Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ
được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất
hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ
đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác.
Triết học được xem là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những
nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con người đối với thế
giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học Phương Tây nói chung và Triết học Phương Tây từ cổ đại đến cận đại
là một bộ phận quan trọng trong hệ thống triết học thế giới. Đối tượng của triết học
phương Tây nói chung ngồi phần siêu hình học bàn về những ý niệm trừu tượng như
bản thể, ý thức, hư vơ... cịn lại là những hành trình vào các vấn đề cụ thể có liên quan
tới con người như cảm giác, nhận thức, ký ức, hạnh phúc, đạo đức…. Các vấn đề về
con người như con người tri thức thế giới xung quanh như thế nào, vai trò của con
người trong quá trình nhận thức như thế nào… hay những vấn đề và xã hội như quan
hệ giữa các nhân và xã hội, ai quan trọng hơn, đạo đức là vấn đề xã hội hay vấn đề cá
nhân, quan hệ giữa cá nhân và nhà nước… là trọng tâm trong quan điểm của các triết
gia phương Tây. Bài tiể luận này sẽ tập trung tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng con người
và xã hội được thể hiện trong quan điểm của các triết gia thuộc các trường phái triết
học khác nhau trong Triết học Phương Tây từ cổ đại tới cận đại.
Trang 1
CHƯƠNG I – KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI ĐẾN
CẬN ĐẠI
I.1. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
I.1.1.
Điều kiện/hoàn cảnh ra đời
Hy Lạp cổ đại là một lãnh thổ rộng lớn bao gồm khu vực miền Nam bán đảo
Ban-căng (thuộc Châu Âu), nhiều hòn đảo nằm trên biển Êgiê và cả một vùng rộng
lớn ở ven biển bán đảo Tiểu á. Yếu tố địa lý tự nhiên này đã tạo điều kiện cơ bản để
nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại phát triển từ rất sớm.
Q trình lịch sử lâu dài với khơng ít những thăng trầm của vùng đất Hy Lạp cổ đại
gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng triết học của nó trong đó sự phân
chia xã hội thành giai cấp, sự phân công lao động xã hội thành lao động trí óc và lao
động chân tay đã dẫn tới sự hình thành một đội ngũ các nhà trí thức chuyên nghiệp
chuyên nghiên cứu về khoa học, triết học.. Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn
ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý
của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của
tri thức khoa học (khoa học tự nhiên). Nhưng bên cạnh đó, sự xuất hiện của những trí
thức khoa học và triết học trong thời kỳ này đã tạo nên một bước ngoặt lớn về nhận
thức của con người, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất, những tri thức về khoa học tự
nhiên phát triển mạnh, được trình bày trong hệ thống triết học - tự nhiên của các nhà
triết học cổ đại, bên cạnh đó, khoa học thời bấy giờ chưa phân ngành nên các nhà triết
học đồng thời cũng là các nhà Toán học, nhà Vật lý học... Từ các yếu tố đó có thể
khẳng định rằng, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự gắn bó với nhu
cầu thực tiễn và gắn với khoa học.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Socrates (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Socrates (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hố
I.1.2.
Nội dung/đặc điểm chính
Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào lúc xã hội này đã phát triển lên chế độ
chiếm hữu nô lệ với hai giai cấp chủ yếu là chủ nô và nô lệ nên nó là hệ tư tưởng, là
thế giới quan của giai cấp chủ nơ thống trị, đồng thời nó cịn là cơng cụ bảo vệ, duy trì
địa vị, quyền lợi của giai cấp chủ nô, là công cụ nô dịch, đàn áp các giai cấp khác về
mặt tư tưởng. Bên cạnh tính giai cấp rõ rệt đó, triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng, đề
cao vai trò của con người, coi con người là tinh hoa của tạo hoá. Do là một trong
những nền triết học mở đường trong lịch sử triết học nhân loại hơn nữa các quan niệm
triết học được rút ra trên cơ sở suy luận, suy đoán từ sự quan sát trực tiếp các sự kiện
xảy ra trong tự nhiên, trong xã hội nên triết học Hy Lạp cổ đại mang nặng tính sơ
khai, chất phác, ngây thơ. Tuy nhiên, từ trong sự khởi đầu đó, các nhà triết học sau
này đã nhìn thấy ở triết học Hy Lạp cổ đại mầm mống của tất cả các kiểu thế giới
quan sau này và xem nó là một đỉnh cao của triết học nhân loại. Tuỳ thuộc vào từng
thời kỳ lịch sử, tuỳ từng không gian địa lý cụ thể mà triết học Hy Lạp cổ đại chia
thành các trường phái và các giai đoạn phát triển khác nhau.
Trên thực tế, mặc dù triết học duy vật Hy Lạp ra đời trên nền tảng thần thoại và
tôn giáo nhưng thế giới quan lại hồn tồn mới lạ dựa trên cơ sở trí tuệ sâu sắc đã đem
lại cho con người giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống con người đặt ra,
giúp họ có cách sống hợp lý trong xã hội. Có thể coi triết học Hy Lạp cổ đại là đỉnh
cao của văn minh Hy Lạp, với các đặc trưng cơ bản:
-
Triết học Hy Lạp đã có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vơ thần và hữu thần.
Tồn bộ nền triết học thế giới sau này cũng dựa trên những nền tảng cơ bản đó.
-
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học
tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới việc
xây dựng thế giới quan tổng thể, biến triết học thành "khoa học của các khoa
học".
-
Triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai,
cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất thường xuyên
vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng biện chứng
của triết học Hy Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của phép biện
chứng.
-
Thể hiện tính giai cấp sâu sắc, đã thể hiện nó là thế giới quan và ý thức hệ của
giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội bấy giờ.Vì thế dễ hiểu tại sao phần lớn
các nhà triết học thời kì này đều coi nô lệ không phải là con người mà chỉ là
công cụ biết nói.
-
Triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, khẳng định con
người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới, là tinh hoa cao quý nhất
của tạo hóa.”Con người là thước đo tất thảy mọi vật”(Pitago). Mặc dù vậy, con
người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh
đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
I.1.3.
Các triết gia tiêu biểu
Hy Lạp là một trong những chiếc nơi của nền văn minh nhân loại. Ở đó xuất
hiện rất sớm và đạt được những thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó cịn in đậm đối
với sự phát triển của tư tưởng triết học sau này. Thời kì này nổi bật lên với tên tuổi
của các nhà duy vật như Đêmôcrit, Hêraclit, Arixtôt, Êpiquya… Trong nội dung của
bài tiểu luận này, chúng ta sẽ xem xét những thành tựu của nền triết học này thông qua
sự đóng góp của các triết gia tiêu biểu như Hêraclit, Đêmôcrit, Platon và Arixtôt,
Socrates.
I.1.3.a.
Hêraclit
Hêraclit đã đứng trên lập trường duy vật cổ đại để giải quyết vấn đề “cơ sở đầu
tiên” của thế giới từ một dạng vật chất cụ thể. Ơng cho rằng lửa chính là bản ngun
của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên.
Lửa là cơ sở làm nên sự thống nhất của thế giới. Thế giới vận động theo trật tự mà ông
gọi là logos: logos khách quan và logos chủ quan quan hệ với nhau như là quan hệ
giữa khách thể và nhận thức. Và như vậy thì sự phù hợp với logos khách quan là tiêu
chuẩn để đánh giá tư duy con người. Đây là một đóng góp có giá trị của Heraclit cho
phép biện chứng sau này.
Tuy chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm như sau này
nhưng phép biện chứng của Hêraclit đã đề cập tới hầu hết những luận điểm cốt lõi của
phép biện chứng dưới dạng các câu danh ngơn mang tính thi ca và triết lý. Ông quan
niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Quan niệm về vận động đã được một số nhà
triết học trước đó đề cập nhưng phải đến Heraclit thì mới tồn tại với tư cách là học
thuyết về vận động với câu nói nổi tiếng “khơng ai có thể tắm hai lần trên cùng một
dịng sơng”. Quan niệm về vận động của ơng có nội dung cốt lõi là tư tưởng về sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Hêraclit đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại nói chung và triết học duy vật cổ đại
nói riêng tiến lên một bước mới với những quan điểm duy vật và những yếu tố biện
chứng. Học thuyết của ông được nhiều nhà triết học sau này kế thừa. Mác và Ăng
ghen coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại, đồng thời hai
ông cũng vạch rõ những hạn chế, sai lầm của Hêraclit về mặt chính trị trong quan
niệm phản dân chủ, thù địch với nhân dân do ông chủ trương.
