BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG
ĐẠI
---o0o---
HỌC
THĂNG
LONG
Đề thi môn:
PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH LOGISTICS VÀ QUẢN LÍ CHUỖI
CUNG ỨNG
(Học kỳ I nhóm 1 năm học 2022 - 2023)
TÌM HIỂU VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Giáo viên hướng dẫn: Vũ Quang Đức
Sinh viên thực hiện: Lương Minh Hiếu
Mã sinh viên
: A40633
Số điện thoại: 0829316195
Email:
Người chấm 1
Người chấm 2
HÀ NỘI – 2022
Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................................2
I.
NHỮNG VẪN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ LOGISTICS....................................3
1.
Khái niệm dịch vụ logistics.....................................................................................................3
2.
Khái niệm hợp đồng Logistics.................................................................................................4
3.
Đặc điểm cơ bản của hợp đồng dịch vụ logistics....................................................................5
_ Thứ nhất: HĐDV logistics là hợp đồng song vụ, hợp đồng ưng thuận và mang tính chất đền
bù....................................................................................................................................................5
II. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA..............................7
1.
Khái niệm cơ bản.....................................................................................................................7
1.1.
Mua bán hàng hóa là gì?..................................................................................................7
1.2 khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại....................................................7
2.
Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.............................................................................8
3.
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa...........................................................................12
4.
Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa........................................................13
4.1
Những vấn đề về hình thức và ngơn ngữ hợp đồng mua bán hàng hóa doanh nghiệp cần
lưu ý trong quá trình soạn thảo, ký kết......................................................................................13
4.2 Những vấn đề về thẩm quyền ký kết của hợp đồng mua bán hàng hóa doanh nghiệp cần
lưu ý..........................................................................................................................................14
4.3 Những vấn đề về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa doanh nghiệp cần lưu ý.......15
5.
Rủi ro có thể xảy ra trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa..........................................17
III. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA.22
KẾT LUẬN......................................................................................................................................23
PHỤ LỤC.........................................................................................................................................24
2
LỜI MỞ ĐẦU
Hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất về ý chí, quan điểm giữa các cá nhân
cũng như các tổ chức để từ đó làm căn cứ phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong giao dịch. Hợp đồng là những tiền đề
pháp lý góp phần tạo nên sự vận động linh hoạt của các giá trị vật chất trong xã hội.
Vì thế, trong hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng như bất kỳ quốc gia nào, luật
hợp đồng ln ln được xếp vào vị trí quan trọng bậc nhất. Trong các giao dịch,
trao đổi trong cuộc sống xã hội, từ các hoạt động thương mại, mua bán hay chỉ là để
đáp ứng nhu cầu trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, hầu hết đều có sự hiện diện
của hợp đồng. Hiện nay, trong chế định hợp đồng thì vấn đề về Hợp đồng quản lí là
một vấn đề nóng hổi được rất nhiều người quan tâm. Các quy định của vấn đề này
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể tham gia hợp đồng cũng như
bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng,xã hội. Thế nên nó phải được xây dựng hợp lý,
công bằng, cân đối giữa nghĩa vụ và quyền, lợi ích của các chủ thể hợp đồng cũng
như của cộng đồng, Nhà nước nói chung. Hợp đồng mua bán hàng hóa được hiểu là
một dạng thỏa thuận giữa bên bán và bên mua, trong đó bên bán có trách nhiệm
chuyển hàng hóa cùng quyền sở hữu đối với hàng hóa đó cho bên mua và được
hưởng lợi ích hoặc thanh tốn từ bên mua. Ngược lại, bên mua có nghĩa vụ nhận
hàng hóa và thực hiện việc thanh tốn hoặc chuyển giao lợi ích tương đương cho
bên bán hàng theo phương thức, địa điểm và thời gian đã được thỏa thuận. Hiện nay,
đây là loại hợp đồng phổ biến nhất trong và chiếm một phần rất quan trọng trong
hoạt động kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Để hợp đồng được thực hiện một
cách đảm bảo quyền lợi của mình và tuân thủ pháp luật, nhiều doanh nghiệp phải tốn
nhiều chi phí cho các dịch vụ tư vấn pháp lý bên ngoài. Điều này dẫn đến doanh
nghiệp hoàn toàn bị động trước những rủi ro phát sinh từ các thỏa thuận trong quan
hệ mua bán hàng hóa. Do đó, việc trang bị một số kiến thức cơ bản về hợp đồng mua
bán hàng hóa về hình thức và nội dung trong quá trình soạn thảo và ký kết là cần
thiết mà mỗi doanh nghiệp cần phải lưu ý . Bài tiểu luận này sẽ làm rõ các vẫn đề về
hợp đồng mua bán hàng hóa .
3
I.
NHỮNG VẪN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ
LOGISTICS
1. Khái niệm dịch vụ logistics
Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực
hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi,
làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì,
ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hố theo
thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics được phiên âm theo
tiếng Việt là dịch vụ Lơ-gi-stíc.
-
Quan hệ kinh doanh dịch vụ logistics được xác lập và thực hiện thơng qua hình
thức pháp lý chủ yếu là hợp đồng. Đây cũng là cơ sở pháp lý để giải quyết các
tranh chấp nếu có phát sinh. Một hợp đồng được soạn thảo chặt chẽ giúp cho
doanh nghiệp tránh được nhiều rủi ro, bất lợi trong quá trình thực hiện. Ở Việt
Nam, các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến việc soạn thảo hợp đồng, trừ
một vài doanh nghiệp lớn. Hầu hết các doanh nghiệp trước khi ký một hợp đồng
nào đó thường vào mạng internet tìm một vài hợp đồng mẫu mà khơng biết rằng
khơng có một hợp đồng chuẩn mực nào cho mọi mối quan hệ trong kinh doanh.
Vì thế khi tranh chấp xảy ra, doanh nghiệp gặp rất nhiều bất lợi do hợp đồng quy
định không đúng hoặc không đầy đủ, chưa kể đến việc đối tác có thể lợi dụng sự
thiếu hiểu biết của bên cịn lại để đưa vào những điều khoản có lợi cho bên họ
mà bất lợi cho bên kia.
