Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

TÓM TẮT CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU THỰC HÀNH GIÁO DỤC SONG NGỮ TRÊN CƠ SỞ TIẾNG MẸ ĐẺ: HƯỚNG TỚI NỀN GIÁO DỤC CÓ CHẤT LƯỢNG VÀ BÌNH ĐẲNG. pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 8 trang )

TÓM TẮT CHƯƠNG TRÌNH
NGHIÊN CỨU THỰC HÀNH GIÁO DỤC SONG NGỮ TRÊN CƠ SỞ TIẾNG MẸ ĐẺ:
HƯỚNG TỚI NỀN GIÁO DỤC CÓ CHẤT LƯỢNG VÀ BÌNH ĐẲNG.
Tại Việt Nam, giáo dục phổ thông tiếp tục được
cải thiện thông qua việc nâng cao các chỉ số tiếp
cận, đi học đều và hoàn thành bậc học. Tuy nhiên,
sự chênh lệch về kết quả học tập vẫn còn tồn tại
với một vài nhóm có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt
trong số những người nghèo, vùng sâu vùng xa và
khá phổ biến trong nhóm người dân tộc thiểu số
(DTTS). Nhóm DTTS chiếm khoảng 13% tổng dân
số. Tỷ lệ biết chữ của người DTTS là 90% trong
khi đó tỷ lệ này của người Kinh là 96%
1
.
Bảng 1 cũng cho thấy sự khác biệt nổi bật trong
kết quả học tập giữa học sinh người Kinh và học
sinh DTTS ở Việt Nam trong môn Toán. Chính phủ
đang tập trung vào việc đảm bảo cung cấp nền
giáo dục có chất lượng và phù hợp với học sinh.
Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức giảng dạy trong
nhà trường nên học sinh DTTS phải đối mặt với
một trong những thách thức lớn là rào cản ngôn
ngữ. Điều này hạn chế việc tham gia đầy đủ của
học sinh dân tộc trong quá trình học tập.
Các bằng chứng quốc tế khẳng định Giáo dục
song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ (GDSNTCSTMĐ)
là phương pháp tiếp cận phù hợp hỗ trợ giáo dục
dân tộc thiểu số. Theo Ngân hàng Thế giới, học
sinh được học tập bằng ngôn ngữ đầu tiên của
mình (tiếng mẹ đẻ) sẽ đạt được kết quả học tập


tốt hơn. Với ngành giáo dục, phương pháp này sẽ
tăng cường khả năng tiếp cận nền giáo dục có
chất lượng và bình đẳng, cải thiện kết quả học
1. BỐI CẢNH
Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu
số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình
nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc…
Điều 7, Luật Giáo dục của Việt Nam, 2005


1
Báo cáo Việt Nam (2010), Báo cáo Quốc gia về việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Cập nhật 03/2011
Bảng 1: Khoảng cách về kết quả học tập của học sinh lớp 5 ở môn Toán và tiếng Việt tính theo phần trăm

Tiếng Việt * Toán **
Kinh Dân tộc Kinh Dân tộc
Đạt chuẩn 75.60 48.42 79.12 50.31
Gần đạt chuẩn 10.17 14.84 11.57 20.01
Dưới chuẩn 13.95 36.52 8.98 29.21
*Môn tiếng Việt: 23-40 = đạt chuẩn; 19-23 gần đạt chuẩn, 0-19 dưới chuẩn
**Môn Toán: 25-40 = đạt chuẩn; 20-25 gần đạt chuẩn; 0-20 dưới chuẩn.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008)-Nghiên cứu kết quả học tập lớp 5 của học sinh môn Toán và tiếng Việt, năm học 2006-2007.
Trang 1
TÓM TẮT CHƯƠNG TRÌNH: NGHIÊN CỨU THỰC HÀNH GIÁO DỤC SONG NGỮ TRÊN CƠ SỞ TIẾNG MẸ ĐẺ
2.1. Mục tiêu chung và kết quả mong đợi:
Mục tiêu:
• Triển khai và khẳng định tính khả thi của thiết
kế giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ

ở mầm non
4
và tiểu học;
• Góp phần xây dựng hoàn thiện và triển khai
chính sách, chia sẻ kinh nghiệm dạy và học
tốt cho học sinh dân tộc, nhằm thúc đẩy việc
sử dụng tiếng dân tộc như một giải pháp tăng
cường khả năng tiếp cận tới nền giáo dục cơ
bản có chất lượng và bình đẳng cũng như các
dịch vụ xã hội khác.
Nghiên cứu thực hành GDSNTCSTMĐ hướng
tới những kết quả sau:
• Xây dựng thiết kế nghiên cứu chi tiết bao gồm
phương pháp và đánh giá kết quả học tập của
học sinh DTTS;
• Các nhà hoạch định chính sách, quản lý giáo
dục ở tất cả các cấp, giáo viên, hiệu trưởng,
học sinh và cộng đồng hiểu, ủng hộ và hỗ trợ
GDSNTCSTMĐ;
• Xây dựng tài liệu dạy và học, tài liệu tham
khảo, tài liệu truyền thông bằng tiếng dân tộc;
• Thực hiện chương trình bồi dưỡng cho giáo
viên thông qua bồi dưỡng chuyên môn thường
xuyên và hỗ trợ đào tạo chính quy;
• Các nhà quản lý giáo dục, giáo viên, trợ
giảng và thực tập sinh tại địa bàn Nghiên cứu
sẽ hiểu và biết cách áp dụng phương pháp
GDSNTCSTMĐ vào việc quản lý nhà trường
và giảng dạy trên lớp;
• Thực hiện thành công mô hình

GDSNTCSTMĐ tại các trường mầm non và
tiểu học đã được lựa chọn và đánh giá được
kết quả học tập của học sinh;
• Xây dựng một chính sách bền vững và phù
hợp về giáo dục song ngữ và sử dụng tiếng
DTTS.
2. NGHIÊN CỨU THỰC HÀNH GDSNTCSTMĐ
Phương pháp tiếp cận GDSNTCSTMĐ:
• Từ mầm non đến lớp 1 và lớp 2: tiếng
DTTS (tiếng mẹ đẻ của học sinh) được
dùng làm ngôn ngữ giảng dạy.
• Từ lớp 3 đến lớp 5: tiếng Việt sẽ được
đưa vào cùng với tiếng mẹ đẻ làm ngôn
ngữ giảng dạy.
• Hết lớp 5, học sinh sẽ có khả năng nghe,
nói, đọc, viết bằng cả hai thứ tiếng, vượt
qua rào cản về ngôn ngữ.
tập, góp phần giảm tỷ lệ học sinh lưu ban và bỏ
học, mang lại lợi ích về văn hóa xã hội và chi phí
trong ngành giáo dục sẽ giảm đi một cách đáng kể.
Việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ đảm bảo kiến thức,
kinh nghiệm học sinh mang đến trường được sử
dụng làm cơ sở cho việc tiếp tục học tập tiếp theo
2
.
Việc áp dụng chương trình GDSNTCSTMĐ đối với
học sinh DTTS là giải pháp từng bước khắc phục
khoảng cách trong kết quả giáo dục giữa miền núi,
vùng DTTS với miền xuôi, vùng phát triển; đồng
thời, là phương thức đảm bảo nền giáo dục có chất

lượng, bình đẳng và hòa nhập cho tất cả mọi người.
Để hỗ trợ học sinh DTTS ở Việt Nam được tiếp cận
với cơ hội học tập có chất lượng, với sự hỗ trợ của
UNICEF
3
từ năm 2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ
GD&ĐT) đã và đang triển khai Nghiên cứu thực
hành GDSNTCSTMĐ tại ba tỉnh - Lào Cai, Gia Lai
và Trà Vinh - với ba ngôn ngữ DTTS Mông, Jrai và
Khmer. Hiện nay đang là năm thứ 3 triển khai thực
hiện Nghiên cứu này.
2
Ngân hàng Thế giới (2005), Bằng Ngôn ngữ của mình Giáo dục cho mọi người.
3
Biên bản thỏa thuận đã được ký giữa UNICEF và Bộ GD&ĐT vào tháng 7 năm 2007 về Nghiên cứu Thực hành GDSNDTCSTMĐ
4
Nghiên cứu thực hành GDSNTCSTMĐ bắt đầu được triển khai vào năm cuối của lớp mẫu giáo 5 tuổi. Tính đến tháng 5 năm 2010, nghiên cứu
này được tiến hành ở cả hai lứa học sinh mẫu giáo.
Trang 2
TÓM TẮT CHƯƠNG TRÌNH: NGHIÊN CỨU THỰC HÀNH GIÁO DỤC SONG NGỮ TRÊN CƠ SỞ TIẾNG MẸ ĐẺ
Trang 3
3.1 Những kết quả chung đạt được trong
giai đoạn 2008-2010 bao gồm:
• Xây dựng chương trình song ngữ cho mẫu
giáo 5 tuổi ở bậc mầm non và chương trình
song ngữ cấp tiểu học (lớp 1 đến lớp 5) với
sự tham gia của các chuyên gia giáo dục và trí
thức địa phương.
• Xây dựng và in tài liệu dạy/học mầm non, lớp
1 và lớp 2 bằng cả ba ngôn ngữ Mông, Jrai và