I.1.3.b.
Đêmôcrit:
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Đêmocrit nêu ra khái niệm không gian.
Theo ông, không gian là khoảng chân khơng rộng lớn, trong đó những ngun tử vận
động vĩnh viễn. Không gian là những khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó các vật
thể có thể tụ lại hoặc giãn ra. Xuất phát từ học thuyết nguyên tử, Đêmocrit cho rằng
không gian là gián đoạn và có thể phân chia vơ tận.
Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcrit là quyết định luận (thừa nhận
sự ràng buộc theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên) nhằm
chống lại mục đích luận (là quan điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiên
khơng phải là tính nhân quả mà có tính mục đích). Sự thừa nhận tính nhân quả, tính tất
yếu và tính quy luật trong giới tự nhiên là một trong những thành quả có giá trị nhất
của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại.
Đêmocrit có nhiều công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông đặt
ra và giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác
với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức
tự nhiên.
Nét đặc sắc trong triết học duy vật của Đêmơcrit là chủ nghĩa vơ thần. Ơng cho
rằng sở dĩ con người tin vào thần thánh là vì con người bất lực trước những hiện tượng
khủng khiếp của tự nhiên. Theo ông, thần thánh chỉ là sự nhân cách hố những hiện
tượng tự nhiên hay là những thuộc tính của con người. Thí dụ, mặt trời mà tơn giáo
Hy Lạp đã thần thánh hố thì ơng cho đó chỉ là một khối lửa.
Cơng lao có ý nghĩa lịch sử của Đêmôcrit là ông đã bền bỉ đấu tranh cho quan
niệm duy vật về tự nhiên. Nó đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của
triết học duy vật.
I.1.3.c.
Platon:
Platon là một nhà triết học duy tâm khách quan. Ông là người đầu tiên xây
dựng hệ thống hoàn chỉnh đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm khách quan, đối lập với thế
giới quan duy vật. Ông đã tiến hành đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật đặc
biệt là chống lại những đại biểu của chủ nghĩa duy vật thời bấy giờ như Hêraclit,
Đêmôcrit. Theo Platon, giới tự nhiên thế giới của những vật cảm tính bắt nguồn từ
những thực thể tinh thần tức là từ những ý niệm; vật thể cảm tính chỉ là cái bóng của ý
niệm. Ông cho rằng, để nhận thức được chân lý người ta phải từ bỏ mọi cái hữu hình
cảm tính; phải “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử quan sát được trong thế
giới ý niệm. Thuyết hồi tưởng thần bí này được xây dựng trên cơ sở học thuyết về linh
hồn bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác.
Nếu ở Đêmocrit, phép biện chứng được sử dụng để phục vụ khoa học thì ở
Platon phép biện chứng lệ thuộc vào triết học duy tâm. Đường lối Platon chống lại
đường lối Đêmôcrit trong triết học Hy Lạp cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử của
Đêmôcrit. Các hiện tượng tự nhiên bị ông quy về các quan hệ tốn học. Đạo đức học
của ơng được xây dựng trên học thuyết về linh hồn bất tử là một hình thức của lý luận
tơn giáo, là bộ phận quan trọng nhất của ý thức tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc.
Platon là một trong những nhà triết học xuất sắc nhất trong nền triết học Hy
Lạp cổ đại, hệ thống triết học của ông đề cập đến nhiều học thuyết như ý niệm, nhận
thức luận... và dù cho cịn có hạn chế nhưng ơng là người có cơng lớn trong việc
nghiên cứu các vấn đề về ý thức xã hội, đặt nền tảng cho việc xây dựng các khái niệm,
phạm trù và tư duy lý luận.
I.1.3.d.
Arixtơt:
Ơng đã nêu lên học thuyết bốn ngun nhân, trong đó ơng cho rằng bất kỳ sự
vật nào, nếu tồn tại bao giờ cũng xuất phát và được tạo thành từ bốn nguyên nhân:
nguyên nhân hình dạng, nguyên nhân mục đích, nguyên nhân vật chất, nguyên nhân
vận động. Bên cạnh học thuyết bốn ngun nhân, Arixtơt cịn xây dựng học thuyết về
linh hồn và nhận thức luận. Ông phê phán quan niệm của Platon về linh hồn bất tử,
ông cho rằng khơng chỉ có con người mà mọi thực thể sống đều có linh hồn và khơng
phải mọi linh hồn đều bất tử. Lý luận nhận thức của Arixtôt chứa đựng nhiều tư tưởng
hợp lý và nhiều yếu tố duy vật. Theo ông, đối tượng của nhận thức là ở bên ngồi con
người, q trình nhận thức là q trình phản ánh đối tượng bên ngoài ấy và trải qua
nhiều cấp độ từ thấp đến cao, chưa hoàn thiện đến hồn thiện theo trình tự : Cảm giác,
biểu tượng, kinh nghiệm, nghệ thuật, khoa học. Đạo đức học của Arixtôt phản ánh rõ
nhất lập trường giai cấp của ơng. Ơng cho rằng, đạo đức phải phục vụ quyền lợi của
nhà nước, hành vi nào làm suy yếu nhà nước là khơng có đạo đức. Đạo đức phải gắn
liền với hành vi của con người, tiêu chuẩn đánh giá một cá nhân có đạo đức khơng
phải ở lời nói mà là ở hành động. Triết học của Arixtơt tuy còn những hạn chế, dao
động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng ông vẫn xứng đáng là bộ óc
vĩ đại nhất trong các bộ óc vĩ đại của nền triết học Hy Lạp cổ đại, “là vị hoàng đế
Maxêđoan” của triết học.
I.1.3.e.
Socrates
Socrates xuất thân trong một gia đình khá giả ở Athen. Cha làm nghề điêu khắc,
mẹ là nữ hộ sinh. Ơng hướng về chính thể chủ nô quý tộc chống lại chủ nô dân chủ.
Năm 399 BC, ông bị chủ nô dân chủ kết án tử hình về tội “coi thường luật pháp,
chống lại chế độ bầu cử dân chủ”. Đối với ông chỉ có văn nói sống động, và văn viết
đã bị khơ cứng. Vì vậy cuộc đời ơng khơng để lại một tác phẩm nào. Chỉ biết được
ông qua đệ tử của ông.
Triết học của ông khác với các nhà triết học trước đó. Các nhà triết học trước
nghiên cứu về giới tự nhiên. Nhưng ông dành phần lớn vào việc nghiên cứu về con
người, về đạo đức, về nhân sinh quan. Triết học khơng gì khác hơn là sự nhận thức
của con người về chính mình, “con người hãy nhận thức chính mình”. Bắt đầu từ ơng,
đề tài con người trở thành một trong những chủ đề trong tâm của triết học phương
Tây. Vì vậy, quan điểm triết học của ơng bàn đến vấn đề con người trong đời sống xã
hội mà trước hết là hành vi đạo đức.
Xuất phát từ “đạo đức học duy lý”, ông cho rằng, “Hiểu biết là cơ sở của điều
thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác, và chỉ có cái thiện phổ biến mới là cơ sở của
đạo đức, mới là cơ sở của đức hạnh. Ai tuân theo cái thiện phổ biến thì người đó mới
có đạo đức. Và muốn theo cái thiện phổ biến thì phải hiểu được nó, muốn hiểu được
nó phải thơng qua các cuộc tranh luận, tọa đàm, luận chiến tìm ra chân lý theo cách
thức mà về sau được gọi là “phương pháp Socratess”. Trở nên thấp kém hơn bản
thân mìnhkhơng phải là cái gì khác hơn ngoài sự ngu dốt, trở nên cao cả hơn bản
thân mình khơng phải cái gì khác ngồi sự thơng thái”.
Phương pháp triết học của ông gồm bốn bước: Một là “mỉa mai”, tức là nêu ra
những câu hỏi mẹo, mang tính châm biếm, mỉa mai nhằm làm cho đối phương sa vào
mâu thuẫn. Hai là “đỡ đẻ tinh thần”, giúp cho đối phương thấy được con đường để tự
mình khám phá ra chân lý. Ba là “qui nạp”, tức là xuất phát từ cái riêng lẻ khái quát
thành những cái phổ biến, từ những hành vi đạo đức riêng lẻ tìm ra cái thiện phổ biến
của mọi hành vi đạo đức. Và phương pháp cuối cùng là “định nghĩa”, là chỉ ra hành vi
thế nào đạo đức, quan hệ thế nào là đúng mực. Phương pháp này đối với ơng chỉ có
những người có tri thức như giai cấp quý tộc và các triết gia mới là những người có
đạo đức. Bốn bước này quan hệ chặt chẽ với nhau trên bước đường tìm kiếm tri thức
chân thật, bản chất giúp con người sống đúng với tư cách và phận sự, của nó trong đời
sống xã hội.