2. Khái niệm hợp đồng Logistics
- Trong cuốn sách “Global Logistics and Supply Chain Management” của nhóm
tác giả John Mangan, Chandra Lalwani, Tim Butcher and Rouya Javadpour chỉ
ra rằng: Những thập niên gần đây, có rất nhiều ngun nhân dẫn đến xu hướng
th ngồi dịch vụ logistics (Outsourcing of logistics services) của các công ty
tăng nhanh. Họ tập trung vào các hoạt động cốt lõi và từ bỏ phương thức giao
nhận tự cung tự cấp (own-account transportation) mà chuyển giao việc này cho
bên thứ 3 (third party transportation). Xu hướng mới này làm tăng loại hình các
cơng ty hoạt động dịch vụ như vậy và người ta gọi đó là các nhà cung cấp dịch
vụ logistics- LSPs (logistics service providers). Cuốn sách nêu lên sự khác biệt
giữa LSPs và 3PLs. 3PLs: Third party logistics companies (Các công ty dịch vụ
logistics bên thứ 3) thậm chí cũng có thể là 4PL, 5PL khi 3PL phát triển ở mức
độ cao hơn cùng với việc ứng dụng sự phát triển của thương mại điện tử). Các
công ty logistics 3PLs giống như DHL, UPS, Kuehne+Nagels... là những công
ty giao nhận cung cấp nhiều dịch vụ tích hợp được gọi là công ty dịch vụ
4
logistics bên thứ 3- 3PL).Sự khác biệt giữa LSPs và 3PLs: LSPs cung cấp một
hoặc nhiều các dịch vụ logistics. LSPs có thể là các hãng vận chuyển hoặc các
cơng ty giao nhận. Khi các công ty này đảm nhận hoạt động tích hợp nhiều dịch
vụ trong chuỗi
logistics thì được gọi là 3PLs. Như vậy, 3PLs là LSPs tích hợp chuỗi logistics. LSPs
có thể là 1PL, 2PL, 3PL, 4PL, 5PL trong tổng thể ngành logistics. Chuỗi dịch vụ
logistics bao gồm các hoạt động dưới đây không giới hạn như: Vận tải, kho bãi,
nhận hàng và đóng gói, quản lý tồn kho, khai hải quan, quản lý tài chính thương
mại... Hợp đồng mà các công ty 3PL ký kết thực hiện các dịch vụ logistics tích hợp
đó gọi là Hợp đồng Dịch Vụ Logistics .
Khái quát lại HĐDV Logistics là sự thỏa thuận giữa một bên cung cấp dịch vụ và
một bên là khách hàng, theo đó bên cung cấp dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện tích hợp
một hoặc nhiều dịch vụ trong chuỗi cung ứng logistics bao gồm việc nhận hàng, vận
chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn
khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác liên
quan đến hàng hóa, cịn bên kia (khách hàng) có nghĩa vụ thanh tốn phí dịch vụ.
3. Đặc điểm cơ bản của hợp đồng dịch vụ logistics
_ Thứ nhất: HĐDV logistics là hợp đồng song vụ, hợp đồng ưng thuận và mang tính
chất đền bù.
Dịch vụ logistics được thực hiện trên cơ sở hợp đồng song vụ có tính đền bù. Đây là
sự thỏa thuận giữa hai bên chủ thể, là sự thống nhất ý chí được thể hiện ra bên ngồi
trên cơ sở bình đẳng về địa vị pháp lý, tức là các bên có quyền ngang nhau trong q
trình đàm phán đi đến thống nhất quyền và nghĩa vụ của mình. Bên cung ứng và bên
sử dụng dịch vụ có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau theo thỏa thuận.
Trường hợp một bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ, bên cịn lại có quyền hỗn thực
hiện nghĩa vụ tương ứng. Đặc trưng cơ bản của hợp đồng song vụ là chủ thể này
thực hiện nghĩa vụ là cơ sở để chủ thể còn lại thực hiện nghĩa vụ tương ứng đã thỏa
thuận trong hợp đồng. Ví dụ, hợp đồng quy định bên A có nghĩa vụ vận chuyển
hàng cho bên B từ điểm X đến điểm Y do bên B chỉ định. Tại điểm Y, sau khi đã
nhận hàng đầy đủ, bên B phải trả tiền vận chuyển cho bên A (nghĩa vụ của bên A đã
hoàn thành làm phát sinh nghĩa vụ tương ứng (nghĩa vụ trả tiền của bên B). Tùy
thuộc vào mức độ sử dụng dịch vụ của khách hàng, nội dung hợp đồng có thể đơn
giản hoặc phức tạp.
Tính đền bù trong HĐDV logistics được thể hiện ở chỗ: Bên sử dụng dịch vụ phải
trả tiền phí dịch vụ cho bên cung cấp dịch vụ. Phí dịch vụ do các bên thỏa thuận
trong hợp đồng. Thời điểm trả tiền dịch vụ các bên thỏa thuận trong hợp đồng, có
5
thể là thanh toán tạm ứng trước, trả tiền ngay sau khi bên cung ứng hoàn thành nghĩa
vụ hoặc sau 60 ngày kể từ ngày bên cung ứng hoàn thành nghĩa vụ… Trường hợp
bên sử dụng dịch vụ không trả tiền dịch vụ được coi là vi phạm nghĩa vụ. Khi có vi
phạm nghĩa vụ, bên sử dụng dịch vụ có thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã vi phạm
và/hoặc bồi thường thiệt hại theo thỏa thuận trong hợp đồng (thường là phạt lãi
chậm thanh toán hoặc bên cung ứng tạm dừng nghĩa vụ cung cấp dịch vụ của mình).
Ví dụ, hợp đồng quy định: Định kỳ 25 hàng tháng hai bên có nghĩa vụ lập bảng cơng
nợ trong tháng đó, bên cung cấp dịch vụ xuất hóa đơn đỏ gửi cho bên sử dụng dịch
vụ. Sau thời hạn 60 ngày kể từ ngày hóa đơn, bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ trả
tiền dịch vụ cho bên cung cấp dịch vụ. Quá thời hạn này, bên cung cấp dịch vụ có
quyền dừng việc cung cấp dịch vụ, cụ thể là dừng việc vận chuyển hàng, tạm giữ
không giao hàng, tính lãi phạt số tiền chậm trả theo thỏa thuận trong hợp đồng...
_ Thứ hai: Chủ thể của hợp đồng.
Bên làm dịch vụ phải là doanh nghiệp, còn khách hàng có thể là doanh nghiệp hoặc
là cá nhân. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics bao gồm tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh. Hoạt động logistics là dịch vụ kinh doanh có điều kiện, do đó
thương nhân kinh doanh dịch vụ này, tùy từng loại dịch vụ sẽ có các điều kiện kinh
doanh khác nhau. Ví dụ, thương nhân thành lập cơng ty đại lý hải quan thì phải có
chứng chỉ đại lý hải quan, thương nhân kinh doanh dịch vụ kho bãi thì phải tuân thủ
các điều kiện về kho bãi, thương nhân kinh doanh dịch vụ vận chuyển phải tuân thủ
các quy định về vận chuyển... Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải thỏa
mãn một số điều kiện theo quy định tại Nghị định số 163/2017/NĐ-CP ngày
30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về điều kiện
kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics. Chủ thể có thể một bên là pháp nhân nước ngoài trong
trường hợp bên thuê dịch vụ logistics sử dụng dịch vụ của các đối tác nước ngoài.
_Thứ ba: Đối tượng của hợp đồng dịch vụ logistics.
Đối tượng của HĐDV logistics trước hết là một loại dịch vụ, mà dịch vụ là một sản
phẩm vơ hình, khơng tồn tại dưới dạng vật chất, khó xác định dịch vụ bằng những
chỉ tiêu kỹ thuật được lượng hóa. Luật Thương mại khơng quy định về đối tượng
dịch vụ mà tìm thấy trong Bộ luật Dân sự 2005, điều 519: Đối tượng của HĐDV là
một cơng việc có thể thực hiện được, không thuộc danh mục dịch vụ cấm kinh
doanh.