Khmer.
• Tập huấn cho 163 giáo viên mầm non, tiểu
học và cán bộ quản lý giáo dục của 3 tỉnh về
đọc, viết tiếng Mẹ đẻ.
• Thường xuyên tổ chức các hội thảo, tập huấn
cho 149 giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục
nhằm nâng cao nhận thức về phương pháp
GDSNTCSTMĐ bao gồm bồi dưỡng thường
xuyên về phương pháp dạy học song ngữ,
phương pháp dạy học tích cực và sử dụng
nguyên vật liệu địa phương để tự làm đồ dùng
dạy học.
• Để đảm bảo việc triển khai Nghiên cứu một
cách hiệu quả, 149 giáo viên và cán bộ quản
lý giáo dục từ trung ương, tỉnh, huyện của
ngành giáo dục được tập huấn đào tạo về
phương pháp, các nguyên tắc của Nghiên cứu
thực hành về GDSNTCSTMĐ.
Tỉnh Lào Cai với nhóm dân tộc Mông
• 5 lớp tại 3 trường mầm non
• 5 lớp tại 3 trường tiểu học
Tổng số hai nhóm: 183 học sinh
Tỉnh Gia Lai với nhóm dân tộc Jrai
• 4 lớp tại 2 trường mầm non
• 4 lớp tại 3 trường tiểu học
Tổng số hai nhóm: 175 học sinh
Tỉnh Trà Vinh với dân tộc Khmer
• 4 lớp tại 2 trường mầm non
• 5 lớp tại 2 trường tiểu học
Tổng số hai nhóm: 178 học sinh

3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG GIAI ĐOẠN 2008-2010:
2.2. Địa bàn:
Hai lứa học sinh tham gia vào Nghiên cứu
thực hành là:
1. Lứa thứ nhất có 262 học sinh học tại 13
lớp mẫu giáo 5 tuổi ở 7 trường mầm non
trong năm học 2008-2009, tiếp tục học tại
14 lớp 1 trong năm học 2009-2010 và hiện
nay học tại 14 lớp 2 vào năm học 2010-
2011.
2. Lứa thứ hai có 274 học sinh học tại 13 lớp
mẫu giáo 5 tuổi ở 7 trường mầm non trong
năm học 2009-2010, tiếp tục học tại 14 lớp
1 ở 8 trường tiểu học vào năm học 2010-
2011.
Chương trình thử nghiệm GDSN sẽ hoàn thành
vào năm học 2014 khi lứa học sinh thứ nhất
học hết lớp 5; và vào năm 2015 với lứa học
sinh thứ hai.
TÓM TẮT CHƯƠNG TRÌNH: NGHIÊN CỨU THỰC HÀNH GIÁO DỤC SONG NGỮ TRÊN CƠ SỞ TIẾNG MẸ ĐẺ
Trang 4
3.2 Kết quả từ năm thứ hai triển khai
chương trình GDSNTCSTMĐ, năm học
2009-2010
3.2.1 Kết quả học lớp 1 của học sinh thuộc lứa
thứ nhất
Sau khi kết thúc năm học 2009-2010, học sinh
lớp 1 tại 3 tỉnh địa bàn của Nghiên cứu đã được
đánh giá qua ba môn học: tiếng Mẹ đẻ, tiếng Việt
và Toán. Vụ Giáo dục Tiểu học đã tổ chức đánh

