên khi tất cả các cây trong cùng một hệ
thống đều bị nhiễm bệnh thì rất khó phát hiện vì không có gì để so sánh.
5.3. Các nguồn bệnh và con đường lan truyền trong kỹ thuật thuỷ
canh.
Việc xác định rõ nguồn bệnh tiềm tàng có tác dụng rất lớn đối việc lựa
chọn các giải pháp phòng chống các bệnh hại cây trồng một cách có hiệu quả.
Cũng như với canh tác trên đất, để loại trừ đựơc các bệnh trong kỹ thuật thuỷ
canh được tốt hơn cần phải xác định được các nguồn lây bệnh. Qua nghiên cứu
người ta đã kết luận nguồn bệnh trong thuỷ canh có thể lây lan từ không khí, hạt
giống, giá thể, đất, nước và côn trùng uồn gốc như trên đã nêu ít có trong không
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
21
khí. Tuy nhiên có nấm F.o. radicislycopersici là loại có mặt cả trong không khí
nhưng có sức phá hại rất lớn đối với canh tác thuỷ canh. Loại nấm này phá cả rễ
và ngọn cây cà chua. Bào tử nấm này có nguồn gốc từ không khí và đã dược xác
định là nguồn chính truyền bệnh vào nhà kính [41].
- Hạt giống: Cũng có ít bệnh lan truyền qua con đường hạt giống đối với kỹ

thuật thuỷ canh. Đến năm 1994, người ta mới phát hiện được 2 lọai bệnh lây qua
con đường hạt giống ở canh tác thuỷ canh đó là: Bệnh do vi khuẩn Clavibacter
michiganense [26] và bệnh virus gây hoại tử cây dưa được lan truyền bằng nấm
Olpidium radicale. Vì vậy khi đã có mặt trong cây giống hoặc hạt giống thì virus
này sẽ được lan nhanh thông qua các vector truyền bệnh là nấm [25].
- Đất: Trong đất rất nhiều mầm bệnh nhưng kỹ thuật thuỷ canh lại không
dùng đất. Tuy nhiên đất vẫn có thể là nguồn lây truyền bệnh cho cây trồng ở hệ
thống thuỷ canh thông qua hai khía cạnh sau: Đất bám theo giày, dép của người
lao động, từ đó nó có thể cung cấp bào tử nấm cho môi trường trong vườn thuỷ
canh. Hoặc có một số hệ thống thuỷ canh đặt ngay sát mặt đất là nơi thuận tiện
cho việc nhiễm bệnh từ đất vào hệ thống [33,tr.1131].
- Giá thể: Những giá thể trơ sử dụng trong hệ thống thuỷ canh như len đá,
trấu hun, cát nếu không khử trùng cẩn thận, nhất là khi sử dụng lại sẽ là nguồn
lây bệnh hại lớn đối với cây trồng trong kỹ thuật này. Ví dụ người ta đã xác định
cát sông đã rửa có thể vẫn nhiễm nhiều loại bệnh hại cây trồng, và đã được xác
định là một nguồn chính đưa bệnh Pythium aphanidermatum và bệnh Pythium
dissotocum vào trong hệ thống thuỷ canh [28]. Kinh ngiệm của chúng tôi cho
thấy sử dụng formaldehyt để xử lý mầm bệnh trong giá thể trước khi sử dụng là
rất tốt.
- Nước: Nguồn nước sử dụng để pha dung dịch dinh dưỡng có thể là một
nguồn lớn mang theo mầm bệnh hại cây trồng thuỷ canh. Nước ao hồ, nước
sông suối thường bị nhiễm bệnh; nước giếng thì ngược lại. Có 2 cách ngăn ngừa
ở đây là khử trùng nước trước khi dùng hoặc sử dụng nước sạch. Ví dụ năm
1988 ở Anh bị thiệt hại nhiều đối với cây rau diếp trồng thuỷ canh do sử dụng
nguồn nước sông có chứa nấm Pythium dissotocum. Tháng 10 năm 1989, một
ông nông dân ở nước Anh ngẫu nhiên thấy rằng khi ông ta không sử dụng nước
sông nữa mà sử dụng nước giếng đào sâu 140 m để dùng trong hệ thống thuỷ
canh thì rau của ông không còn bị bệnh này nữa [33, tr.1132].
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
22