Sự đóng góp của ơng thay đổi từ ngun lý vũ trụ sang nguyên lý nhân minh đã
làm nên một bước chuyển mới trong nền triết học. Cho nên, triết học Hy Lạp mới lấy
ơng làm tiêu chí để phân kỳ, nó là thẩm định những giá trị của tư tưởng Socratess đối
với sự phát triển trong lịch sử.
Ông là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại, ông không để lại cho
đời một tác phẩm nào, vì ơng chỉ thường xun đàm luận mà khơng viết. Ngày nay
chúng ta sở dĩ biết được được về Socratess là do các học trị của ơng và những tư
tưởng khác .
Như vậy, nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đề
cơ bản của triết học mà sau này các học thuyết triết học khác sẽ từng bước giải quyết
theo nội dung của thời đại mình, nó bao chứa mầm mống của tất cả thế giới quan về
sau này. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện
chứng và phép siêu hình được thể hiện rất rõ. Những thành tựu triết học cơ bản của nó
xứng đáng ghi một mốc son trong lịch sử triết học của loài người.
I.1.4.
Nhậ định chung
Triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu vững chắc,
nối những bến bờ triết học sau này. Đến nay những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại
mang đến cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị đó. Triết lý Hy Lạp cổ đại là những
viên gạch đầu tiên xây nên tồn bộ ngơi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Ta có
thể thấy cả bề mặt và bề trái của Châu Âu ngày nay qua nền triết học Hy Lạp cổ đại.
Điều đó làm cho nó sáng rực rỡ trên vũ đài triết học nhân loại và trở nên bất hủ. Marx
nói: “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ đại”. Nền triết học duy vật Hy Lạp
cổ đại đã đạt những thành tựu rực rỡ về mọi mặt và đã có những cống hiến lớn lao vào
kho tàng văn học của loài người. Hơn hai mươi lăm thế kỉ đã qua, thời đại nô lệ Hy
Lạp đã lùi xa trong quá khứ của lịch sử loài người, nhưng cho đến ngày nay, triết học
Hy Lạp cổ đại vẫn không hề mất đi giá trị của nó. Nền văn minh hiện đại Châu Âu bắt
nguồn từ nền văn minh Hy Lạp và chúng ta đã khơng thể hiểu đầy đủ văn hóa Châu
Âu ngày nay nếu khơng đi ngược thời gian để tìm hiểu những thành tựu huy hồng
của văn hóa Hy Lạp cổ đại, Ăngghen viết “Chúng ta luôn luôn phải quay về với
những thành tựu trong triết học cũng như trong mọi lĩnh vực khác của dân tộc nhỏ bé
này, một dân tộc mà tài năng và hoạt động có tính chất tồn diện của nó đã đảm bảo
cho nó có một địa vị mà khơng có một dân tộc nào khác có tham vọng đạt tới trong
lịch sử tiến hóa của nhân loại”.
Ưu điểm:
- Triết học cổ Hy Lạp như hồi chuông tỉnh thức giấc mộng thần thánh muôn đời của
người dân Hy Lạp, tách vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức hệ của con người.
- Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan nhằm đi đến
tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu.
- Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập.
- Là nền tảng cho các trường phái triết học sau này.
- Khoa học Duy nghiệm và Duy lý manh nha hình thành.
- Trả lời phần nào câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới khơng?
Hạn chế
- Triết học duy vật Hy Lạp cổ đại thể hiện tính bao trùm của nó về mọi lĩnh vực trong
thế giới quan của con người. Ra đời trong điều kiện cịn q ít và sơ khai nên trình độ
phát triển tư tưởng văn hóa của nhân loại thời kì này nói chung cịn thấp. Triết học
thời kì này đã đề cập tới những vấn đề thế giới quan cơ bản của con người. Tuy nhiên
do sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay q lớn, nên nhìn chung các
quan niệm triết học cịn mang nặng tính tự biện.
- Triết học cổ Hy Lạp cịn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu.
- Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa.
- Tuy có đặt vai trị của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố thần
linh.
I.2. TRIẾT HỌC TÂY ÂU TRUNG CỔ
I.2.1.
Điều kiện, hoàn cảnh ra đời
Xã hội Tây Âu thời trung cổ là khoảng thời kỳ lịch sử ngàn năm (từ thế kỷ thứ
IV đến thế kỷ XIV). Vào thế kỷ V, những cuộc nổi dậy của nô lệ và những cuộc đấu
tranh giai cấp bên trong cùng với sự tiến công của những man tộc bên ngoài đã đưa
tới sự
sụp đổ của đế quốc La Mã phương Tây. Chính những sự kiện đó đã dẫn đến kết quả
chấm dứt hình thái kinh tế - xã hội nơ lệ cổ đại, và chế độ phong kiến Tây Âu ra đời .
Đây là thời kỳ hình thành và phát triển PTSX phong kiến phương Tây.
Nền kinh tế trong xã hội phong kiến mang tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc bởi
vì sản phẩm làm ra chỉ nhằm giải quyết các nhu cầu của các công xã và thái ấp. Các
thái ấp là một thế giới đóng kín; quyền chiếm hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất cũng
như sản phẩm làm ra khơng hồn tồn thuộc về người lao động (nông dân hay nông
nô) mà thuộc về giai cấp địa chủ phong kiến. Vì vậy, phong trào đấu tranh của nông
dân lao động, thợ thủ công, dân nghèo thành thị chống bọn phong kiến và tầng lớp bóc
lột khác là một nội dung chủ yếu của lịch sử xã hội phong kiến.
Sự hình thành vơ số những điền trang thái ấp phong kiến Tây Âu đã tạo ra một
chế độ phong kiến cát cứ phân quyền. Trong điều kiện đó, tơn giáo nhất thần đã có cơ
hội phát triển với tư cách là công cụ tinh thần thiêng liêng của giai cấp phong kiến
thống trị. Thiên chúa giáo - một dịng tơn giáo giữ truyền thống bảo thủ nhất của Cơ
đốc giáo – đã trở thành một tôn giáo độc tôn của các nước phong kiến Tây Âu. Sự
thống trị của uy quyền phong kiến và thần quyền giáo hội đã cản trở sự phát triển của
khoa học và kỹ thuật. Triết học cũng bị phụ thuộc vào thần học. Bản chất của CNDV
gắn liền với khoa học, thời kì này đã khơng có điều kiện để phát triển. Trong thời đại
phong kiến, tôn giáo và thần học là hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần của
xã hội. Tơn giáo đã bắt những hình thái khác của của ý thức xã hội phải phụ thuộc vào
nó. Ăng-ghen viết: "Nhà thờ với việc chiếm hữu ruộng đất theo lối phong kiến của nó
là mối liên hệ thực tế giữa các nước khác nhau; tổ chức nhà thờ theo lối phong kiến đã
dùng tôn giáo để bảo vệ nhà nước phong kiến quý tộc. Thêm vào đó, giáo sỹ là giai
cấp độc nhất có học thức. Do đó mà tín điều của nhà thờ tất nhiên là yếu tố xuất phát
và là cơ sở của mọi sự suy nghĩ. Pháp luật, khoa học tự nhiên, triết học - tất cả nội
dung của các khoa học đó đều được trình bày sao cho phù hợp với học thuyết của nhà
thờ. Vai trị của tơn giáo biểu hiện đặc biệt ở chỗ nó làm chủ ý thức của quần chúng
nhân dân và dùng sự áp bức về tinh thần của nó để ủng hộ sự bóc lột tàn tệ của bọn
phong kiến. Điều đó giải thích vì sao giai cấp nơng dân hết sức đơng đảo nhưng "tối
tăm về trí tuệ" và bị tước hết mọi quyền hành”...
Như vậy, thời kỳ này khơng chỉ có phong kiến q tộc giữ vai trò thống trị mà
giới tăng lữ, giáo hội và nhà thờ đã thiết định được một sức mạnh chưa từng có của
thần quyền, có khả năng chi phối cả quyền lực chính trị. Bởi vậy trong suốt nhiều thế
kỷ, triết học và khoa học đã trở thành nơ tì của thần học, tồn tại và hiện thân trong vai
người ca tụng, biện minh cho các tín nhiệm của tơn giáo, phản bác, loại bỏ các tư
tưởng dị giáo, đa thần và các quan niệm vơ thàn tiến bộ. Tình hình này đã cắt nghĩa sự
đồng quyền của giáo hội trong văn học và giáo dục. Các tín điều của tơn giáo là những
nguyên lý của giáo dục, là cơ sở của thế giới quan và nhân sinh quan.
