Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Thực trạng ô nhiễm biển việt nam và một số nguyên nhân gây ra thực trạng đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.7 KB, 16 trang )

Đề tài: “Thực trạng ô nhiễm biển Việt Nam và một số nguyên nhân gây ra thực
trạng đó”

MỤC LỤC
I.MỞ ĐẦU.......................................................................................................................... 1
II. NỘI DUNG..................................................................................................................... 2
II.1. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM................................................... 2
II.2. NGUYÊN NHÂN GÂY RA Ô NHIỄM BIỂN VIỆT NAM....................................... 7
II.2.1 Yếu tố tự nhiên.......................................................................................................... 7
II.2.2 Yếu tố con người....................................................................................................... 8
II.2.2.1 Sức ép dân số.......................................................................................................... 8
II.2.2.1.1 Dân số gia tăng và nghèo đói............................................................................... 8
II.2.2.1.2 Lối sống giản đơn và dân trí thấp........................................................................ 8
II.2.2.2 Sức ép về kinh tế.................................................................................................... 9
II.2.2.2.1 Du lịch tràn lan, nuôi trồng thuỷ sản bất hợp lý.................................................. 9
II.2.2.2.2 Ô nhiễm biển do dầu gia tăng.............................................................................. 9
II.2.2.3 Thể chế và chính sách cịn bất cập............................................................................
10
III.KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ...................................................................... 11
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 15


I.MỞ ĐẦU
Việt Nam có diện tích đất liền khoảng 330.000km 2 và
một vùng biển đặc quyền kinh tế khoảng trên 1.000.000km 2. Khu vực
bờ biển cũng như các đảo có vị trí địa lý rất trọng yếu đối với phát triển
và an ninh, quốc phịng. Trên biển có trên 3.000 đảo lớn nhỏ.các đảo
và quần đảo là điểm tựa vững chắc cho bố trí thế trận phát triển kinh tế
biển gắn với bảo vệ an ninh chủ quyền trên biển. Nhiều đảo có thể xây
dựng thành các trung tâm kinh tế đảo và dịch vụ cho các hoạt động
khai thác biển xa. Bờ biển nước ta kéo dài trên 3.260km, đây là những


tiền đề cho phép hoạch định một chiến lược biển, phù hợp với xu thế
phát triển của một quốc gia biển. Biển thực sự là phần lãnh thổ thiêng
liêng của Tổ quốc Việt Nam, là di sản thiên nhiên của dân tộc, là chỗ
dựa tinh thần và vật chất cho người Việt Nam hôm nay và mai sau.
Tuy nhiên do sức ép dân số, sức ép kinh tế và khả năng quản lý
tài nguyên kém hiệu quả dẫn tới hậu quả ô nhiễm môi trường biển và
đới bờ trở thành vấn đề báo động đỏ.
Nhận thấy tính bức thiết của vấn đề, chúng tôi thực hiện bài
tiểu luận với đề tài: “Thực trạng ô nhiễm biển Việt Nam và một số
nguyên nhân gây ra thực trạng đó”. Trong khi thực hiện cịn thiếu
sót, mong thầy cơ góp ý cho bài tiểu luận hoàn thiện hơn.


Chúng tôi xin chân thành cảm
ơn[2lnd1] !!!!

II. NỘI DUNG

II.1. HIỆN TRẠNG MƠI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM

Hiện nay, mơi trường biển nước ta đang có dấu hiệu bị ơ
nhiễm và suy thối. Mơi trường vùng nước ven bờ đã bị ơ nhiễm dầu,
kẽm, và chất thải sinh hoạt. Các chất rắn lơ lửng như Si, NO 3, NH4 và
PO4 cũng ở mức đáng lo ngại. Chất lượng trầm tích đáy biển ven bờnơi cư trú của nhiều loài thuỷ hải sản- cũng bị ơ nhiễm.
Hàm lượng hố chất bảo vệ thực vật chủng anđrin và enđrin
trong các mẫu sinh vật đáy ở các vùng cửa sơng ven biển phía bắc
đều cao hơn giới hạn cho phép. Đa dạng sinh học động vật đáy ở ven
biển miền bắc và thực vật nổi ở miền trung suy giảm rõ rệt.Lượng hoá
chất bảo vệ thực vật tồn lưu trong cơ thể các loài thân mềm hai mảnh
vỏ được xác định cao nhất là tại Sầm Sơn và cửa Ba Lạt (11,14- 11.83