- Côn trùng: Mặc dù thuỷ canh thường được tiến hành trong nhà kính hoặc
nhà màn có tác dụng che chắn côn trùng nhưng nhiều khi côn trùng vẫn là
những “vector” truyền bệnh đối với bệnh hại cây trồng trong thuỷ canh. Ví dụ
các giống ruồi biển (Scatella stagnalis) và ruồi ty (Bradysia spp) [33, tr.1132].
Ruồi ty chỉ truyền bệnh Pythium aphanidermatum [48], còn ruồi biển thì truyền
các bệnh như: Thielaviopsis basicola [34], [35], F.o. radicis lycopersici [21].
Chúng có thể truyền bệnh bằng 2 cách sau: Mầm bệnh do ấu trùng ruồi ăn vào,
tồn tại trong nó. Hoặc ruồi trưởng thành có thể chứa bệnh do nhiễm tự nhiên hay
hút phải những cây bị bệnh. Người ta thấy rằng khoảng 95 % ruồi trưởng thành
và 85 % ấu trùng có chứa mầm bệnh của những cây trồng thuỷ canh. Ngoài việc
truyền bệnh nấm, ruồi biển còn truyền bệnh vi khuẩn đối với các cây trồng thuỷ
canh như vi khuẩn Erwinia carotovora và vi khuẩn Pseudomonas cichori [33,
tr.1133].
Người ta thấy rằng khả năng truyền bệnh của ruồi biển là rất lớn. Tất cả
những cây dưa chuột thường xuyên bị ruồi biển nhiễm bệnh đậu vào đều bị chết
[38]. Stanghellini đã chứng minh 93 % ruồi biển đậu vào những cây cà chua bị
bệnh nấm F.o. radicislycopercisi đã ăn phải những bào tử nấm và phân của
chúng mang mầm bệnh này có thể lây truyền sang những cây khoẻ [33, tr.1133].
Ngoài ruồi biển, ruồi ty thì ruồi trắng và một số nấm cũng là vector truyền
bệnh [20]. Vì vậy việc kiểm soát côn trùng là cần phải tính đến trong các giải
pháp phòng chống bệnh hại đôí với kỹ thuật thuỷ canh.
Từ những nguồn bệnh trên ngoài con đưòng lan truyền bằng côn trùng thì
nó còn được lan truyền thông qua các con đường như tự lây lan do sự di chuyển
của động bào tử trong hệ thống thuỷ canh thông qua dung dịch dinh dưỡng, đặc
biệt là khi tái sử dụng dung dịch dinh dưỡng. Hoặc sự tiếp súc trực tiếp giữa cây
với mầm bệnh như rễ cây khoẻ với rễ cây đã nhiễm bệnh cũng có thể lan truyền
bệnh 33, tr.1134].
5.4. ảnh hưởng của môi trường đến sự lan truyền bệnh trong kỹ thuật
thuỷ canh.
Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự tự lan truyền trong kỹ thuật thuỷ

canh là ẩm độ và nhiệt độ. Hai yếu tố này đối với canh tác ngoài đồng ruộng thì
chúng thay đổi nhiều, còn trong hệ thống thuỷ canh thì 2 yếu tố này đặc biệt là ở
vùng rễ cây ổn định hơn trong toàn bộ thời vụ gieo trồng. Sự ổn định này nếu
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
23
đồng nhất với yêu cầu của một bệnh nào đó thì sẽ là điều kiện lý tưởng cho bệnh
đó phát triển. Mặt khác nước tự do có nhiều trong hệ thống thuỷ canh sẽ thuận
lợi cho mầm bệnh lan truyền, do sự di chuyển trực tiếp của mầm bệnh trong
dung dịch hoặc tạo nên môi trường ẩm ướt thích hợp cho sự phát sinh, phát triển
của bệnh. Trong các yếu tố môi trường ở đây thì ẩm độ của hệ thống thuỷ canh
tương đối ổn định và tác động vào nó để đem lại ảnh hưởng có lợi cho con
người cũng như cho cây trồng về vấn đề phòng chống bệnh cây là ít đem lại hiệu
quả. Ngược lại nhiệt độ dung dịch được xem là yếu tố quan trọng nhất chi phối
việc hình thành và lan truyền bệnh, và người ta có thể dễ dàng kiểm soát nó hơn
so với ẩm độ. Ví dụ nấm Pythium aphanidermatum đã phá hại dưa chuột, cà
chua, rau chân vịt mạnh nhất ở nhiệt độ dung dịch trên 25
0
C và hại không đáng
kể ở nhiệt độ dưới 20
0
C [28], [45]. Ngược lại nấm Phytopthora cryptogea phá
hại cà chua thì có sức phá hại lớn nhất ở nhiệt độ là 15
0
C và gây hại không đáng
kể ở nhiệt độ trên 25
0
C [22], [42], [43]. Schuerger, -A.C. và Hammer, -W.
(1995) đã thấy rằng những cây hồ tiêu trồng trên hệ thống thuỷ canh hoàn toàn
bị virus Mosavic tomato chích vào rễ sẽ bị ảnh hưởng nặng vào mùa nóng. Khi
nhiệt độ <18