Đối tượng của HĐDV logistics là dịch vụ gắn liền với hoạt động mua bán, vận
chuyển hàng hóa như: tổ chức việc vận chuyển hàng hóa, giao hàng hóa cho người
vận chuyển, làm các thủ tục giấy tờ cần thiết để vận chuyển hàng hóa là các dịch vụ
được Nghị định số 163/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi
6
tiết thi hành Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn
trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
_Thứ tư: Hình thức của hợp đồng dịch vụ logistics.
Vì tính chất phức tạp của dịch vụ logistics mà thực tế HĐDV logistics bắt buộc phải
bằng văn bản. HĐDV logistics là một hợp đồng phức tạp với một chuỗi các dịch vụ
gắn liền với quyền lợi và trách nhiệm của các bên, phí dịch vụ, thời điểm dịch
chuyển rủi ro, các trường hợp miễn trách của người chuyên chở, các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan có quy định bắt buộc hợp đồng phải được lập bằng văn
bản. Nếu không tuân thủ điều kiện về hình thức này thì hợp đồng có thể bị vơ hiệu,
hoặc khi có tranh chấp xảy ra các bên khơng có căn cứ pháp lý để giải quyết.
_Thứ năm: Nội dung của hợp đồng dịch vụ logistics.
HĐDV logistics là toàn bộ các điều khoản mà các bên đã giao kết trên cơ sở tự
nguyện, tự do ý chí, dựa trên các quy định của pháp luật.
II.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA
1. Khái niệm cơ bản
1.1. Mua bán hàng hóa là gì?
_ Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh tốn; bên mua
có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo
thỏa thuận.
1.2 khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại
_ Tự do hợp đồng là một tư tưởng mà theo đó các cá nhân được quyền tự do
thỏa thuận giữa họ với nhau về các điều kiện của hợp đồng, không có sự can
thiệp của chính quyền. Do đó, hợp đồng được xem là sản phẩm của ý chí được
hình thành từ lợi ích của các bên tham gia giao kết. Hợp đồng là hình thức pháp
lý chủ yếu để ghi nhận việc thiết lập các quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự trong
nền kinh tế thị trường.
_Sự ra đời của Luật Thương mại năm 2005 là sự khởi đầu hình thành một khái
niệm mới trong thực tiễn kinh doanh - khái niệm “hợp đồng thương mại”. Trong
khoa học pháp lý, cũng có ý kiến cho rằng khơng nên sử dụng khái niệm này do lo
ngại dẫn đến hệ quả không cần thiết, đó là sự mất cơng tym kiếm điểm khác biệt
7
giữa hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự. Song trong thực tiễn kinh doanh
hiện nay, khái niệm này vẫn được sử dụng khá phổ biến với ý nghĩa là “hợp đồng
trong hoạt động thương mại”. Có thể thấy rằng, khái niệm “hợp đồng thương mại”
vẫn tồn tại trong đời sống kinh tế, pháp lý với ý nghĩa là hợp đồng hình thành trong
lĩnh vực thương mại.
Hợp đồng mua bím hàng hóa là một trong những loại hợp đồng thương mại. về lý
luận, hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự và hợp đồng
mua bán hàng hóa trong thương mại cũng là một loại hợp đồng mua bán tài sản. Tuy
nhiên, hợp đồng thương mại nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương
mại nói riêng có những đặc thù riêng biệt khác với hợp đồng dân sự và hợp đồng
mua bán tài sản. Các văn bản pháp luật hiện hành ở Việt Nam không định nghĩa về
hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng dựa trên khái niệm chung về hợp đồng dân sự,
hợp đồng mua bán tài sản (Theo Điều 385 Bộ luật dân sự năm 2015 thì hợp đồng
dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền
và nghĩa vụ dân sự. Điều 430: Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền
cho bên bán) và khái niệm mua bán hàng hóa quy định tại Luật Thương mại năm
2005 có thể đưa ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại (gọi
chung là hợp đồng mua bán hàng hóa) như sau: “Hợp đồng mua bán hàng hóa là
sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bản có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền
sở hữu hàng hóa cho bên mua
và nhận thanh tốn; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và
quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”.
2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
_Hợp đồng mua bán hàng hóa có bím chất giống như hợp đồng mua bán tài sản,đều
là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập quyền, nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên, cụ thể là: bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản/hàng hóa cho bên mua và nhận
thanh tốn; bên mua có nghĩa vụ thanh tốn và có quyền sở hữu đối với tài sản/hàng
hóa đã mua.
Bên cạnh đó, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại cịn được nhận diện qua
những dấu hiệu riêng sau:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là thương nhân.Chủ thể
hợp đồng là các bên giao kết và thực hiện hợp đồng. Một bên chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa phải là thương nhân. Chủ thể còn lại của hợp đồng mua bán hàng
hóa là thương nhân hoặc có thể không phải là thương nhân.
Đặc điểm về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là điểm khác
biệt với chủ thể hợp đồng mua bán tài sản trong dân sự. Theo quy định của Bộ luật
dân sự thì chủ thể hợp đồng mua bán tài sản là cá nhân có năng lực hành vi dân sự
8
đầy đủ, hộ gia đình, tổ hợp tác, pháp nhân thương mại, pháp nhân phi thương mại
(cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị; tổ chức kinh tế; tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ
chức phi thương mại khác).
Lý do có sự khác biệt này là do, thương nhân là chủ thể thực hiện hoạt động thương
mại và để thực hiện hoạt động thương mại cần đáp ứng những yêu cầu nhất định về
vốn, về tư cách pháp lý, về một số yêu cầu điều kiện mang tính nghề nghiệp để triển
khai hoạt động thương mại thường xuyên, độc lập trên thị trường. Ảnh hưởng của
hoạt động thương mại đối với nền kinh tế - xã hội cũng có sự khác biệt so với các
giao dịch dân sự. Do vậy, sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động thương mại
cũng có những điểm khác biệt. Một trong những yêu cầu thể. hiện sự quản lý của
nhà nước đó là quy định về điều kiện chủ thể tham gia hoạt động thương mại nói
chung và hoạt động mua bán hàng hóa nói riêng là tổ chức, cá nhân có hoạt động
thương mại phải đăng ký kinh doanh với tư cách thương nhân. Quy định nghĩa vụ
đăng ký kinh doanh để hình thành tư cách thương nhân chính là thể hiện sự quản lý
của nhà nước đối với hoạt động thương mại.
Xuất phát từ yêu cầu điều kiện chủ thể của hoạt động thương mại nên các bên chủ
thể của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là thương nhân hoặc trong một số trường
hợp chỉ cần bên bán là thương nhân. Trong quan hệ mua bán hàng hóa thì bên bán
phải là thương nhân để thực hiện công việc bán hàng hóa như một nghề nghiệp và có
thu nhập từ việc bán hàng. Bên mua hàng có thể là thương nhân hoặc khơng là
thương nhân có nhu cầu mua hàng hóa để bán lại kiếm lời hoặc mua hàng để đáp
ứng các nhu cầu cho cơng việc, cuộc sống của mình.