Từ thế kỷ X đã diễn ra nhiều cuộc Thập tự chinh với mục đích là xâm chiếm,
cướp đoạt của cải của các nước phong kiến nhỏ ở Phương Đông (vùng vịnh Ả Rập)
nhưng lại núp dưới danh nghĩa bảo vệ tôn giáo, chống bọn tà giáo, giải phóng vùng
đất thánh… Những cuộc chiến tranh tôn giáo này đã đem lại những kết quả ngoài
mong muốn của những người khởi xướng ở chỗ là đã tạo nên sự giao lưu văn hố
Đơng-Tây tác động mạnh mẽ đến sự phát triển tư tưởng, khoa học và kinh tế ở Tây
Âu. Thiên văn học và toán học phát triển khá mạnh vào thế kỷ XIII; cơ học, vật lý
học, hố học hình thành mà tiêu biểu là Lêônarơ Phibômátchi, Anbécphôn Bônstết,
Rôgie Bêcơn.
Sự phát triển kinh tế đã dẫn đến đòi hỏi gia tăng sự hiểu biết. Tình trạng mù
chữ, thất học, sống đơn điệu của các lãnh địa khơng thể tiếp tục duy trì. Vì vậy chỉ
trong vòng hai thế kỷ (XII, XIII) ở Tây Âu hàng loạt các trường đại học đã ra đời.
Tóm lại, từ lập trường DVBC mà xét thì thời kỳ trung cổ khơng phải là q
trình đứt đoạn của lịch sử mà là một thời kỳ “trong nỗi đau đớn đã sinh ra một nền văn
minh mới, tạo cơ sở cho sự ra đời của những bộ tộc hiện đại chuẩn bị cho lịch sử
tương lai ở Châu Âu”.
I.2.2.
Nội dung, đặc điểm chính
Thứ nhất, sự phát triển của những tư tưởng triết học các nước Tây Âu thời
Trung cổ bị chi phối rất mạnh bởi tư tưởng tôn giáo và thần học. Theo Ăngghen, trong
thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu, triết học chỉ là "đầy tớ", "con sen" cho thần học. bởi vì
nhiệm vụ của triết học là giải thích đúng đắn và chứng minh về mặt hình thức cho
những tín điều tơn giáo do nhà thờ Kitơ giáo thống trị, đứng đầu là Giáo hoàng La Mã
đặt ra. Đây là thời kỳ lịch sử mà tiếng nói "trí tuệ và lương tri nhân loại" bị áp đảo bởi
sự tuyên truyền của giáo hội về đức tin nơi Thiên chúa. Đây cũng là thời kỳ các nhà
thần học được phép tuyên bố rằng mọi tri thức của nhân loại đều có thể rút ra từ Kinh
thánh (Cựu ước và Tân ước); rằng tất cả những gì trái với kinh thánh đều đáng nguyền
rủa và xử tội.
Thứ hai, sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của tư tưởng triết học kinh viện (chủ
nghĩa kinh viện) cũng là một nét nổi bật của thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu. Triết học thời
kì này giải quyết các vấn đề xa rời thực tế cuộc sống. Vấn đề trung tâm mà các nhà
kinh viện chú ý nghiên cứu là vấn đề mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin (tôn giáo).
Những căn cứ để triết học kinh viện "luận chứng" chính là những tín điều trong các
cuốn kinh thánh, chứ không phải là những kiến thức khoa học, khơng phải là thực tiễn
quan sát và thí nghiệm của khoa học như giai đoạn sau này, cũng không phải là thực
tiễn kinh tế xã hội hiện thực. Bởi vậy, những luận chứng của nó mang tính "sáo rỗng"
hình thức mà thiếu đi nội dung hiện thực của cuộc sống sinh động. Triết học kinh viện
là triết học chính thức của giai cấp phong kiến, đã kìm hãm sự phát triển của khoa học
và triết học duy vật.
Thứ ba, cuộc đấu tranh giữa hai phái Duy thực và Duy danh cũng là đặc trưng
của tư tưởng triết học Trung cổ Tây Âu. Cuộc đấu tranh giữa hai phái trên chứa đựng
khả năng phát triển tiếp tục hai khuynh hướng cơ bản trong triết học- chủ nghĩa duy
tâm và chủ nghĩa duy vật.
Phái Duy thực luận chứng về mặt triết học sự tồn tại có thật, duy nhất của cái chung;
cịn phái Duy danh thì ngược lại, chứng minh cho sự tồn tại duy nhất, có thật của cái
riêng. Phái Duy danh có khuynh hướng duy vật, phái Duy thực lại có xu hướng duy
tâm về triết học.
Thứ tư, con người – sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp, thụ động, trĩu nặng trong tội
tổ tông, ăn năn sám hối trong kiếp làm người”
I.2.3.
I.2.3.a.
Các triết gia tiêu biểu
Ôguýtxtanh (354-430)
Ông sinh ở Taghết (Bắc Phi), nay thuộc Angiêri; là giáo chủ, nhà văn, nhà triết
học. Ông viết một loạt tác phẩm: "Sự thú tội", "Về thành đô của Thượng đế", "Về
những tà đạo", "Về sự bất tử của linh hồn", "Chống các nhà hàn lâm viện "v.v.
Tư tưởng cơ bản trong học thuyết triết học của ơng là: Tồn bộ thế giới là do
Thượng đế sáng tạo ra và được nhận thức bởi thượng đế. Thượng đế có sức mạnh vạn
năng, có quyền lực tuyệt đối; thượng đế là "Bác sĩ của trái tim mình", ý chí của con
người là tự do, song nằm trong giới hạn tiền định của Thượng đế; quá trình nhận thức
của con người là quá trình nhận thức của Thượng đế. Thượng đế là chân lý tối cao.
Theo Ơgtxtanh, chỉ có ơn huệ tối cao của "Thượng đế, mà đại biểu trên trái
đất là giáo hội mới cứu vớt được đời sống tương lai. Bởi vì, tồn bộ lịch sử là cuộc
đấu tranh giữa những người theo thần linh để củng cố "Thành phố thần thánh" và
những người theo quỷ dữ để tổ chức ra "thành phố trần gian". Vì vậy phải có uy thế
của quyền lực tinh thần đối với quyền lực thế tục, cần có uy quyền thế giới của giáo
hội. Tuy nhiên, trong quan điểm triết học của Ôguýtxtanh cũng bộc lộ những mâu
thuẫn không thể giải quyết được. Một mặt, ông thừa nhận Thượng đế sáng tạo ra tất
cả; nhưng mặt khác ông lại cho rằng "khơng có Thượng đế trong các sự vật cảm biết".
Thí dụ, khi quan sát giới tự nhiên thấy vẻ đẹp của thân thể, sự rực rỡ của ánh sáng, sự
dịu dàng của âm điệu, mùi thơm của hoa lá v.v. ơng cho rằng nó khơng được đánh giá
bởi Thượng đế.
Tóm lại, Ơgtxtanh là nhà triết học ra sức bảo vệ tôn giáo, chống khoa học và
triết học duy vật.
I.2.3.b. Giăngxicốt Ơrigiennơ (810 - 877)
Là người Ai Len, là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời Trung cổ, là
người theo chủ nghĩa duy thực triệt để. Ông viết một loạt tác phẩm nổi tiếng như: "Về
sự tiền định của Thượng đế", "Về sự phân chia giới tự nhiên" v.v.
- Trong triết học của Ơrigiennơ nổi lên một số vấn đề sau:
+ Triết học của ông là một hệ thống duy tâm tìm cách kết hợp chủ nghĩa
Platonvới Thiên chúa giáo. Ơng nói; "Triết học chân chính và tơn giáo chân chính là
một".
+Trung tâm trong học thuyết của ông là chứng minh cho sự tồn tại và vai trò tối
cao của Thượng đế đối với đời sống con người và giới tự nhiên.Theo ơng, bản thân
q trình thế giới là sự giáng thế liên tục của Thượng đế. Như vậy đó đã bao hàm
những nhân tố phiếm thần luận. Trong tác phẩm "Về sự phân chia giới tự nhiên", ông
đã chia sự phát triển của giới tự nhiên qua 4 giai đoạn: Giai đoạn một, giới tự nhiên
biểu hiện như là vật vừa được sáng tạo- đó là Thượng đế được xem như cơ sở đầu tiên
của quá trình thế giới. Giai đoạn hai, giới tự nhiên biểu hiện như là vật vừa sáng tạo,
vừa được sáng tạo - đó là "con" của Thượng đế - là kẻ trung gian giữa Thượng đế và
thế giới. Giai đoạn ba, giới tự nhiên biểu hiện như là vật được sáng tạo - đó là thế giới
các sự vật cụ thể, thế giới mn lồi trong đó có con người. Giai đoạn bốn, giới tự
nhiên biểu hiện là vật không phải sáng tạo, cũng khơng được sáng tạo - đó là Thượng
đế, nhưng ở đây Thượng đế được xem như mục đích của quá trình thế giới.