0
c thì virus này hầu như không phát triển [19]. Từ những yêu cầu tối
thích về nhiệt độ như trên, khi chúng ta hiểu biết được thì có thể chủ động điều
khiển nhiệt độ dung dịch lệch ra ngoài vùng tối thích của bệnh để ngăn chặn sự
phát triển của bệnh hại. Giải pháp này rất hữu hiệu mà hiệu quả kinh tế cao. Tuy
nhiên trong trường hợp này việc xác định chính xác nhiệt độ tối thích đối với
một loại bệnh nào đó cụ thể là rất cần thiết.
5.5. Các phương pháp kiểm soát bệnh cây trong kỹ thuật thuỷ canh.
Theo Midmore thì ngăn ngừa và cách ly là 2 phương pháp quan trọng nhất
để kiểm soát sâu bệnh. Ông đề nghị vệ sinh sạch sẽ, kiểm soát không hoá chất
trên quy mô nhỏ và nên kiểm tra hàng ngày để tránh thất thu vì sâu bệnh trong
kỹ thuật thuỷ canh [20]. Một số tác giả đề nghị phun phòng chống côn trùng và
nấm khi chúng vừa mới xuất hiện. Theo Stanghellini (1994), một khi bệnh đã
tồn tại trong trang thiết bị thuỷ canh thì việc kiểm soát rất khó nhưng đôi khi vẫn
làm được và có hiệu quả. Vấn đề này phụ thuộc vào việc xác định chính xác các
bệnh trong hệ thống thuỷ canh. Theo ông có thể có 3 biện pháp sau:
* Biện pháp sinh học: Biện pháp này rất có hiệu quả, có thể bằng cách:
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
24
- Sử dụng cây kháng bệnh: Rất tiếc đến nay mới tìm thấy rất ít cây trồng có
khả năng kháng được những bệnh thường gặp như mong muốn. Ví dụ: cà chua
kháng được bệnh nấm Fusarium, rau diếp thì kháng được bệnh Plasmopara
lactucaeradicis 33, tr.1135].
- Sử dụng vi sinh vật đối kháng: Biện pháp này gần đây được các nhà khoa
học quan tâm nhiều, đặc biệt là với những hệ thống thuỷ canh sử dụng giá thể là
len đá và kết quả tỏ ra có triển vọng. Tuy nhiên chưa thấy đề cập đến việc ứng
dụng nó vào kỹ thuật thuỷ canh thương mại [16], [27], [37], [40]. Cũng như sử
dụng cây kháng bệnh, đến nay vi sinh vật đối kháng duy nhất được biết là đã sử
dụng vào các hệ thống thuỷ canh thương mại là Steptomyces griseoviridy đối
kháng với bệnh nấm Fusarium.

* Biện pháp cơ học và canh tác: Biện pháp này đặc biệt có hiệu quả cao
đối với kỹ thuật thuỷ canh.
Việc loại bỏ những phần hoặc cây bị nhiễm bệnh cũng như làm vệ sinh
dụng cụ và giá thể giúp duy trì một hệ thống sạch bệnh là cần thiết và có lợi cho
việc ngăn ngừa sự phát sinh, phát triển bệnh cây trong kỹ thuật thuỷ canh, đặc
biệt là đối với cây trồng trong vườn ươm. Các hệ thống vườn ươm nên đặt ở một
khu vực hoàn toàn cách ly với khu sản xuất và không nên dùng cùng một lô
dung dịch với khu sản xuất.
Dung dịch dinh dưỡng khi đã nhiễm bệnh có thể xử lý bằng những phương
pháp không sử dụng thuốc hoá học như: dùng sóng siêu âm, ôzôn hoá, chiếu tia
cực tím, khử hoạt tính nhiệt [29], [39, [46], [47]. Tuy nhiên sẽ rất khó áp dụng
khi canh tác thuỷ canh thương mại do giá thành cao và khó làm với những hệ
thống thuỷ canh có dung dịch dinh dưỡng tuần hoàn. Ví dụ có những hệ thống
thuỷ canh thương mại đòi hỏi lưu lượng dòng chảy dung dịch tới hơn 1 nghìn
lít/phút, khi đó việc khử trùng 1 lượng lớn dung dịch như vậy, nhất là trong hệ
thống thuỷ canh đóng không có thời gian nghỉ là không thể thực hiện được
[33,tr.1135].
Việc kiểm soát điều kiện môi trường bằng biện pháp cơ học rất có hiệu quả
trong một số trường hợp. Như đã đề cập ở phần “5.4. ảnh hưởng của môi trường
đến sự lan truyền của bệnh cây trong kỹ thuật thuỷ canh”, hai yếu tố môi trường
quan trọng nhằm khống chế vòng đời và chu kỳ của những bệnh rễ cây là nhiệt
độ và ẩm độ. Trong các yếu tố môi trường thì kiểm soát và điều chỉnh nhiệt độ
Chuyên đề tiến sỹ Nguyễn Khắc Thái Sơn
25

×