Hiện nay, trong thực tiễn kinh doanh đã xuất hiện các chủ thể kinh doanh độc lập
thường xuyên nhưng không phải đăng ký kinh doanh. Những chủ thể đó theo quan
niệm của pháp luật Việt Nam không phải là thương nhân. Tuy nhiên, những cá nhân
có hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh
doanh vẫn có thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại với tư cách
là bên mua.
Thứ hai, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, hàng hóa bao gồm:
+ Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
+ Những vật gắn liền với đất đai.
Qua quy định về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa tại Luật Thương mại
năm 2005, cần lưu ý một số nội dung sau:
- So với Luật Thương mại năm 1997, khái niệm hàng hóa được mở rộng hơn đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới, nội hàm khái niệm hàng hóa (từ phạm vi điều
chỉnh của Luật Thương mại) có thể khác nhau ở mỗi quốc gia tùy theo truyền thống
văn hóa, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu giao lưu thương mại với
9
quốc tê. Ngay tại một quốc gia, nội hàm khái niệm hàng hóa cũng có thể khác nhau
trong từng thời kì phát triển kinh tế. Nhưng tựu chung lại, hàng hóa là đối tượng của
hợp đồng mua bán hàng hóa phải là những hàng hóa được phép lưu thơng và có tính
thương mại (sinh lời). Nếu các bên giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa
bị cấm lưu thơng trên thị trường thì hợp đồng mua bán hàng hóa đó sẽ bị vơ hiệu.
Do vậy, việc xác định hàng hóa là đối tượng mua bán sẽ là một trong những điều
kiện ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa. Với đặc điểm đơi
tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa sẽ phân biệt hợp đồng mua bán
hàng hóa với hợp đồng cung ứng dịch vụ là một công việc mà bên cung ứng dịch vụ
phải thực hiện theo yêu cầu của bên sử dụng dịch vụ. Hàng hóa là sản phẩm hữu
hình, cố tính lưu thơng, có tính thương mại và được chuyển giao quyền sở hữu khi
thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa. Khác với hàng hóa, dịch vụ là sản phẩm vơ
hình, khơng thể cầm nắm được, không thể xác lập quyền sở hữu với dịch vụ, không
lưu kho, lưu bãi được.
Ở Việt Nam, khái niệm hàng hóa được quy định trong Luật Thương mại năm 1997
và Luật Thương mại năm 2005 có sự khác nhau. Khoản 3 Điều 5 Luật Thương mại
năm 1997 quy định: Hàng hóa gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng
để kinh doanh dưới hình thức cho th, mua, bán. Khái niệm hàng hóa tại Luật
Thương mại năm 2005 không chỉ bao gồm các loại hàng hóa hữu hình có ở thời
điểm giao kết hợp đồng mà cịn có cả hàng hóa sẽ hình thành trong tương lai. Việc
mở rộng khái niệm hàng hóa vừa thể hiện phạm vi điều chỉnh rộng hơn của Luật
Thương mại, vừa có ý nghĩa đáp ứng yêu cầu điều chỉnh pháp luật khi Việt Nam mở
cửa và hội nhập kinh tế với các quốc gia trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu.
- Trong mối tương quan so sánh với đối tượng hợp đồng mua bán tài sản có thể nhận
thấy đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản rộng hơn so với đối tượng của hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Theo Điều 431 Bộ luật dân sự năm 2015, đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản là
tài sản được quy định tại Bộ luật dân sự. Khái niệm tài sản tại Điều 105 Bộ luật dân
sự năm 2015 bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản
hình thành trong tương lai. Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền bao gồm
quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác. Quyền tài sản phải được xác định thỏa thuận cụ thể về loại
quyền tài sản và bên bán phải có các giấy tờ hoặc bằng chứng khác chứng minh
quyền tài sản đó thuộc sở hữu của mình. Có ba loại quyền tài sản:
- Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả; quyền sở hữu công nghiệp; quyền đối với
giống cây trồng; quyền đòi nợ; quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo
10
đảm; quyền tài sản đối với phần góp vốn trong doanh nghiệp; quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác (thuộc sở hữu của bên bán);
- Quyền sử dụng đất;
- Quyền khai thác tài nguyên.
Trong khi đó, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ là động sản và những
vật gắn liền với đất đai. Như vậy, các loại tài sản là quyền tài sản như giấy tờ có giá
(cổ phiếu, trái phiếu) không được đưa vào phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại
năm 2005. Những quan hệ mua bán cổ phiếu, trái phiếu giữa các thương nhân với
nhau có bản chất giống như quan hệ mua bán hàng hóa trong thương mại nhưng do
cách giải thích về khái niệm hàng hóa nên những giao dịch mua bán cổ phiếu, trái
phiếu không chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005. Đây cũng là một
vấn đề cần có sự trao đổi trong hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý.
- Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại có thể hướng tới việc giao và nhận
hàng hóa sẽ hình thành ở một thời điểm trong tương lai. Hàng hóa trong các giao
dịch này khơng phải là những hàng hóa thương mại thơng thường mà phải là những
loại hàng hóa nằm trong danh mục hàng hóa giao dịch tại Sở giao dịch do Bộ trưởng
Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) quy định. Các quy định về mua bán hàng
hóa qua Sở giao dịch hàng hóa tại các Điều 64 đến Điều 66, Điều 68 Luật Thương
mại năm 2005 đã minh chứng cho phân tích trên.
Quy định của Luật Thương mại năm 2005 cũng tương đồng với Luật của Anh. Theo
đó, Luật của Anh phân biệt hai loại hợp đồng là hợp đồng bán hàng và hợp đồng
thỏa thuận bán hàng. Hợp đồng bán hàng (Sale of Goods) là hợp đồng theo đó quyền
sở hữu hàng họa được chuyển từ người bán sang cho người mua ngay khi ký kết hợp
đông. Hợp đồng thỏa thuận bán hàng (Agreement to Sale of Goods) là hợp đồng mà
việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa được thực hiện trong tương lai hoặc phải
hồn thành một số điều kiện nhất định.
_Thứ ba, mục đích chủ yếu của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa là sinh
lợi. Đặc điểm này xuất phát và gắn liền với đặc điểm về chủ thể chủ yểu của hợp
đồng mua bán hàng hóa lả thương nhân. Theo lý thuyết và trong thực tiễn, thương
nhân sẽ thường xuyên thực hiện hoạt động thương mại (trong đó có hoạt động mua
bán hàng hóa) với mục đích sinh lời. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một bên
của hợp đồng mua bán hàng hóa khơng có mục đích sirih lời. Những hợp đồng được
thiết lập giữa bên không nhằm mục đích sinh lợi với thương nhân thực hiện trên lãnh
thổ Việt Nam, về nguyên tắc, không chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại trừ khi
bên khơng nhằm mục đích sinh lợi đó lựa chọn áp dụng Luật Thương mại (Khoản 1
Điều 3 Luật Thương mại năm 2005).
_Thứ tư, hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói,
bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với hợp đồng mua bán
11
hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tn theo các
quy định đó.
Ví dụ: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện bằng văn bản hoặc
bằng hình thức khác có giá trị pháp 11 tương đương.