mg/kg thịt ngao), tháp nhất là tại Trà Cổ (1,54 mg/kg).Các chất anđrin,


enđrin, đienđrin, đặc biệt là anđrin và enđrin có hầu hết ở các mẫu
phân tích, biến đổi từ 0,12 đến 3,11 mg/kg.
Hiện tượng thuỷ triều đỏ cũng đã xuất hiện ở nước ta từ
tháng sáu đến trung tuần tháng bảy âm lịch tại vùng biển nam trung
bộ, đặc biệt là tại Khánh Hồ, Ninh Thuận, Bình Thuận. Thuỷ triều đỏ
xuất hiện khá nhiều ở nam trung bộ. Hơn 30km bãi biển từ Cà Ná đến
Long Hương nhầy nhụa nhũng bột báng màu xám đen dày cả tắc, trộn
với xác chết của sinh vật tạo nên mùi hôi thối. Thiệt hại do thuỷ triều đỏ
gây ra rất lớn. Vùng biển ven bờ nước ta đã phát hiện được khoảng 816 loài vi tảo biển gây hại tiềm năng với mật độ hơn 2 x 104 tế bào/ lít.
Hiện tượng thuỷ triều đỏ xảy ra ở vùng biển Bình Thuận đã tiêu diệt
tôm, cua, cá, san hô, rong cỏ biển.
Theo số liệu thống kê cho thấy khoảng 70% ô nhiễm biển đại
dương có nguồn gốc từ đất liền, xuất phát từ chất xả thải của các
thành phố, thị xã, thị trấn, từ các ngành cơng nghiệp, xây dựng, hố
chất…trong đó đáng kể nhất và nguy hại nhất là các chất thải từ các
nhà máy thông qua hệ thống cống rãnh, xả thải ra biển và đại dương
một lượng lớn các chất bồi lắng, hố chất, kim loại, nhựa, cặn dầu và
thậm chí cả các chất phóng xạ.
Ơ nhiễm biển Đà Nẵng
Hàng năm, trên 100 con sông ở nước ta thải ra biển 880
km3 nước, 270-300 triệu tấn phù xa, kéo theo nhiều chất có thể gây ơ
nhiễm biển, như các chất hữu cơ, dinh dưỡng, kim loại nặng và nhiều
chất độc hại từ các khu dân cư tập trung, từ các khu công nghiệp và
đô thị, từ các khu nuôi trồng thuỷ sản ven biển và các vùng sản xuất
nông nghiệp. Đến năm 2010, dự tính lượng chất thải sẽ tăng rất lớn ở
các vùng nước ven bờ, trong đó dầu khoảng 35.160 tấn/1 ngày, nitơ