+ Triết học của G. Ơrigiennơ đã trình bày mối quan hệ giữa lịng tin và lý trí một vấn đề trung tâm của triết học Trung cổ. Theo ơng, giữa lịng tin và lý trí là hồn
tồn có thể dung hợp được; nếu phủ nhận lý trí đề cao tơn giáo hoặc đề cao lý trí phủ
nhận tôn giáo đều là nguy hiểm cho nhà thờ.
+ Về nhận thức luận, ơng cho rằng cái chung có trước cái riêng và cơ sở của cái
riêng; cái chung là cái bản chất của sự vật; bởi vì các sự vật đều bắt nguồn từ cái
chung và cái chung chứa đựng các sự vật bên trong. Ở đây bộc lộ rõ tính chất duy
tâm trong nhận thức luận ở Ơrigiennơ.
Như vậy, toàn bộ học thuyết của G. Ơrigiennơ là sự tiếp tục của quan điểm
Platon dưới hình thức mới. Tuy nhiên, tất cả những điều đó đã làm cho phái tơn giáo
chính thống nghi ngờ những tác phẩm của ơng và cuối cùng những tác phẩm của ơng
bị chính thức kết án là "những tà thuyết nguy hiểm" cổ vũ "Phái dị giáo" nên đã bị
đốt.
I.2.3.c.
Pie Abơla (1079 -1142)
Là người Pháp, giảng viên nổi tiếng ở các trường đại học Pa-ri. Ông là người
theo chủ nghĩa duy danh.
Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lịng tin và lý trí, ơng đề cao vai trị của
lý trí: Lịng tin phải lấy lý trí làm cơ sở. Bởi vì, theo ơng, nguyên lý xuất phát là "hiểu
để mà tin", và lý trí cho ta những phương tiện chính xác để vạch ra tồn bộ nội dung
của chân lý tơn giáo và câu trả lời đúng đắn về một tín điều tơn giáo nào đó là xác
đáng hay khơng xác đáng. Nhiệm vụ của sự tìm kiếm triết học là vạch ra và lập luận
chân lý, bởi lẽ "sự linh cảm" không thể là tiêu chuẩn cho tính chân lý của các thành
quả của lý trí, trái lại lý trí mới bảo đảm cho những điều linh cảm.
Pie Abơla cho rằng: Khái niệm chung khơng tồn tại bên ngồi sự vật cụ thể,
khơng có đời sống độc lập, nhưng nó khơng tồn tại trong bản thân các sự vật; khái
niệm chung cũng không nằm trong bản thân từ ngữ, mà nằm trong ý nghĩa của từ ngữ.
Như vậy, triết học của Pie Abơla ở mức độ nhất định đã báo hiệu sự xuất hiện
một khoa học thực nghiệm của giai đoạn mới, phần nào xa lìa tín điều chính thống của
nhà thờ. Nhà thờ gọi ông là kẻ "chống chúa trời", là kẻ tà đạo.
I.2.3.d. Rôgiê Bêcơn (khoảng 1214 - 1294)
Là người Anh, một tu sĩ đã phải sống 14 năm trong các nhà giam của Giáo hội.
Ơng đóng một vai trò là người đi tiên phong trong khoa học thực nghiệm của thời đại
mới. Triết học của Rôgiê Bêcơn cũng đóng một vai trị quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống triết học kinh viện; chống giáo hội, lên án bọn giáo sỹ và sự áp bức của
giai cấp phong kiến, bênh vực quyền lợi của nhân dân; song không chống tơn giáo nói
chung.
Rơgiê Bêcơn đã đưa ra quan niệm mới về đối tượng của triết học. Theo ông,
triết học là khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ giữa các khoa học bộ phận
và đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản; cịn bản thân triết học được
xây dựng trên thành quả của các khoa học đó.
Sức mạnh và bản chất của học thuyết R. Bêcơn chủ yếu là sự phê phán phương
pháp kinh viện chủ nghĩa. Ông cho rằng: phải dựa vào kinh nghiệm để "đạt tới chỗ
nhận thức nguyên nhân của hiện tượng" để thay thế cho cái lõi rỗng tuếch, hình thức
chủ nghĩa của phương pháp kinh viện.
Theo R.Bêcơn con đường nhận thức chân lý gặp bốn trở ngại do triết học kinh
viện gây ra: một là, sự sùng bái trước cái uy tín khơng có cơ sở; hai là, thói quen thừa
nhận những quan niệm được coi là rõ ràng; ba là, tính vơ căn cứ của những đánh giá
thuộc về số đông và bốn là, sự thông thái giả tạo của các học giả.
Theo R.Bêcơn, nguồn gốc của nhận thức là uy tín, lý trí và kinh nghiệm, nhưng
uy tín phải được chứng minh bằng kinh nghiệm và thực nghiệm, nếu khơng chỉ là lý
trí ngụy biện, giáo điều, vơ ích. Ơng coi kinh nghiệm là tiêu chuẩn của chân lý, thước
đo của lý luận: đồng thời ông rất coi trọng tri thức khoa học bởi lẽ "không có sự nguy
hiểm nào lớn hơn sự ngu dốt". Việc coi kinh nghiệm là thước đo chân lý là bước ngoặt
quan trọng trong lý luận về nhận thức. Tư tưởng của R.Bêcơn là tiếng chuông báo
hiệu sự kết thúc của chủ nghĩa kinh viện và mở đầu cho thời kỳ khoa học thực
nghiệm. Chính đây là sự tiến bộ của thời ơng và có tác dụng chống chủ nghĩa kinh
viện.
Khác với chủ nghĩa kinh viện chính thống chuyên nghiên cứu thần học,
R.Bêcơn chủ yếu hướng sự nghiên cứu của mình vào khoa học tự nhiên. Do đó ơng
coi khoa học thực nghiệm là chúa tể của khoa học và ông đã có nhiều đóng góp cho
các ngành khoa học này.
Triết học của R. Bêcơn bộc lộ những xu hướng duy vật, ông nắm bắt được
những biến đổi xã hội chỉ vừa mới bắt đầu xảy ra và đi trước thời đại ông trong những
ước mơ và ý tưởng về sự tiến bộ của khoa học. Vì vậy, ơng ln bị nhà nước phong
kiến và giáo hội truy nã, cầm tù.
Triết học R. Bêcơn có nhiều tư tưởng tiến bộ, nhưng khơng thốt ra khỏi hạn
chế của thời đại mình - thời đại thống trị của tôn giáo và nhà thờ; ông đã tuyên bố sự
phụ thuộc của triết học vào lịng tin; ơng nghiên cứu về "tính chất rõ ràng của tư
tưởng" xuất phát từ mẫu mực đầu tiên của Thượng đế, và về "lý trí hoạt động tiên
nghiệm".
Ơng là một triết gia, một nhà khoa học người Anh, tiến sĩ thần học đại học tổng
hợp Paris. Tác phẩm chính là:
- Về sư kéo dài sự sống của con người
- Chỉ dẫn để nghiên cứu thần học
- Chỉ dẫn để nghiên cứu triết học
- Tiểu phẩm ca ngợi toán học
- Về cầu vồng
- Triển vọng
- Về sai lầm của các bác sĩ…
I.2.3.e.
Tô mát đa canh (1225-1274)
Sinh ở Italia, là nhà thần học, nhà triết học kinh viện nổi tiếng; Ngồi ra ơng
cịn nghiên cứu những vấn đề pháp quyền đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Triết
học của ông được đạo Thiên chúa coi là triết học duy nhất đúng đắn và lấy làm hệ tư
tưởng của mình.
Tơmát Đacanh nghiên cứu nhiều lĩnh vực: thần học, triết học, pháp quyền, đạo
đức, chế độ nhà nước, kinh tế. Với 18 cuốn sách, trong tuyển tập của ông hợp thành
bộ bách khoa toàn thư về hệ thống tư tưởng thống trị thời trung cổ hưng thịnh.