Hình thức của hợp đồng là cách thức thể hiện và ghi nhận ý chí của các bên trong
việc giao kết hợp đồng, về nguyên tắc, các bên được tự do lựa chọn hình thức hợp
đồng mua bán hàng hóa trừ những trường hợp pháp luật có quy định về hình thức cụ
thể của hợp đồng thì các bên mua và bán hàng hóa phải tuân thủ quy định của pháp
luật về hình thức hợp đồng. Luật Thương mại quy định đa dạng về các hình thức thể
hiện của hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng các bên mua bán hàng hóa nên ký kết
hợp đồng bằng văn bản. Ưu điểm của hình thức hợp đồng bằng văn bản so với hình
thức hợp đồng bằng lời nói là:
- Ghi nhận rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng;
- Là cơ sở pháp lý rõ ràng để các bên xem xét thực hiện đúng, đầy đủ hợp đồng,
đồng thời là tài liệu pháp lý quan trọng để cơ quan cồ thẩm quyền giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng đó.
Theo quy định của Cơng ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế CISG
cơng nhận ngun tắc tự do về hình thức hợp đồng, nghĩa là hợp đồng mua bán hàng
hóa khơng nhất thiết phải bằng văn bản mà có thể được thành lập bằng lời nói, bằng
hành vi và có thể được chứng minh bằng mọi cách kể cả bằng nhân chứng.
3. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
_Nội dung của hợp đồng nói chung là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Nội dung của HĐ mua
bán hàng hóa là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ
của bên bán và bên mua trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
_Hợp đồng bắt buộc phải bao gồm những nội dung chủ yếu nào là tùy thuộc vào quy
định của pháp luật từng quốc gia. Việc pháp luật quy định nội dung của hợp đồng
mua bán có ý nghĩa hướng các bên tập trung vào thỏa thuận các nội dung quan trọng
của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện và phịng ngừa các tranh chấp có
thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật thương mại Việt Nam khơng quy
định hợp đồng mua bán hàng hóa phải bao gồm nội dung bắt buộc nào. Tuy nhiên, ta
có thể thấy rằng, một hợp đồng mua bán hàng hóa thơng thường phải chứa đựng sự
thỏa thuận về đối tượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn và địa
điểm nhận giao hàng.
_Trong quan hệ mua bán hàng hóa, các bên không chỉ bị ràng buộc bởi những điều
khoản đã thỏa thuận với nhau mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định của
12
pháp luật, tức là những điều khoản pháp luật có quy định nhưng các bên không thỏa
thuận trong hợp đồng.
4. Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa
4.1 Những vấn đề về hình thức và ngơn ngữ hợp đồng mua bán hàng hóa
doanh nghiệp cần lưu ý trong quá trình soạn thảo, ký kết
Doanh nghiệp đảm bảo hình thức và ngơn ngữ của hợp đồng theo đúng quy định
của pháp luật trong quá trình soạn thảo, ký kết. Theo đó, doanh nghiệp cần phải
đảm bảo các yếu tố sau:
Thứ nhất, về mặt hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa. Một trong
những nguyên do dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu, nếu các bên không tuân thủ theo các
yêu cầu của quy định pháp luật. Khi nêu căn cứ để xác lập hợp đồng mua bán, đó
phải là những căn cứ đang có hiệu lực. Do đó, doanh nghiệp cần phải đảm bảo hình
thức của loại hợp đồng này theo quy định của pháp luật để chắc chắn rằng nó sẽ có
hiệu lực sau khi các bên đã hồn tất q trình ký kết. Điều 24 Luật Thương mại năm
2005 quy định “hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn
bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể”. Đối với các loại hợp đồng mua bán
hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản, thì phải tuân theo các
quy định đó. Trong một số trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải
giao kết hợp đồng dưới hình thức văn bản, chẳng hạn như: hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, hợp đồng mua bán điện có thời hạn,... Thậm chí, một số loại hàng hóa
như: nhà ở, cơng trình xây dựng, việc mua bán cần phải lập thành văn bản có cơng
chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật. Do đó, trên thực tế, doanh nghiệp
tốt nhất nên thực hiện việc giao kết mua bán hàng hóa thơng qua hình thức văn bản
trong mọi trường hợp, đặc biệt là các hàng hóa có giá trị lớn. Việc các bên ký kết
dưới hình thức văn bản sẽ giúp cho các bên giảm bớt được rủi ro về sau như tính
hiệu lực của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên. Dựa trên văn bản, bản thân
doanh nghiệp cũng dễ dàng nắm bắt được các thông tin, vấn đề phát sinh từ giao
dịch.
Thứ hai, trong q trình soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hóa, doanh nghiệp cần
đảm bảo từ ngữ sử dụng phải rõ ràng, một nghĩa, mạch lạc và dễ hiểu. Điều này có
nghĩa là các điều khoản của hợp đồng chỉ được hiểu theo một nghĩa và khơng thể
giải thích bằng một nghĩa nào khác. Từ ngữ phải được chọn lọc, cụ thể, nói lên đúng
mục đích của hợp đồng mua bán hàng hóa, đối tượng hợp đồng, phương thức thanh
13
tốn, khơng được hiểu một cách chung chung. Việc thiếu cân nhắc trong việc lựa
chọn từ ngữ và diễn đạt trong hợp đồng sẽ gây ra sự hiểu lầm, ngộ nhận của các bên.
Thậm chí, trong nhiều trường hợp, những đối tác thiếu thiện chí trốn tránh nghĩa vụ
và đưa ra nhưng biện hộ khi có tranh chấp. Ví dụ, điều khoản về thanh toán trong
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, khi doanh nghiệp sử dụng từ “đồng đơ la” để
thanh tốn bằng ngoại tệ, sẽ làm điều khoản này thiếu tính cụ thể khi hiện nay khơng
chỉ riêng Mỹ mà nhiều quốc gia trên thế giới cũng sử dụng đồng tiền này và tỷ giá
hối đoái của chúng cũng khác nhau. Hoặc trong trường hợp về tên hàng hóa trong
một hợp đồng cụ thể là 200m tấm thảm màu xanh. Tuy nhiên, trên thực tế, màu xanh
có rất nhiều cấp độ, có thể là xanh lam, xanh lục. Nếu doanh nghiệp không chỉ ra cụ
thể trong hợp đồng, các bên trong q trình thực hiện có thể dẫn đến sự nhầm lẫn và
có khả năng làm cho hợp đồng mua bán hàng hóa bị vơ hiệu hoặc xảy ra tranh chấp.