tổng số 26-52 tấn/ngày và tổng amoni 15-30 tấn/ngày.
Báo cáo hiện trạng môi trường đã chỉ ra rằng chất lượng môi
trường biển và vùng ven biển tiếp tục bị suy giảm. Nước biển của một
số khu vực có biểu hiện bị axit hoá do độ pH trong nước biển tầng mặt
biến đổi trong khoảng 6,3-8,2. Nước biển ven bờ có biểu hiện bị ô
nhiễm bởi chất hữu cơ, kẽm, một số chủng thuốc bảo vệ thực vật.
Hiện tượng thuỷ triều đỏ xuất hiện tại vùng biển nam trung bộ, đặc biệt
tại Khánh Hồ, Ninh Thuận, Bình Thuận làm chết các loại tôm cá đang
nuôi trồng tại vùng này. Chất lượng môi trường biển thay đổi dẫn đến
nơi cư trú tự nhiên của loài bị phá huỷ gây tổn thất lớn về đa dạng
vùng bờ.Có khoảng 85 lồi hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau và
trên 70 loài đã được đưa vào sách đỏ Việt Nam. Hiệu suất khai thác
hải sản giảm rõ rệt, thêm vào đó, tình trạng dùng các ngư cụ đánh bắt
có tính chất huỷ diệt diễn ra khá phổ biến như xung điện, chất nổ, đèn
cao áp quá công suất cho phép… làm cạn kiệt các nguồn lợi hải sản
ven bờ. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm dần về trữ lượng, sản
lượng và kích thước cá đánh bắt.
Trong các yếu tố làm ơ nhiễm mơi trường biển thì các chất
phóng xạ cũng đóng góp một vai trị đáng kể. Các vùng biển, đặc biệt
là nước biển tại các vùng lân cận các mỏ sa khống titan, trong điều
kiện mơi trường thủy địa hóa thuận lợi, các chất phóng xạ bị hịa tan
và di chuyển ra biển, gây ô nhiễm nước biển. Khi con người khai thác
khống sản, tài ngun thiên nhiên vơ hình dung đã tàn phá thiên
nhiên, làm mất cân bằng sinh thái, mất lớp phủ thực vật che chắn và
bảo vệ đất, làm cho vùng mỏ bị xói lở và bóc mịn, quặng bị phong hóa
phá hủy và phát tán đi các nơi, ảnh hưởng đến môi trường và sức
khỏe con người.Nước thải từ các khai trường, xưởng tuyển không
được xử lý, thu gom, để chảy tràn lan ra môi trường xung quanh. Các



bãi biển đều có địa hình dốc ra phía biển, càng làm cho các chất thải,
nước thải trôi xuống biển, đem theo các chất phóng xạ và các chất độc
hại khác làm ơ nhiễm mơi trường nước biển.
Ơ nhiễm mơi trường biển còn xảy ra ở các cảng. Các cảng
đều phải đối mặt với nước đục do liên quan đến hoạt động của tàu
thuyền ra vào cảng, nạo vét luồng lạch, đổ phế thải. Độ đục nước vùng
cảng Hải Phòng là 418-424mg/l, cảng Đà Nẵng 33-167mg/l. Nồng độ
dầu ở tất cả các cảng đều vượt mức cho phép 0,3mg/l(TCVN59431995), cảng Hải Phòng 0,42mg/l, cảng Cái Lân 0,6mg/l, cảng Vũng
Tàu 0,52mg/l, cảng Vietso Petro 7,57mg/l. Mặt dầu loang ngăn chặn
khơng khí hoà tan vào nước nên hàm lượng oxy trong nước thấp,
trung bình 3,3-10,9mg/l vào mùa khơ và 1,16-6,1mg/l vào mùa lũ, trong
khi đó nhu cầu oxy rất cao,cần tới 13,6-31mg/l. Nước thải công nghiệp
và nước thải sinh hoạt đổ ra biển chưa qua xử lý nên chỉ số vi trùng
học luôn ở mức cao. Ở một số cảng đáng báo động là hàm lượng thuỷ
ngân đã vượt ngưỡng cho phép,cảng Vũng Tàu vượt 3,1 lần, cảng
Nha Trang vượt 1,1 lần. Hiện nay, hàm lượng dầu trong nước biển của
Việt Nam nhìn chung đều vượt giới hạn tiêu chuẩn Việt Nam và vượt
rất xa tiêu chuẩn hiệp hội các nước Đông Nam Á. Đặc biệt có những
thời điểm vùng nước khu vực cảng Cái Lân có hàm lượng dầu đạt
mức 1,75mg/l, gấp 6 lần giới hạn cho phép, vịnh Hạ Long có 1/3 diện
tích biển hàm lượng dầu thường xun từ 1-1,73mg/l.
Môi trường biển bị ô nhiễm đã dẫn tới suy thối đa dạng sinh
học biển, điển hình là hệ sinh thái san hơ. Vùng biển Việt Nam có
khoảng 1.122 km2 rạn san hô, nếu hệ sinh thái này bị mất, biển nước
ta có nguy cơ sẽ trở thành "thủy mạc" khơng cịn tơm cá nữa. Đó là
thơng điệp mà các nhà môi trường và bảo tồn thiên nhiên nước ta đã
cảnh báo. Theo số liệu của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đến



