HC THUYT HèNH THI KINH T - X HI V VIC NHN THC THC
HIN Nể VIT NAM.
Lời mở đầu
Từ khi bắt đầu có nhận thức con ngời đã có xu hớng tìm hiểu chính
mình và thế giới xung quanh. Một trong những vấn đề đợc đặt ra nhiều
nhất đó là xã hội. Tại sao lại phải có xã hội, xã hội hình thành từ đâu, có
mang tính giai cấp hay không?... Để trả lời những câu hỏi này trong các
lĩnh vực có rất nhiều giả thuyết khác nhau, đặc biệt là trong triết học -
khoa học về những cái chung nhất. Các nhà duy tâm cho rằng xã hội bắt
nguồn từ ý thức, rằng xã hội là do những ngời trong nó kết hợp với nhau
để duy trì những điều kiện chung nhằm tồn tại và phát triển. Ngợc lại các
nhà duy vật thì lại cho rằng xã hội có nguồn gốc vật chất. Tiêu biểu trong
số những quan điểm này là học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của
Mác. Đây là học thuyết dựa trên tính khách quan và duy vật lịch sử xây
dựng nên. Việc nghiên cứu nó đóng vai trò rất quan trọng trong công
cuộc xây dựng đất nớc, vì muốn thực hiện tốt một điều gì phải hiểu đợc
bản chất của nó, hơn nữa con đờng mà chúng ta theo là con đờng đi lên
CNXH, chính vì vậy mà việc nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội lại
quan trọng đến nh vậy.
Đó là lý do vì sao em chọn đề tài này.
Tuy nhiờn, do nhn thc cũn cha y , bi lun cũn nhiu thiu sút,
em mong c cụ gúp ý.
1
NỘI DUNG
A- HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI.
Xã hội là một phạm trù có tính lịch sử. Trong đó, các mặt của đời sống xã
hội thống nhất, biện chứng với nhau, tạo thành các xã hội cụ thể, tồn tại
trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Và xã hội cụ thể đó được chủ nghĩa
duy vật khái quát thành phạm trù hình thái kinh tế - xã hội. Vậy hình thái
kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh,
có cấu trúc phức tạp mà các mặt cơ bản của nó có vị trí riêng tác động qua
lại và thống nhất với nhau.
Mặt cơ bản đầu tiên của hình thái kinh tế - xã hội là lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong
quá trình sản xuất, bao gồm người lao động với kĩ năng lao động của họ và
tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong đó, người lao động với
sức mạnh và kĩ năng của mình đã sử dụng tư liệu lao động để tác động vào
đối tượng lao động, để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Cùng với quá
trình lao động sản xuất thì khả năng lao động của con người ngày càng được
tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng được phát triển. Điều
đó dẫn đến công cụ lao động sản xuất cũng không ngừng được cải tiến và
hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thi1ện không ngừng này đã làm biến
đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Và đây chính là nguyên nhân sâu xa của mọi
biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh
2
tế trong lịch sử. Vậy lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kĩ thuật của mỗi
hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng
sản xuất khác nhau, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình
thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
Song song với lực lượng sản xuất là sự tồn tại của quan hệ sản xuất. Đây
là quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác, là
một trong hai mặt của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất là quan hệ
giữa người với người trong quá trình sản xuất, gồm quan hệ về sở hữu đối
với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong
phân phối sản phẩm sản xuất ra. Ba yếu tố trên của quan hệ sản xuất thống
nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự
vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản
xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Tuy
nhiên, quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của
sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất., đến tổ
chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và
công nghệ…, do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động
lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Như trên phân tích, mỗi một hình thái kinh tế - xã hội thì có một lực
lượng sản xuất , dẫn đến mỗi hình thái kinh tế - xã hội cũng có kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng của nó. Mặc dù quan hệ sản xuất do con người tạo ra,
nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quy trình sản xuất , không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người nên đây là tiêu chuẩn khách
quan để phân biệt các chế độ xã hội. Và các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở
hạ tầng của xã hội.
3
Kiến trúc thượng tầng là mặt cơ bản thứ ba trong hình thái kinh tế - xã
hội. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… cùng với những thiết chế xã hội
tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội… được
hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định bao gồm quan hệ sản xuất thống
trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ với quan hệ sản xuất mầm mống
của xã hội tương lai. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm
riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Cơ sỏ hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất
biện chứng với nhau, trong đó cơ sỏ hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với
kiến trúc thượng tầng. Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc
thượng tầng tương ứng với nó, và cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn,
kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi. Như vậy, kiến trúc thượng tầng được
hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, đồng thời là công cụ để
bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Ngoài các mặt nêu trên, các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về
gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó gắn bó chặt chẽ
với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối
tiếp nhau. Trên cơ sở nghiên cứu các quy luật vận động phát triển khách
quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận: “ Sự phát triển của những hình
thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”. Thật vậy, hình thái
kinh tế - xã hội là một hệ thống mà trong đó các mặt cơ bản như lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng, cơ sở hạ tầng… không
ngừng tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành các quy luật vận động, phát triển
4
khách quan của xã hội. Chính sự hoạt động của các quy luật khách quan đó
mà hình thái kinh tế - xã hội vận động từ thấp đến cao.
Sự vận động phát triển của xã hội bắt đầu từ lực lượng sản xuất. Chính sự
phát triển lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự thay đổi trong quan hệ sản xuất,
kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi. Lần lượt như vậy, hình thái
kinh tế - xã hội cũ sẽ được thay thế bởi hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ
hơn, và quá trình đó diễn ra một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người. Tuy nhiên, sự phát triển đó không chỉ đơn
thuần phụ thuộc vào các quy luật khách quan, mà chúng còn bị chi phối bởi
các điều kiện về tự nhiên, chính trị, truyền thống văn hoá…Do đó, không
phải tất cả các dân tộc đều trải qua lần lượt các hình thái kinh tế - xã hội từ
thấp đến cao, mà có thể bỏ qua một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy
nhiên việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo quy luật khách quan, theo một quá
trình lịch sử - tự nhiên.
Tóm lại, học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra rằng sản xuất vật
chất là cơ sở của đời sống xã hội và phương thức sản xuất giữ vai trò quyết
định các mặt của đời sống xã hội. Từ đó, để giải thích các hiện tượng trong
đời sống xã hội thì không thể xuất phát từ ý thức tư tưởng, ý chí chủ quan
của con người mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất. Học thuyết cũng
cho thấy xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên giữa các cá
nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ, tác
động qua lại với nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản. Muốn
nhận thức đúng đời sống xã hội phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của
đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.. Đặc biệt, phải đi sâu
phân tích về quan hệ sản xuất thì mới hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã
hội. Ngoài ra, vì hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
nên cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu
5