4.2 Những vấn đề về thẩm quyền ký kết của hợp đồng mua bán hàng hóa doanh
nghiệp cần lưu ý
Thẩm quyền ký kết là vấn đề có ảnh hưởng đến tính có hiệu lực của hợp đồng. Do
đó, các doanh nghiệp cần phải xem xét một cách cẩn thận trong quá trình soạn thảo
và ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Theo đó, doanh nghiệp cần phải xem xét 2 yếu tố của chủ thể ký kết có đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi hay không? Theo quy định của Luật Thương mại năm
2005, chủ thể tham gia việc mua bán hàng hóa là “thương nhân, bao gồm tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp; cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xun và có đăng ký kinh doanh”. Ngồi ra, các tổ chức, cá nhân không phải
là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa,
nhưng phải tuân theo Luật Thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật
Thương mại. Doanh nghiệp cần lưu ý rằng, cá nhân tham gia vào quan hệ mua bán
hàng hóa phải là người bằng hành vi của mình xác lập quyền và nghĩa vụ trong quan
hệ này theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Đối với các trường hợp hạn chế
hay mất năng lực hành vi, thì hợp đồng mua bán hàng hóa cần phải có người đại
diện theo pháp luật, người giám hộ thay mặt kí kết. Trong trường hợp là tổ chức,
doanh nghiệp cần phải xác định được ai sẽ là người đại diện tổ chức tham gia việc kí
kết hợp đồng mua bán hàng hóa, có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo
ủy quyền. Nếu là đại diện pháp luật, doanh nghiệp cần yêu cầu khách hàng của mình
cung cấp các giấy tờ xác định vai trò đại diện này. Trong trường hợp ủy quyền, cần
phải có giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền giữa các bên. Việc xác định đúng
thẩm quyền ký kết rất quan trọng trong quá trình soạn thảo hợp đồng. Doanh nghiệp
cần phải cẩn trọng vấn đề này, đặc biệt liên quan đến phạm vi đại diện, khả năng xác
lập quan hệ vì phần lớn các hợp đồng mua bán hiện nay không thể thực hiện và bị vô
14
hiệu là do các sai phạm xuất phát từ thẩm quyền ký kết của các bên. Do đó, trong
q trình soạn thảo, ký kết hợp đồng, doanh nghiệp cần xem xét hồ sơ về thông tin
cá nhân hoặc pháp nhân của các bên thật kỹ lưỡng để tránh các sai sót về sau.
4.3 Những vấn đề về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa doanh nghiệp cần
lưu ý
Khi soạn thảo và ký kết, doanh nghiệp cần phải chú ý về tính logic và cấu trúc trong
nội dung để đạt được mục đích của hợp đồng mua bán hàng hóa. Tùy vào từng loại
hàng hóa, các điều khoản trong hợp đồng sẽ được quy định khác nhau dựa trên sự
thỏa thuận của cả bên mua và bên bán. Tuy nhiên, nhìn chung, trong hầu hết các hợp
đồng mua bán hàng hóa sẽ chứa 2 nhóm điều khoản cơ bản, bao gồm: pháp lý và
thương mại. Doanh nghiệp cần phải dự tính được số lượng và sắp xếp chúng một
cách logic về mặt thời gian, khơng gian và tính trọng yếu của các điều khoản.
Về điều khoản pháp lý, khi soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hóa, doanh nghiệp
cần phải đặt ra các câu hỏi sau: hàng hóa là gì? có bị cấm kinh doanh hay kinh
doanh cần có điều kiện?; quy chuẩn của Nhà nước về chất lượng hàng hóa? Ai là
người chịu chế tài do hành vi vi phạm hợp đồng?; tranh chấp giữa các bên nếu phát
sinh sẽ giải quyết như thế nào?. Do đó, để trả lời được những câu hỏi nêu trên,
doanh nghiệp cần lưu ý trong việc xây dựng những điều khoản trong hợp đồng mua
bán hàng hóa, như: đối tượng hợp đồng, bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm, giải
quyết tranh chấp. Trong đó, về dối tượng hợp đồng là hàng hóa, doanh nghiệp khi
soạn thảo cần phải đảm bảo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm
2005, bao gồm: “tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương
lai; những vật gắn liền với đất đai”. Hàng hóa trong các giao dịch này khơng phải là
những hàng hóa thương mại thơng thường, mà phải là những loại hàng hóa nằm
trong danh mục hàng hóa giao dịch tại Sở Giao dịch do Bộ trưởng Bộ Công Thương
quy định và đã được quy định cụ thể từ Điều 64 đến Điều 66 và Điều 68 Luật
Thương mại năm 2005. Đối tượng hàng hóa trong thương mại hẹp hơn đối tượng tài
sản trong các giao dịch dân sự. Các loại tài sản là quyền tài sản như giấy tờ có giá
gồm: cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
Thương mại năm 2005. Đối với chất lượng hàng hóa, hàng hóa khi đưa vào hợp
đồng thường đính kèm theo tiêu chuẩn trong nước hoặc quốc tế nhất định theo quy
định pháp luật về tiêu chuẩn hàng hóa hoặc chỉ tiêu về phẩm chất. Đây là các tiêu
chuẩn hướng đến việc đánh giá cơng năng, đặc trưng của hàng hóa để đáp ứng nhu
cầu của cá nhân và xã hội. Trong quá trình soạn thảo điều khoản này, doanh nghiệp
cần phải xác định xem thang tiêu chuẩn, quy trình đánh giá kỹ thuật nào mà các bên
sử dụng để đánh giá chất lượng hàng hóa và đánh giá xem chúng có phù hợp với
15
các quy định pháp luật hay khơng. Từ đó, doanh nghiệp chỉ cần chỉ dẫn tiêu chuẩn
này trong điều khoản này của hợp đồng mua bán hàng hóa và yêu cầu bên bán hàng
cung cấp những tài liệu, hồ sơ chứng minh. Liên quan bồi thường thiệt hại và phạt vi
phạm, doanh nghiệp cần lưu ý các bên khi thỏa thuận về mức phạt phải dựa vào điều
301 của Luật Thương mại để đưa ra mức phạt trong phạm vi từ 8% trở xuống. Trong
trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt cao hơn (ví dụ 10%), thì phần vượt q
chênh lệch (2%) được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật và bị vô hiệu. Đối với
các điều khoản bồi thường thiệt hại, khi soạn thảo, doanh nghiệp cần đảm bảo dựa
theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ và thời hạn của Bộ luật Dân sự năm 2015. Điều
này có nghĩa là thiệt hại xảy ra bao nhiêu, thì phải được bồi thường bấy nhiêu và
người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải nhanh chóng khắc phục tổn thất mà
người bị thiệt hại phải gánh chịu. Liên quan đến điều khoản giải quyết tranh chấp,
doanh nghiệp cần lưu ý khi soạn thảo hợp đồng, các bên nên ưu tiên việc thương
lượng để giải quyết vấn đề trước khi sử dụng các cách thức khác. Trong trường hợp
thỏa thuận lựa chọn giải quyết tại Trọng tài hay tại Tòa án, phải tuân theo quy định
của pháp luật. Doanh nghiệp cần lưu ý, trường hợp khi có tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng mua bán hàng hóa giữa thương nhân với thương nhân, thì các bên có
quyền lựa chọn 1 trong 2 hình thức giải quyết tại Trọng tài hoặc tại Tịa án; nếu có
sự tham gia của 1 bên là thương nhân nước ngồi, thì các bên cịn có thể lựa chọn
một tổ chức Trọng tài của Việt Nam, hoặc lựa chọn 1 tổ chức Trọng tài nước ngoài
để giải quyết.