Là đại biểu của phái duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của phái duy thực
trong giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừa
nhận là triết học chính thức duy nhất của Giáo hội Thiên chúa.
Tơmát Đacanh coi đối tượng của triết học là nghiên cứu “chân lý của lý trí”,
cịn đối tượng của thần học là nghiên cứu “chân lý của lịng tin tơn giáo”. Thượng đế
là khách thể cuối cùng của triết học và thần học, cho nên khơng có mâu thuẫn giữa
thần học và triết học. Nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí của người
thấp hơn “lý trí của thần”. CNDT của Tơmát Đacanh thể hiện một cách công khai với
quan điểm cho rằng, giới tự nhiên do Trời sáng tạo ra từ hư vô. Sự phong phú, hoàn
thiện và trật tự của giới tự nhiên được quyết định bởi sự thơng minh của Trời. Trật tự
đó được Trời quy định theo thứ bậc như sau: bắt đầu từ các sự vật khơng có linh hồn,
tiến qua con người, tới các thần thánh và cuối cùng là bản thân Chúa Trời. Mỗi bậc
dưới đều cố gắng đạt tới bậc trên, toàn bộ hệ thống mong tiến tới Chúa Trời. Con
người do Chúa Trời tạo ra theo “hình dáng của mình” và sắp xếp theo những đẳng cấp
khác nhau. Nếu người nào vượt ra khỏi đẳng cấp của mình là có tội với Chúa Trời.
Chính quyền nhà vua là thừa lệnh “ý của Trời”. Quyền lực tối cao bao trùm hết thảy
thuộc về giáo hội.
Đứng trên lập trường duy thực ơn hồ, Tơmát Đacanh giải quyết vấn đề bản
chất của cái chung. Ông cho rằng cái chung tồn tại trên ba phương diện:
Thứ nhất, cái chung tồn tại trước sự vật trong trí tuệ của Chúa Trời như là hình
mẫu của sự vật riêng lẻ.
Thứ hai, cái chung tồn tại trong các sự vật riêng lẻ.
Thứ ba, cái chung được tạo ra bằng con đường trừu tượng hoá của trí tuệ con
người từ các sự vật riêng lẻ.
Về lý luận nhận thức, Tômát Đacanh cho rằng nhận thức diễn ra trong chủ thể
nhờ tiếp thu ở khách thể những gì giống với chủ thể, chứ khơng phải mọi tồn tại của
khách thể đều được tiếp thu; đó là hình ảnh của sự vật, chứ khơng phải bản thân sự
vật. Ơng đã chia "hình dạng" thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính, trong đó
hình dạng lý tính cao hơn hình dạng cảm tính. Bởi vì, nhờ nó ta mới biết được cái
chung chứa đựng nhiều thực thể riêng biệt, cịn hình dạng cảm tính cũng có vai trị
quan trọng, bởi vì
nhờ
nó
cảm
giác
trở
nên
cảm
thụ
tích
cực.
Như vậy, lý luận nhận thức của Tơmát Đacanh áp dụng học thuyết về "hình dạng" của
Arixtốt, nhưng loại bỏ cái sinh khí, cái sống động, sự tìm tịi chân lý trong học thuyết
của Arixtot; là một bước tiến trong triết học kinh viện Trung cổ.
Là đại biểu của phái duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của phái duy thực
trong giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừa
nhận là triết học chính thức duy nhất của Giáo hội Thiên chúa.
I.2.3.f.
Đơn Xcốt (1265 – 1308)
Ông là một trong những nhà kinh viện, nhà duy danh luận lớn nhất thế kỉ
XIII. Ông sinh trưởng ở Anh, tốt nghiệp và là giáo sư của trường đại học Ôcxpho.
Về mặt triết học, cũng như các nhà tư tưởng khác thời trung cổ, Đơn Xcốt coi
vấn đề mối quan hệ giữa triết học và thần học là vấn đề chủ yếu. Theo ông, đối tượng
của thần học là nghiên cứu Thượng đế, còn đối tượng của triết học (siêu hình học) là
tồn tại (hiện thực khách quan- vật chất, giới tự nhiên). Về quan hệ giữa lý trí và lịng
tin tơn giáo thì ơng đề cao vai trị của lịng tin hơn lý trí.
Về vấn đề tồn tại của Thượng đế, Đơn Xcốt đã giải quyết từ lập trường thần
học. Theo ơng, vì thượng đế là một tồn tại bất tận, cho nên chứng minh về sự tồn tại
của thượng đế có nghĩa là chứng minh rằng “cái tồn tại bất tận” đó là có.
Trong học thuyết triết học của mình, ơng cho rằng ngồi Thượng đế là hình
thức thuần túy phi vật chất ra thì mọi thực thể còn lại (kể cả tinh thần và thiên thần)
đều là vật chất hoặc bao gồm cả hình thức và vật chất. Song về căn bản, triết học của
ông vẫn là duy tâm, chưa phải duy vật. Là một nhà duy danh luận, trong học thuyết
của mình, Đơn Xcốt cũng nghiên cứu vấn đề cái chung. Ông cho rằng cái chung
khơng chỉ là sản phẩm của lý trí, nó là cơ sở trong bản thân các sự vật. Trong lĩnh vực
nhận thức luận, ông đã đề cập vấn đề vai trị của yếu tố tinh thần, của lý trí và ý chí.
Về vai trị của lý trí và ý chí, ông đã chó rằng thống trị mọi dạng hoạt động của con
người khơng phải là lý trí mà là ý chí. Ý chí cao hơn lý trí, và hơn nữa ở Thượng đế
thì ý chí trở thành tự do.
Về vấn đề quan hệ giữa lý trí và lịng tin ơng cho rằng lý trí và lịng tin, tri thức
và thần học là khơng thể và khơng nên dung hịa, vị trí hàng đầu phải thuộc về lịng tin
cịn lý trí đóng vai trị phụ thuộc.
I.2.3.g.
Gum Ốccam (1300 – 1350)
Là nhà văn, nhà chính tri nổi tiếng thời đại mình, nhà thần học và triết học kinh
viện Anh, nhà tư tưởng của giai cấp phong kiến thế tục trong cuộc đấu tranh chống
Giáo hồng.
Gắn với các hoạt động có tính chất chính trị chống Gíao hồng, bảo vệ nhà
nước phong kiến thế tục là hoạt động triết học của Ôccam. Triết học của ông đã chống
đối kịch liệt hệ tư tưởng chính thống (hệ tư tưởng Đạo Thiên Chúa ). Trong vấn đề
trung tâm của triết học trung cổ - vấn đề mối quan hệ giữa lịng tin và lý trí, giữa linh
cảm và tri thức, Ốccam đã làm sâu sắc thêm những quan điểm của Đơn Xcốt.
Tuy là người bảo vệ nhiệt tâm lịng tin tơn giáo như mọi nhà triết học khác ở
thời đại phong kiến, nhưng ở Ốccam chúng ta cũng thấy rõ sự tan vỡ của chính cơ sở
triết học kinh viện và sự mất tác dụng của nó. Bởi vì, cái trục của triết học Ốccam là
chủ nghĩa duy danh có khuynh hướng duy vật.
Là một nhà duy danh luận, Ốccam cho rằng chỉ có những sự vật riêng lẻ, đơn
nhất là tốn tại thực. Khái niêm, danh từ theo Ốccam chỉ là những kí hiệu của sự vật.
Trong lý luận nhận thức của mình, Ốccam cũng chia nhận thức làm 2 loại:
nhận thức trực giác (ông hiểu là nhận thức kinh nghiệm) và nhận thức trừu tượng.
Nhận thức trực giác được ông đặt cao hơn nhận thức trừu tượng, nó bao gồm cảm tính
và sự tự quan sát.
Trong lý thuyết đạo đức Ốccam cũng phát triển quan điểm của Đơn Xcốt. Ông
phủ nhận sự khác nhau tuyệt đối giữa điều thiện và điều ác. Vì theo ơng ý chí của
Thượng đế có thể biến hành vi tội lỗi của con người thành hành vi tốt.
I.2.4.
Nhận định chung
Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lịng tin và lý trí, có nhà triết học đề cao
vai trị của lý trí: Lịng tin phải lấy lý trí làm cơ sở. Bởi vì, ngun lý xuất phát là
"hiểu để mà tin", và lý trí cho ta những phương tiện chính xác để vạch ra tồn bộ nội
dung của chân lý tơn giáo và câu trả lời đúng đắn về một tín điều tơn giáo nào đó là
xác đáng hay khơng xác đáng. Nhiệm vụ của sự tìm kiếm triết học là vạch ra và lập
luận chân lý, bởi lẽ "sự linh cảm" không thể là tiêu chuẩn cho tính chân lý của các
thành quả của lý trí, trái lại lý trí mới bảo đảm cho những điều linh cảm. Như vậy, triết
học thời kì này ở mức độ nhất định đã báo hiệu sự xuất hiện một khoa học thực
nghiệm của giai đoạn mới, phần nào xa lìa tín điều chính thống của nhà thờ.