nay có khoảng 20% rạn có độ phủ san hơ sống nghèo (độ phủ 0-25%),
60% thuộc loại thấp (26-50%), 17% cịn tốt (51-75%) và chỉ có 3% rất
tốt (trên 75%). Các rạn san hơ ở vùng biển Việt Nam có giá trị cực kỳ
quan trọng như điều hịa mơi trường biển, cung cấp dinh dưỡng trong
vùng biển thông qua các chu trình sinh địa hóa; đồng thời cịn là nơi
cư trú, sinh đẻ và ươm nuôi ấu trùng của nhiều lồi thủy sinh vật
khơng chỉ vùng bờ, mà cịn từ ngồi khơi vào theo mùa trong đó có
nhiều lồi đặc hải sản.
Nhưng một nghịch lý vẫn đang xảy ra với hệ sinh thái này.
Trước đây con người không bao giờ hại đến san hô nhưng nay nhu
cầu xây đá mỹ nghệ, hịn non bộ, trang trí nội ngoại thất ngày càng
nhiều nên tình trạng khai thác, vận chuyển, bn bán san hô ở các địa
phương ven biển đang diễn ra rất phức tạp. Bờ Đông Nam của đảo
Cồn Cỏ từng bị các đối tượng lặn xuống và dùng cưa để khai thác san
hô đen đem bán. Nhiều khu vực biển miền Trung, ngư dân đi lấy san
hô đã thành một loại nghề sinh sống. Vì lợi nhuận, khơng ít người đã
làm ảnh hưởng đến sự hình thành tự nhiên của dải san hô gây ảnh
hưởng đến môi trường sinh thái. Những rạn san hô mất đi, đồng nghĩa
với sự cạn kiệt các nguồn lợi thủy sản.
Viện Hải Dương học Việt Nam đã từng cảnh báo: "Chưa
bao giờ nguồn san hô nước ta lại đứng trước thách thức sống còn như
hiện nay. Mỗi năm, mất hơn 50 tấn san hô chưa kể mất san hơ đen ở
Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ninh, Hải Phịng, theo đà này 20 năm
nữa san hơ khơng cịn trong vùng biển Việt Nam".


II.2. NGUYÊN NHÂN GÂY RA Ô NHIỄM BIỂN VIỆT NAM
II.2.1 Yếu tố tự nhiên
Do các loại vi sinh vật biển, vi tảo biển gây hại ngày một gia
tăng về số lượng, tham gia vào hiện tượng thuỷ triều đỏ, làm suy giảm

số lượng các sinh vật biển có lợi.
Các hoạt động địa chất như núi lửa, bão… làm chết hàng loạt
sinh vật biển, xác của chúng không được xử lý đã gây ơ nhiễm vùng
biển đới bờ.
Ngồi ra, sự đứt gãy của vỏ trái đất làm rò rỉ những mỏ dàu ở
đáy đại dương cũng đã góp phần gây ra tình trạng ơ nhiễm biển.
II.2.2 Yếu tố con người
II.2.2.1 Sức ép dân số
II.2.2.1.1 Dân số gia tăng và nghèo đói
Biển và vùng bờ là nơi giàu có và đa dạng các loại hình tài
nguyên, cũng như chứa đựng tiềm năng phát triển kinh tế đa dạng. Bởi
vậy, đây cũng là nơi tập trung sôi động các hoạt động phất triển của
con người: trên 50% số đo thị lớn, gần 60% dân số tính theo đơn vị
cấp tỉnh, phần lớn các khu công nghiệp và khu chế xuất, các vùng nuôi
thuỷ sản, các hoạt động cảng biển – hàng hải và du lịch sẽ được xây
dựng ở đây đến năm 2010. Tỷ lệ tăng dân số ở vùng này cũng thường
cao hơn trung bình cả nước. Đi kèm các hoạt động trên là sụ gia tăng
di dân tự do, tăng nhu cầu sử dụng tài ngun thiên nhiên và hình
thành thói quen tiêu thụ tài nguyên lãng phí. Kết quả đã gây sức ép rất