Về điều khoản thương mại, khi soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hóa, doanh nghiệp
cần phải xem xét các vấn đề liên quan đến giá cả và biến động giá cả, khối lượng
hàng hóa, phương thức thanh tốn - giao hàng. Liên quan đến giá cả, điều khoản này
sẽ do các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo, doanh nghiệp đưa ra
đầy đủ các nội dung: đơn giá, tổng giá trị của một hàng hóa cụ thể. Trong nhiều
trường hợp, giá cả của một số hàng hóa cụ thể có thể bị biến động theo thời gian và
thị trường. Doanh nghiệp cần lưu ý trong việc đưa ra cách xác định giá của các loại
hàng hóa này theo những điều kiện, yếu tố khách quan tác động làm thay đổi giá cả,
thay vì việc chỉ đưa ra một mức giá cố định. Đối với khối lượng/số lượng hàng hóa,
điều khoản này thể hiện mặt lượng của hàng hóa trong hợp đồng. Khi xây dựng điều
khoản này, doanh nghiệp cần làm rõ các nội dung mà các bên cần thỏa thuận: đơn vị
tính, tổng số lượng hoặc phương pháp xác định số lượng. Ví dụ: trong hợp đồng
mua bán gạch men, doanh nghiệp cần phải biết được kích thước của từng ơ gạch
theo đơn vị tính centimet hoặt mét vuông, số lượng bao nhiêu miếng mà khách hàng
mình và đối tác có nhu cầu. Trong trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,
doanh nghiệp cần phải xem xét số lượng và đơn vị đo lường theo hệ thống đo lường
quốc tế mà các bên lựa chọn và thống nhất đối với hàng hóa được giao dịch. Ngoài
16
ra, doanh nghiệp cần phải soạn thảo điều khoản phương thức giao nhận với đầy đủ
nội dung, bao gồm thời điểm, địa điểm và cách thức giao nhận hàng hóa. Tương ứng
với phương thức giao nhận, doanh nghiệp cần chú ý đến việc soạn thảo phương thức
thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong điều khoản này, cách thức mà
các bên thực hiện nghĩa vụ giao, nhận tiền khi mua bán hàng hóa cần phải được cụ
thể hóa, bao gồm nơi thanh tốn, hình thức thanh tốn, đồng tiền sử dụng. Chẳng
hạn, khi soạn thảo điều khoản này, nếu các bên chọn thanh toán trực tiếp, doanh
nghiệp ghi rõ qua hình thức nào như là tiền mặt hoặc séc. Nếu các bên gián tiếp
thông qua sử dụng dịch vụ của bên thứ ba như là ngân hàng, doanh nghiệp cần ghi
chính xác thơng tin của bên thứ ba và tài khoản của bên được thanh toán. Một vấn
đề mà doanh nghiệp cần lưu ý thêm đó là xác định đồng tiền thanh toán trong hợp
đồng mua bán hàng hóa. Theo khoản 13 Điều 1 Pháp lệnh Ngoại hối năm 2013,
Điều 3 Thông tư số 32/2013/TT-NHNH, trong các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa
các thương nhân Việt Nam với nhau hoặc với cá nhân, tổ chức khác trên lãnh thổ
Việt Nam, việc thanh toán yêu cầu bằng đồng tiền Việt Nam chứ không được sử
dụng các đồng tiền của quốc gia khác, đồng tiền chung châu Âu - Euro (ngoại tệ).
Tuy nhiên, trên thực tế cần nhìn nhận rằng, các bên trong nhiều trường hợp vẫn lựa
chọn thanh tốn bằng đồng ngoại tệ nhưng nếu có vấn đề phát sinh từ việc sử dụng
sai đồng tiền thanh toán cũng khơng thể làm cho hợp đồng vơ hiệu vì quan điểm của
các tòa án cho rằng điều cấm này nằm trong một văn bản dưới luật không nằm trong
một văn bản luật theo quy định điểm c khoản 1 điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015.
5. Rủi ro có thể xảy ra trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Rủi ro về chủ thể ký kết hợp đồng:
a. Thực trạng:
- Người ký khơng có thẩm quyền ký (Không phải là người đại diện theo pháp luật
hoặc người ký không được ủy quyền).
- Người ký vượt quá phạm vi được ủy quyền.
b. Phòng ngừa:
- Kiểm tra trong Giấy ĐKKD xem ai là người đại diện theo pháp luật.
- Yêu cầu cung cấp Văn bản ủy quyền cho nhân viên khi giao dịch hoặc người ký
không phải người đại diện theo pháp luật.
- Kiểm tra trong giấy ủy quyền xem người ký có thuộc phạm vi được ủy quyền
khơng (điều kiện ủy quyền, quyền của người được ủy quyền).
Rủi ro về đối tượng của hợp đồng:
17
a. Thực trạng:
- Tranh chấp về hàng hóa khơng đúng đối tượng đã thỏa thuận.
- Tranh chấp về chất lượng hàng hóa khơng đúng, khơng đáp ứng được theo tiêu
chuẩn.
- Tranh chấp đơn vị tính .
- Khi soạn thảo hợp đồng hai bên không quy định cụ thể và chi tiết dẫn đến hiểu
lầm hoặc do một bên lợi dụng sơ hở để khơng thực hiện nghĩa vụ.
b. Phịng ngừa:
- Khi soạn thảo cần quy định một cách cụ thể, chi tiết về đối tượng của hợp đồng,
Chất lượng hàng hóa, số lượng, trọng lương. Chỉ tiêu kỹ thuật, tiêu chuẩn áp dụng,
Đơn vị tính (m, kg) để tránh xảy ra tranh chấp.
Rủi ro về giá cả, phương thức thanh toán:
a. Thực trạng:
- Rủi ro về giá khi thị trường biến động.
- Rủi ro về đồng tiền làm phương thức thanh tốn.
- Tranh chấp về chi phí bốc dỡ, vận chuyển lưu kho bãi.
- Rủi ro về cách thức giao nhận tiền.
- Rủi ro trong phương thức bảo đảm hợp đồng bằng phương thức bảo lãnh.
- Không quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của từng bên
b. Phòng ngừa:
- Cần đưa ra các điều khoản chi tiết, cụ thể, linh hoạt phù hợp với từng giao dịch.
Rủi ro về thư bảo lãnh:
a. Thực trạng:
- Làm giả chứng thư bảo lãnh.
- Rủi ro người ký phát chứng thư bảo lãnh không đúng thẩm quyền vượt quá thẩm
quyền.
- Điều kiện của bảo lãnh: Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh trong đó yêu cầu bên
thụ hưởng phải chứng minh được vi phạm của bên được bảo lãnh, khi đó ngân hàng
mới thanh tốn.
- Rủi ro để từ chối bảo lãnh cịn ở cách ghi thời hạn bảo lãnh, ví dụ thời hạn bảo lãnh
là 360 ngày, dẫn tới cách hiểu khác nhau là ngày thường hay ngày làm việc.
- Bên bảo lãnh có thể viện lý do để từ chối thanh toán hoặc chậm thanh toán cho bên
nhận bảo lãnh. (Viện lý do HĐ gốc/ PLHĐ bị sửa đổi tùy tiện) .
b. Phòng ngừa:
- Cần áp dụng chung biểu mẫu về thư bảo lãnh đính kèm hướng dẫn. Tốt nhất khơng
áp dụng bảo lãnh có điều kiện.