Nhìn chung, chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thống của xã hội phong kiến
Tây Âu thời Trung cổ. Đặc điểm chủ yếu nhất của khuynh hướng này là: phục tùng
thần học, theo chủ nghĩa duy tâm, phương pháp suy luận hình thức chết cứng, chủ
nghĩa tín ngưỡng đối lập với tư tưởng khoa học... Mục đích cao nhất của chủ nghĩa
kinh viện là phục vụ tôn giáo và nhà thờ, do đó đã xuyên tạc học thuyết của các nhà
triết học tiến bộ thời cổ đại, đặc biệt là triết học của Arixtốt.
Trong sự thống trị khắc nghiệt của tôn giáo và thần học, thời kỳ này cũng xuất
hiện cuộc đấu tranh của các xu hướng duy vật trong triết học và trong các phong trào
"tà giáo" chống chủ nghĩa ngu dân của nhà thờ. Các trào lưu tự nhiên bằng thực
nghiệm xuất hiện, sự giải phóng khoa học tự nhiên thoát khỏi ách thống trị của thần
học bắt đầu. Tất cả những cái đó đã chuẩn bị cho sự sụp đổ của chủ nghĩa kinh viện và
và triết học trong thời đại Phục hưng.
I.3. TRIẾT HỌC TÂY ÂU PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI
I.3.1
Đặc điểm kinh tế - xã hội, khoa học và văn hố
Khi bóng đêm của đêm trường Trung cổ bị những ánh sáng bình minh của nền
văn minh cơng nghiệp chiếu rọi thì Tây Âu đã có những bước chuyển dữ dội, chuyển
sang thời kỳ phục hưng, thời đại phục sinh những giá trị của nền văn hoá cổ đại Hy La
đã bị lãng quên trong nền chuyên chế phong kiến kéo dài hàng nghìn năm ở Châu Âu.
Xét về bản chất kinh tế, thời kỳ phục hưng là giai đoạn quá độ của PTSX
TBCN. Đây là thời kỳ tích luỹ tư bản đầu tiên được mở rộng. Người nông dân bị đuổi
ra khỏi ruộng đất của họ, bạo lực của kẻ cường quyền đã tách người lao động ra khỏi
tư liệu sản xuất. Các công trường thủ công dần dần át cách làm ăn kiểu phường hội
phong kiến. Các chủ thủ cơng nghiệp ngày càng có vị trí và vai trị quan trọng trong
nền kinh tế, họ trở thành giai tầng mới nắm giữ sức mạnh kinh tế - giai cấp tư sản;
trong khi người nông dân do khơng cịn ruộng đất phải ra thành phố kiếm kế sinh nhai
bằng cách làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ là tiền thân của giai cấp vô
sản sau này.
Chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc của nó đã
bước vào giai đoạn lụi tàn. Phong trào chống phong kiến của nông dân, thợ thủ công
trào dâng khắp Châu Âu. Giai cấp tư sản trở thành kẻ đồng minh. Người ta khơng chỉ
địi xố bỏ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chướng ngại trên con
đường phát triển theo xu hướng TBCN mà còn chĩa mũi nhọn vào giáo hội La Mã,
thành luỹ tinh thần của chế độ phong kiến. Đặc điểm của phong trào đã ảnh hưởng
đến toàn bộ cuộc đấu tranh tư tưởng lúc bấy giờ, bao gồm cả sự phát triển của triết
học. Thế giới quan của giai cấp tư sản thể hiện dưới hình thức duy vật và vơ thần này
càng rõ nét.
Do địi hỏi của thực tiễn sản xuất vật chất, các ngành khoa học tự nhiên bắt đầu
phát triển và đây cũng là thời kỳ gặt hái bội thu về các thành tựu khoa học kỹ thuật
như sử dụng năng lượng nước, dệt, khai mỏ, luyện kim, chế tạo vũ khí, in ấn, hàng
hải… Chẳng hạn với việc sử dụng năng lượng nước đã cho phép thay thế dần sức
người và sức súc vật trong sản xuất.
Chính sự phát triển của khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã trở thành chỗ dựa
vững chắc cho giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống thần học và chủ nghĩa duy
tâm.
Về mặt văn hoá, những tư tưởng triết học, những phát kiến khoa học của thời
cổ đại được khôi phục và phát triển. Các nhà tư tưởng tiên tiến của thời đại phục hưng
đặc biệt dương cao ngọn cờ nhân văn. Họ xem con người là đối tượng nghiên cứu của
triết học, những tư tưởng tốt đẹp về con người của Protagore, Socrates…trở thành tiền
đề lý luận cho ước mơ giải phóng con người. Các giá trị tốn học của Talet, hình học
của Euclide, những yếu tố duy vật trong triết học của Epicure,..cũng dược xem xét và
ghi nhận thoả đáng.
Khác với thời phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước Tây
Âu là thời kỳ giai cấp tư sản đã dành được chính quyền, PTSX TBCN được xác lập và
trở thành PTSX thống trị, nó đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát
triển mà trước hết là khoa hoc tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt được trình độ là cơ sở
cổ điển. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc trưng là khoa học tự nhiên - thực
nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn tới “thói quen” nhìn nhận đối tượng nhận thức trong
sự trừu tượng, tách rời, không vận động, không phát triển, nếu có đề cập đến vận động
thì là sự vận động máy móc khơng phát triển.
I.3.2
Những đặc điểm, nội dung chính:
Triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng
- Triết học thời kỳ này là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống
phong kiến và giáo hội.
- Tư tưởng của các nhà triết học phục hưng có tính hai mặt: vừa có những tiến bộ
nhưng còn chứa nhiều yếu tố duy tâm, luẩn quẩn với hình thức “phiếm thần luận” hay
“tự nhiên thần luận”.
- Triết học thời kỳ này gắn liền với vấn đề nâng cao giá trị khát vọng giải phóng con
người.
- Triết học thời kỳ này là những tư tưởng xã hội học thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn.
Triết học Tây Âu thời kỳ cận đại
- Đây là thời kỳ thắng lợi của CNDV đối với CNDT, của những tư tưởng vô
thần đối với hữu thần.
- CNDV thời kỳ này mang hình thức của CNDV siêu hình, máy móc. Phương pháp siêu
hình thống trị, phổ biến trong lĩnh vực tư duy triết học và khoa học.
- Đây là thời kỳ xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh vực xã hội, nhưng
nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích xã hội và lịch
sử.
I.3.3
Các triết gia tiêu biểu
I.3.3. a.
Francis Bacon (1561-1626)
Là nhà triết học duy vật kiệt xuất của nước Anh. Mác đánh giá Bacơn là “ông
tổ thực sự của chủ nghĩa duy vật Anh và của khoa học thực nghiệm hiện đại”.
Các tác phẩm chính:
- Khái lược về đạo đức và chính trị
- Đại phục hồi các khoa học
- Công cụ mới
- Lịch sử sự sống và cái chết
Bacơn thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất. Khoa học không
biết một cái gì khác ngồi thế giới vật chất, ngồi giới tự nhiên. Ông cho rằng con
người cần phải thống trị, phải làm chủ giới tự nhiên. Điều đó có thực hiện được khơng
hồn tồn phụ thuộc vào sự hiểu biết của con người. Bacơn cho rằng tri thức là sức
mạnh, sức mạnh là tri thức. Do đó cần có một khoa học mới lấy giới tự nhiên làm đối
tượng nghiên cứu nhằm biến tự nhiên thành “giang sơn” của con người.
Bacơn phê phán gay gắt chủ nghĩa kinh viện vì nó xa rời cuộc sống, chỉ dựa
vào những lập luận tuỳ tiện khơng có nội dung và chẳng đem lại lợi ích gì cho con
người. Theo Bacơn, triết học phải giúp con người trở nên mạnh hơn. Nhiệm vụ của
triết học là nhận thức giới tự nhiên và các mối liên hệ phức tạp của nó.
Về nhận thức luận và phương pháp luận.
Một trong những vấn đề được quan tâm đặc biệt ở thời cận đại đó là vấn đề
nhận thức luận và phương pháp luận. Bacơn đã dành một vị trí thích đáng để bàn về
những nội dung này.