lớn đến môi trường đô thị, khu dân cư ven biển, làm suy giảm và suy
thoái tài nguyên biển và vùng ven bờ. Trong khi vùng biển gần bờ
nước ta cịn rất ít tơm cá, thì cuộc sống của khoảng 600.000 ngư dân
và gia đình họ vẫn cần có cá hằng ngày và bản năng tồn tại vẫn buộc
họ phải khai thác nhiều tôm cá hơn nên nguồn lợi từ biển ngày càng
cạn kiệt.
II.2.2.1.2 Lối sống giản đơn và dân trí thấp
Khác với trong đất liền, cơ cấu dân cư ven biển từ nhiều nguồn,
họ đến từ tứ xứ, thậm trí có một bộ phận dân cư ngồi đất Việt. Họ vốn

là những người nghèo, xa quê đến vùng ven biển hoặc các đảo nước
ta để sinh sống. Họ tụ tập thành các “vạn chài”, đối mặt hàng ngày với
tính khốc liệt của biển cả, sống với sông nước và gắn liền cuộc sống
với con thuyền, nên tư duy người vạn chài hết sức giản đơn, khái niệm
bảo vệ nguồn lợi và mơi trường biển dường như vẫn cịn xa vời với họ.
Tập quán và phong tục sống còn lạc hậu, học vấn thấp do khơng có
điều kiện học tập. Cũng vì thế mà nhận thức về mơi trường và tài
nguyên biển của đại bộ phận dân cư ở đây vẫn còn thấp kém. Hành vi
và cách ứng xử của họ với các hoạt động bảo vệ môi trường và tài
nguyên rất hạn chế, chưa thành thói quen tự giác.
II.2.2.2 Sức ép về kinh tế
II.2.2.2.1 Du lịch tràn lan, nuôi trồng thuỷ sản bất hợp lý
Theo điều tra của Viện Hải Dương học, một trong những nguyên
nhân cơ bản dẫn tới tình trạng ơ nhiễm mơt trường ven biển là hiện
tượng ni thuỷ sản tràn lan, khơng có quy hoạch. Tại các tỉnh từ
Quảng Ninh đến Quảng Bình, trên 37000ha đã được khai thác đưa
vào nuôi trồng thuỷ sản (chiếm 30-35% diện tích nước mặn lợ). Gần


đây phần lớn cơ sở đã đi vào nuôi trên quy mô công nghiệp dẫn tới
các nơi cư trú sinh vật, bãi đẻ, bãi giống bị huỷ diệt, dịch bệnh xuất
hiện tràn lan…Hơn nữa, tình trạng ơ nhiễm mơi trường cịn do các địa
phương khai thác, sử dụng khơng hợp lý các vùng đất cát ven biển
dẫn tới việc thiếu nước ngọt, xói lở, sa bồi bờ biển với mức độ ngày
càng nghiêm trọng. Việc khai thác bằng đánh mìn, sử dụng hố chất
độc hại làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn lợi thuỷ sản và gây hậu quả
nặng nề cho các vùng sinh thái biển. Các hoạt động du lịch có ảnh
hưởng khơng nhỏ đến mơi trường sinh thái, cảnh quan tự nhiên của
biển. Điển hình là vườn quốc gia Cát Bà với 5.400ha mặt nước, từ một
hòn đảo khá đẹp và trong lành, Cát bà đã biến thành một hòn đảo “tạp”