- Thực hiện đúng các điều khoản đã ký trong hợp đồng (Đặc biệt các chứng từ liên
quan phải chuẩn xác, đúng và phù hợp thời gian).
18
- Không nên sửa lại hợp đồng, bổ sung PLHĐ giữa hai bên khi đã có chứng thư bảo
lãnh khi chưa có sự đồng ý của bên bảo lãnh. (Trường hợp hai bên sửa đổi HD, lập
PLHD phải báo/đề nghị bên bảo lãnh lập lại Bảo lãnh theo nội dung sửa đổi).
Rủi ro về điều khoản phạt vi phạm:
a. Thực trạng:
- Theo Luật thương mại (Điều 301) thì quyền thoả thuận về mức phạt vi phạm của
các bên bị hạn chế, cụ thể: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng
mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng nhưng không
quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Do vậy, các bên khi thoả thuận
về mức phạt phải căn cứ vào quy định của Luật thương mại để lựa chọn mức phạt
trong phạm vi từ 8% trở xuống, nếu các bên thoả thuận mức phạt lớn hơn (ví dụ
12%) thì phần vượt q (4%) được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật và bị vô
hiệu.
- Theo quy định tại Bộ luật Dân sự nếu chậm thanh tốn các bên có thể thỏa thuận
mức phạt nhưng không được vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản (Điều 476).
- Mức lãi chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm
thanh tốn tương ứng với thời gian chậm trả.
b. Phịng ngừa:
- Đây là điều khoản thông thường. Khi thương thảo hợp đồng với khách hàng có thể
đưa vào hợp đồng hoặc khơng cần đưa vào vì đã được pháp luật quy định. Cán bộ
kinh doanh cần linh hoạt khi sử dụng điều khoản này.
- Theo Đ 41 NĐ 48/2010/NĐ-CP ngày 07 tháng 05 năm 2010 riêng đối với hợp
đồng xây dựng mức phạt tối đa là 12% giá trị hợp đồng bị vi phạm.
Rủi ro liên quan đến điều khoản quy định về sự kiện bất khả kháng:
a.Khái niệm: Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không
thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết và khả năng cho phép (Điều 161 BLDS).
- Trong trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự
kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (Điều 302 BLDS).
- Điều 294 Luật Thương mại thì bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong
trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng.
- Như vậy giá trị quan trọng nhất của việc soạn thảo điều khoản về bất khả kháng
chính là giúp cho các bên lường trước được các trường hợp miễn trách nhiệm nếu vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng khi điều kiện bất khả kháng xảy ra trong q trình thực
hiện hợp đồng.
b. Phịng ngừa:
- Khi soạn thảo hợp đồng cần có thỏa thuận rõ ràng về các trường hợp bất khả
kháng:
19
- Bất khả kháng có thể do hiện tượng thiên nhiên: Lũ, lụt, hỏa hoạn, động đất, sóng
thần ..
- Bất khả kháng có thể do hiện tượng xã hội: Chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình
cơng, cấm vận, thay đổi của chính phủ …
- Có thể đưa ra các sự kiện chính bản thân mình:,mất điện, hỏng máy…bên cung cấp
vật tư chậm trễ giao hàng là sự kiện bất khả kháng để miễn trách nhiệm.
Rủi ro về điều khoản bồi thường thiệt hại:
- Điều 302 Luật thương mại 2005: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi
thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. Có
ba điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường hợp đồng thương mại (Đ.303 Luật
TM) như sau:
+ Có hành vi vi phạm hợp đồng
+ Có thiệt hại thực tế xảy ra
+ Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Hình dưới đây là một mẫu về hợp đồng mua bán hàng hóa
20
21
III.
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA
_Thứ nhất, nhận thức pháp luật cho các doanh nghiệp trong ký kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa. Các doanh nghiệp cần phải thường xuyên cập nhật thông
tin pháp lý; xây dựng tổ chức pháp chế trong doanh nghiệp; sử dụng dịch vụ tư vấn
pháp luật một cách thường xuyên và có hiệu quả; lãnh đạo cán bộ doanh nghiệp có
kế hoạch định kỳ bồi dưỡng kiến thức về pháp luật hợp đồng phân phối hàng hóa.
Điều này sẽ giúp doanh nghiệp tránh được những rủi ro khơng đáng có khi giao kết
và thực hiện hợp đồng.
_ Thứ hai, thực hiện việc hỗ trợ thông tin từ cơ quan quản lý nhà nước về chuyên
môn cho doanh nghiệp trong ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Nhà
nước ta cần xây dựng một hệ thống thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước và các
doanh nghiệp. Các cơ quan chuyên môn như Sở Công thương, quản lý thương mại,
quản lý thị trường,... nên có trách nhiệm tư vấn cho các doanh nghiệp các thông tin
cần thiết khi doanh nghiệp yêu cầu để họ nắm rõ về hợp đồng phân phối hàng hóa
mà họ đang tiến hành ký kết và thực hiện. Bên cạnh đó, cần xây dựng và mở rộng
hình thức tìm hiểu pháp luật cho doanh nghiệp như tọa đàm, tư vấn, xây dựng trang
web riêng về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để các doanh nghiệp có thể cập
nhật thơng tin, trao đổi, bàn bạc và tìm hướng giải quyết cho những vấn đề bức xúc
trong quá trình thực thi pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa.
_Thứ ba Căn cứ theo Khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Sự kiện bất
khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và
không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng
cho phép.”Luật thương mại cũng có đề cập đến vấn đề miễn trách nhiệm vi phạm
hợp đồng trong trường hợp gặp sự kiện bất khả kháng. Do đó để đề phịng và kịp
thời tìm ra các biện pháp giải quyết, các bên nên thỏa thuận về sự kiện bất khả
kháng theo ý chí của các bên và liệt kê chi tiết để xác định thế nào là sự kiện bất khả
kháng. Điều này cũng giúp thuận tiện và có lợi khi có tranh chấp xảy ra.
22
KẾT LUẬN
Không thể phủ nhận rằng, các hợp đồng mua bán hàng hóa hiện này ngày càng
tăng nhanh, đi cùng với nhu cầu khác nhau của con người. Do đó, nhiều doanh
nghiệp khi tham gia giao dịch này luôn hướng đến bảo vệ quyền lợi của mình và
giảm thiểu tối đa rủi ro trong quá trình soạn thảo, ký kết hợp đồng. Để thực hiện
điều này, doanh nghiệp cần phải trang bị kiến thức về pháp luật hợp đồng và hiểu
được bản chất của quan hệ mua bán hàng hóa một cách đầy đủ, để có thể tối đa hóa
được các lợi ích của mình. Vì thế, một số vấn đề quan trọng mà các doanh nghiệp
cần phải lưu ý trong quá trình ký kết và soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hóa bao
gồm: hình thức, ngơn ngữ sử dụng, thẩm quyền ký kết và các điều khoản trọng yếu.
23
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />3. />
24