Trước hết để nhận thức đúng bản chất của sự vật thì phải chỉ ra khả năng và
giới hạn nhạn thức của con người. Một trong những ảnh hưởng đến quá trình nhận
thức chân lý, theo Bacơn đó là những sai lầm vốn có trong tư duy, do sai lầm trong lý
tính mang lại.
Những sai lầm do lý tính tạo ra, Bacơn gọi là những IDOLA (ảo tưởng, ảo ảnh
- theo tiếng Hy Lạp cổ Idola là những hình ảnh bị phản ánh một cách lệch lạc). Ý
nghĩa tích cực của những ảo ảnh là ở chỗ không chỉ chống lại các suy luận vô căn cứ
của thần học, kinh viện mà cịn đặt cơ sở xã hội cho q trình nhận thức. Đó là tơn
trọng khách quan, phê phán và khơng giáo điều. Một ý nghĩa không chỉ thuộc về thời
Cận đại mà cho tất cả các thời đại. Ý nghĩa đã trở thành nguyên tắc của nhận thức.
Về phương pháp luận, theo Bacơn cần phải rà soát những phương pháp trước
đây để từ đó kế thừa và triển khai phương pháp mới.
Ông cho rằng từ trước đến nay con người chủ yếu sử dụng hai phương pháp là
phương pháp con nhện và phương pháp con kiến. Cả hai phương pháp này đều bộc lộ
hạn chế, vì vậy ơng đề xuất phương pháp con ong. “Con ong chọn phương thức hành
động trung gian, nó khai thác vật liệu từ hoa ngồi vườn và ruộng đồng nhưng sử
dụng và biến đổi nó phù hợp với khả năng và chỉ định của mình. Cơng việc đích thực
của triết học cũng khơng khác gì cơng việc đó”.
Về vai trị của phương pháp, Bacơn cho rằng “người què chạy đúng hướng sẽ
nhanh hơn kẻ lành chạy sai đường” hoặc “phương pháp giống như ngọn đèn soi
đường cho lữ khách trong đêm đơng”.
Ơng đề xuất phương pháp quy nạp. Theo ơng đó là phương pháp tối ưu để nhận
thức, khám phá những bí mật của đối tượng nhận thức. Bản chất của phương pháp này
là xuất phát từ những sự kiện riêng biệt sau đó tiến dần lên những nguyên lý phổ biến,
khẳng định bản chất của sự vật.
Triết học Bacơn là triết học duy vật không triệt để khi ông không dám công
khai xung đột với tơn giáo. Điều này thể hiện tính thoả hiệp trong triết học của ông.
Mặc dù vậy, triết học duy vật của Bacơn đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển
của khoa học, nó giáng một địn rất mạnh vào uy tín của nhà thờ và giáo hội.
I.3.3. b.
Renne Descartes (1596-1650)
Cũng như Bacơn, Đêcáctơ đã chú ý đến nghiên cứu phương pháp nhận thức
khoa học để tạo nên khả năng đi sâu vào nghiên cứu những bí mật của giới tự nhiên.
Ông tin tưởng rằng, với phương pháp mới có thể đạt đươc những tri thức có ích cho
cuộc sống. Triết học của ơng có tính chất nhị nguyên. Ông cho rằng, hai thực thể tinh
thần và vật chất tồn tại độc lập với nhau, nhưng cả hai thực thể này đều phục tùng
nguyên thể thứ ba – nguyên thể tối cao là thần linh. Nhị nguyên luận của Đêcáctơ biểu
hiện tính chất thoả hiệp của hệ tư tưởng tư sản.
Gạt bỏ những đạo lý kinh viện của tơn giáo, Đêcáctơ đưa lý trí lên vị trí hàng
đầu trong lý luận về nhận thức. Gống như Bacơn, ơng cho rằng nhiệm vụ của thí
nghiệm khơng phải là phát minh ra các quy luật của tự nhiên mà là khẳng định những
tri thức, những quy luật mà lý trí phát hiện ra. Nếu Bacơn cho rằng điều kiện cần thiết
đầu tiên để xây dựng một khoa học chân chính về khoa học tự nhiên là tẩy rửa được
mọi ảo tưởng, thì Đêcáctơ thừa nhận rằng sự nghi ngờ là điểm xuất phát của phương
pháp khoa học. Ông nhấn mạnh rằng, dù anh nghi ngờ mọi cái nhưng khơng thể nghi
ngờ rằng anh nghi ngờ. Đêcáctơ nói: Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại, và ông cho đó là
nguyên lý cơ bản bất di bất dịch. Ý nghĩa tiến bộ của nguyên lý trên là ở chỗ nó đề
cao vai trị của lý trí, phủ nhận một cách tuyệt đối những gì mà người ta mê tín.
Nhưng nguyên lý ấy lại thể hiện tính chất duy tâm, vì Đecáctơ đã khơng nhìn thấy
rằng khơng thể đi tìm tiền đề xuất phát của nhận thức ở ngay trong nhận thức mà phải
tìm từ bản thân đời sống thực tiễn xã hội.
Đêcáctơ là người sáng lập ra chủ nghĩa duy lý. Chủ nghĩa duy lý của Đêcáctơ ở
một mức độ khá lớn có liên hệ với chủ nghĩa duy tâm, vì ơng cho rằng trong lý trí của
c người có “những tư tưởng bẩm sinh”, độc lâp với kinh nghiệm. Ông đã thừa nhận
một cách sai lầm rằng, những nguyên tắc cơ bản của logic học và toán học là những
cái “bẩm sinh”, không phụ thuộc vào kinh nghiệm.
Trong học thuyết về tự nhiên, Đêcáctơ là một nhà duy vật, ông coi vật chất là
một thực thể duy nhất, là cơ sở duy nhất của tồn tại và nhận thức. Quảng tính là thuộc
tính cơ bản của vật chất, nhưng ông lại đi đến đồng nhát vật chất với quảng tính, và
ngược lại, ở đâu khơng có quảng tính thì khơng có vật chất. Vật chất chốn đầy vũ trụ,
khơng có khơng gian trống rỗng. Đêcátơ thừa nhận tính vĩnh cửu của vật chất. Vạn
động cơ học được ông xem như là một biểu hiện sức sống của vật chất. Vận động
được chuyển từ vật này đến vật khác và không bao giờ bị tiêu diệt. Luận điểm của
Đêcáctơ về tính khơng bị tiêu diẹt của vận động được Ph.Ăngnhen đánh giá như một
thành tựu khoa học vĩ đại.
Đêcáctơ thừa nhận sự xuất hiện của thế giới thực vật và động vật trong q
trình vận động. Nhưng ơng chưa thấy sự khác nhau vè chất giữa thế giới sinh vật, coi
cơ thể sống là một cỗ máy phức tạp.
I.4. TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
I.4.1.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Khái niệm “triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ triết học của nước Đức ở nửa
cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống triết học của
I.Cantơ, trải qua Phíchtơ, Senlinh đến triết học duy tâm khách quan của Hêghen và
triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc.
Chỉ trong một thời kỳ lịch sử khoảng một thế kỷ, triết học cỏ điển Đức đã tạo
những tiền đề lý luận hết sức quan trọng cho sự ra đời của triết học Mác vào giữa thế
kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức ra đời trong một điều kiện lich sử hết sức đặc biệt. Nước
Đức vào cuối XVIII đầu XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình với 360
quốc gia tự lập trong Liên bang Đức hết sức lạc hậu về kinh tế và chính trị. Trong khi
đó, ở nước Anh cuộc cách mạng công nghiệp,ở nước Pháp cuộc cách mạng tư sản đã
nổ ra làm rung chuyển Châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh cơng nghiệp.
Chính thực tại đau buồn của nước Đức và tấm gương của các nước Tây Âu đã
thức tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức. Nhưng giai cấp này sống rải
rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và
chính trị, nên họ vừa muốn làm cách mạng, lại vừa muốn thoả hiệp với tầng lớp phong
kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết
những vấn đề phát triển của đất nước.. Chính điều này đã quy định nét đặc thù của
triết học cổ điển Đức: Nội dung cách mạng dưới một hình thức duy tâm, bảo thủ,; đề
cao vai trị tích cực của tư duy con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là
nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.
Trên một ý nghĩa nhất định, triết học cổ điển Đức không chỉ là sự phản ánh
những điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội nước Đức mà cịn của cả các nước Châu
Âu lúc đó.
I.4.2.
Đặc điểm Triết học cổ điển Đức
- Triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức của nó
cực kỳ “rối rắm”, bảo thủ. Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong triết học của