kể từ khi được đưa vào khai thác du lịch và nuôi trồng thuỷ sản.
Những khu du lịch, khu nuôi cá lồng bè, khu đánh bắt cá…Tất cả đều
được quy hoạch “bám” ra mặt biển. Theo thống kê, mỗi ngày có hang
nghìn tấn rác được đổ trực tiếp ra biển.
II.2.2.2.2 Ô nhiễm biển do dầu gia tăng.
Ô nhiễm biển do tràn dầu
Một nguyên nhân gây ô nhiễm biển nữa là tràn dầu. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế lớn trong những năm gần đây đã làm gia tăng rất mạnh
lượng tiêu thụ xăng dầu. Lợi ích kinh tế dẫn đến tình trạng khai thác
dầu quá mức. Hậu quả là một lượng dầu rất lớn bị rị rỉ ra mơi trường
biển do hoạt động của các tàu và do các sự cố hư hỏng hay đắm tàu
trở dầu, do sự cố tại lỗ khoan thăm dò và dàn khoan khai thác dầu.
Đáng chú ý là các vụ tràn dầu nghiêm trọng những năm gần đây có xu
hướng tăng, gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển, đặc biệt
là vùng ni trồng thuỷ sản. Bên cạnh đó, vùng biển nước ta có
khoảng 340 giếng khoan thăm dị và khai thác dầu khí, ngồi việc thải


nước lẫn dầu với khối lượng lớn. Trung bình mỗi năm hoạt động này
còn phát sinh khoảng 5600 tấn rác thải dầu khí, trong đó có 20 đến
30% là chất thải rắn nguy hại cịn chưa có bãi chứa và nơi xử lý.
II.2.2.3 Thể chế và chính sách cịn bất cập.
Biển và vùng bờ biển nước ta là nơi tập trung các hoạt động kinh
tế khác nhau và vẫn chủ yếu được quản lý theo ngành. Các ngành
thường chú trọng nhiều hơn đến mục tiêu phát triển kinh tế, các mục
tiêu xã hội và mơi trường ít được ưu tiên, chỉ chú ý đến lợi ích ngành
mình. Kết quả là tính tồn vẹn và tính lien kết của các hệ thống tự
nhiên vùng bờ bị chia cắt, mâu thuẫn sử dụng lợi ích tài nguyên ngày
càng tăng, ảnh hưởng đến tính bền vững của hoạt động phát triển.
Các cơ quan quản lý biển còn chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ

trong khi có những mảng trống bị bỏ ngỏ. Thiếu sự phối hợp giữa các
cơ quan quản lý, cơ quan khoa học và các tổ chức phi chính phủ trong
việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển, đặc biệt vùng ven bờ. Bên
cạnh đó, các chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường biển của
Việt Nam cịn chung chung, thiếu thực tế, gây khó khăn cho việc tổ
chức thực hiện. Cho đến nay quản lý môt trường biển, ven biển và hải
đảo vẫn được rập khuôn theo cách tiếp cân của ngăn ngừa và kiểm
sốt ơ nhiễm, chưa tính đến đặc điểm về tính chất xuyên biên giới, đa
ngành, đa mục đích sử dụng cho nên hiệu qủa quản lý yếu kém và bộc
lộ nhiều thiếu sót, bất cập. Một nguyên nhân cũng cần phải kẻ đến là
việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vưc bảo vệ môi trường cũng như việc
tham gia ký kết và thực thi các điều ước quốc tế về bảo vệ mơi trường
biển của chúng ta cịn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa thực sự được quan
tâm, chú trọng.
III.KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.


Biển là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá nhưng thực trạng ô nhiễm
biển Việt Nam đã và đang trở thành vấn đề báo động đỏ đối với toàn xã
hội , nguyên nhân chính là do những hoạt động của con người.
Qua bài tiểu luận này,đã giúp chúng ta hiểu được những hành động
của con người dù là vơ tình hay cố ý cũng một gây ra tình trạng ơ nhiễm
biển, gây suy thoái đa dạng sinh học biển và ảnh hưởng đến sức khoẻ
con người. Từ đó ý thức được việc bảo vệ mơi trường biển nói riêng và
mơi trường nói chung, tìm ra những giải pháp ngăn ngừa và khắc phục
tình trạng ơ nhiễm.
Sau đây là một số kiến nghị:
- Việt Nam cần tích cực tham gia hơn nữa các điều ước ở phạm vi thế
giới và khu vực về vấn đề bảo vệ môi trường biển. Các điều ước quốc
tế ở lĩnh vực này mà Việt Nam đã tham gia bao gồm:

Công ước 1982 của Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNLOSC) là bộ
luật hoàn chỉnh nhất về biển, dành phần XII quy định việc bảo vệ và gìn
giữ mơi trường biển gồm có 11 mục và 46 điều khoản (từ điều 192 đến
237). Việc tham gia vào Công ước này tạo cơ sở pháp lý giúp chúng ta
bảo vệ và gìn giữ mơi trường biển của mình đồng thời đẩy mạnh hợp
tác quốc tế để ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm biển chung. Điểm nổi bật
của công ước là xác định rõ ràng quyền hạn và nghĩa vụ của quốc gia
ven biển trong việc BVMTB khỏi ô nhiễm.
Công ước quốc tế ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78): ra đời
năm 1973 , đây là bộ luật chuyên ngành hàng hải của thế giới ,đã được
thông qua tại hội nghị quốc tế về ô nhiễm biển. Công ước đưa ra những
quy định nhằm ngăn chặn ô nhiễm gây ra do tai nạn hoặc do vận
chuyển hàng hoá dầu mỏ, nguy hiểm,độc hại bằng tàu,cũng như do


nước,rác và khí thải ra từ tàu.
Cơng ước BALSE về kiểm soát vận chuyển xuyên biên giới các chất độc
hại và việc loại bỏ chúng năm 1989
Công ước về đa dạng sinh học năm 1992
Công ước RAMSA về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc
tế ,đặc biệt như là nơi cư trú của các loài chim nước năm 1982 v.v…
Ngồi ra, Nhà nước và Chính phủ cần thực hiện các chủ trương như:
-Tăng cường việc thực hiện bảo vệ môi trường hiện nay ; cần lưu
ý tới việc thực thi luật đối với dải ven biển ở cấp tỉnh và huyện.
-Tiến hành kiểm soát trên phạm vi tồn vùng biển hiện tượng thải dầu
cặn và có kế hoạch,biện pháp ứng phó sự cố tràn dầu;xử lý, phịng ngừa ơ
nhiễm dầu có nguồn gốc đất liền.Cụ thể như việc xử lý ô nhiễm biển do cặn dầu
trên biển ở Hải Phịng: Bình qn hằng năm có tới hơn 1.500 lượt tàu vận tải
biển cập cảng Hải Phòng. Lượng dầu cặn qua sử dụng trong hành trình vận tải
của mỗi tàu khi đến cảng từ 5 m 3 đến 10m3. Như vậy, hàng nghìn m3 dầu cặn

qua sử dụng đã xả tự nhiên theo nhiều cách xuống biển. Để chấn chỉnh tình
trạng gây ơ nhiễm mơi trường vùng cửa biển, đầu tháng 3, UBND thành phố
Hải Phịng đã có quyết định giao nhiệm vụ thu gom, quản lý và xử lý nguồn dầu
cặn thải ra của các tàu vận tải biển vào cảng Hải Phịng cho Cơng ty Mơi trường
thành phố. Tuy nhiên, để việc bảo vệ môi trường biển cảng Hải Phịng có hiệu
quả, theo ơng Trần Trung Dũng, Trưởng trung tâm Quản lý rác công nghiệp và
vệ sinh môi trường biển thuộc Công ty Môi trường thành phố, cần phải có các
chế tài xử phạt các chủ tàu và lực lượng khai thác dầu cặn trái phép trên biển,
đồng thời đầu tư phương tiện, điều kiện kỹ thuật cho Trung tâm đủ mạnh mới
chấm dứt được tình trạng bức xúc này.
-Việc quản lý nguồn nước ở các hệ thống sơng ngịi cũng rất quan
trọng,bởi vì các nhánh sông phần lớn đều đổ ra biển. Với sự ra đời của nhà máy
sản xuất chất Zeolite đầu tiên tại Việt Nam, bài tốn xử lý ơ nhiễm nước biển do
nuôi tôm trên cát tại những địa điểm nghỉ mát nổi tiếng ở miền trung đã có lời
giải. Đây là kết quả cơng trình nghiên cứu đoạt nhiều giải thưởng trong nước và
quốc tế của một nhà khoa học lăn lộn nhiều năm với các dự án thanh niên: TS


Tạ Ngọc Đôn, ĐH Bách khoa Hà Nội.
-Đánh giá tác động môi trường của các dự án xây dựng ở ven biển và biển
(cảng,khu công nghiệp,khai thác biển…) Cụ thể như ở Đồng Nai ,theo báo cáo
của Sở TNMT, thì 11 KCN của tỉnh Đồng Nai và tỉnh BRVT với hàng trăm nhà
máy, xí nghiệp đang hoạt động mỗi ngày thải ra sông trên 33.400m3 nước thải
chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn. Ông Ao Văn Thinh yêu cầu sở
ngành liên quan tăng cường kiểm tra, xử lý kiên quyết những doanh nghiệp gây
ô nhiễm môi trường; đôn đốc các KCN đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà máy
nước thải tập trung trong thời gian từ nay đến cuối năm.Hết hạn này, nếu KCN
nào có doanh nghiệp xả thải ra mơi trường mà chưa có nhà máy xử lý nước thải
tập trung sẽ phải ngừng hoạt động.UBND tỉnh Đồng Nai cho hay, sẽ đề xuất
với bộ ngành T.Ư đầu tư nạo vét, đào mới đoạn kênh nối sông Thị Vải với sông

Đồng Môn thông qua kênh Bà Ký tạo sự thông thương luồng lạch để làm tăng
khả năng "tự làm sạch" của sông Thị Vải, đồng thời tạo thêm một tuyến vận tải
thuỷ cho các KCN trên địa bàn.

Nguồn nước bị ô nhiếm ở sông Tô Lịch Hà Nội
-Đào tạo,giáo dục,nâng cao nhận thức cộng đồng và của cấp chính quyền địa
phương(huyện,xã/phường)
-Tận dụng hiệu quả sự giúp đỡ,trợ giúp ,hợp tác quốc tế tại Việt
Nam cũng như nước ngoài.Ngày 6/6 - Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường Việt Nam Mai Ái Trực và Bộ trưởng Bộ Sinh thái, Phát triển và
Quy hoạch bền vững Cộng hòa Pháp Alain Juppé đã ký Bản ghi nhớ


hợp tác giữa hai Chính phủ Việt Nam và Pháp về lĩnh vực tài nguyên
nước ở Việt Nam. Đây là một trong những lĩnh vực ưu tiên trong
chương trình hợp tác phát triển giữa Việt Nam và Pháp. Pháp cam kết
tăng cường hợp tác về xây dựng thể chế và tăng cường năng lực quản
lý tài nguyên nước. tỉnh Fukuoka – Nhật Bản sẽ hỗ trợ thành phố Hà
Nội xây dựng các chính sách và nghiên cứu làm sạch nguồn nước bị ô
nhiễm tại các sông hồ của thành phố và quản lý chất thải rắn. Hai bên
sẽ tích cực trao đổi trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, đặc biệt nhấn
mạnh việc phát triển nguồn nhân lực và trao đổi công nghệ.

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.www.canh sat.gov.vn
2.www.yeumoitruong.com
3.www. thiennhien.vn
4 .www. thuvienkhoahoc.com
5.www.laodong.com



6.www.congnghehoahoc.org
7.www. khoa hoc.com
8.www. mcdvietnam.org
THƠNG TIN HỎI ĐÁP:
-------------------------Trong q trình làm bài tiểu luận, bạn muốn tìm kiếm thêm nhiều tài liệu bài mẫu
tiểu luận cập nhật mới của Trung tâm Best4Team
Liên hệ dịch vụ viết tiểu luận thuê
Hoặc Gọi SĐT Zalo: 091.552.1220 hoặc email: để hỗ
trợ ngay nhé!



×