giá này một cách độc lập. Học sinh đã được kiểm
tra nghe nói và viết môn tiếng Mẹ đẻ. Với tiếng
Việt, do học sinh chưa học đọc và viết, nên học
sinh được kiểm tra nghe nói ở môn này. Với môn
Toán, nhằm mục đích so sánh, toàn bộ học sinh
lớp 1 tham gia Nghiên cứu và một nhóm học sinh
lớp 1 không tham gia Nghiên cứu (lớp đại trà) ở
mỗi trường được đánh giá bằng cùng một bài kiểm
tra. Vì chuẩn kiến thức kỹ năng của môn Toán
trong chương trình GDSN giống với chương trình
Quốc gia, nên việc đánh giá kết quả học tập của
học sinh trong môn Toán có ý nghĩa quan trọng
trong việc đánh giá hiệu quả của phương pháp
GDSNTCSTMĐ. Bài kiểm tra Toán đánh giá năng
lực của trẻ trong các mạch kiến thức về số và phép
tính, các yếu tố hình học, kiến thức về đại lượng,
và giải toán có lời văn.
Về ngôn ngữ, học sinh đã đạt được kết quả rất tốt
trong cả hai môn tiếng Mẹ đẻ và tiếng Việt, với 89%
học sinh đạt hoặc vượt chuẩn ở môn tiếng Việt và
85% đạt chuẩn về ngôn ngữ tiếng Mẹ đẻ.
Về Toán, bảng 2 trình bày kết quả tổng hợp
đánh giá học sinh tham gia trong chương trình
GDSNTCSTMĐ từ ba tỉnh. Kết quả cho thấy hầu
như tất cả điểm số của học sinh tham gia trong
chương trình GDSNTCSTMĐ đều bằng hoặc vượt
chuẩn quy đinh (tổng hợp ở 3 cấp độ: giỏi, khá,
trung bình). 68% học sinh tham gia trong chương
trình GDSNTCSTMĐ đạt kết quả “giỏi” trong khi đó
chỉ có 28% học sinh không tham gia chương trình

GDSNTCSTMĐ đạt kết quả ở mức độ này. Trong
môn Toán, không có học sinh tham gia chương
trình GDSNTCSTMĐ nào bị kết quả yếu trong khi
đó ở lớp đại trà có 10% học sinh bị kết quả yếu.
Những khác biệt rõ rệt trong kết quả học tập của
học sinh ở hai nhóm cho thấy phương pháp tiếp
cận GDSN là phương thức tốt để giúp học sinh học
tập đạt kết quả cao hơn.
Bảng 2: Kết quả đánh giá học sinh lớp 1 trong môn Toán
Kết quả đạt được Học sinh tham gia
CTGDSNTCSTMĐ
Học sinh không tham gia
CTGDSNTCSTMĐ
Giỏi (86-100%) 68 28
Khá (66-85%) 25 31
Trung Bình (50-65%) 06 19
Kém (30-49%) 01 09
Yếu (0-29%) 0 10
3.2.2 Kết quả mẫu giáo 5 tuổi của lứa thứ hai
Trẻ mẫu giáo 5 tuổi lứa thứ hai tham gia chương
trình GDSNTCSTMĐ được đánh giá về tiếng Mẹ đẻ
và tiếng Việt. Nhằm mục đích so sánh kết quả giữa
học sinh tham gia chương trình GDSNTCSTMĐ và
lớp đại trà (lớp không tham gia chương trình Nghiên
cứu GDSNTCSTMĐ), đánh giá này được tổ chức
với một lớp mẫu giáo 5 tuổi đại trà tại mỗi trường.
Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Dân tộc (TTNC-
GDDT) tổ chức thực hiện đánh giá này. Đánh giá
này bao gồm kiểm tra nói của trẻ qua trao đổi cá
nhân và trong các hoạt động nhóm. Trong môn tiếng

Mẹ đẻ, ba lĩnh vực đã được đánh giá: nghe hiểu,
hiểu biết các khái niệm và hiểu biết về từ trái nghĩa.
• Trong lĩnh vực nghe hiểu, với thang điểm
đánh giá là 20, trẻ tham gia vào Nghiên cứu
thử nghiệm đạt được 16 điểm trong khi đó trẻ
không tham gia vào Nghiên cứu đạt 13 điểm.
• Trong lĩnh vực hiểu biết khái niệm trẻ tham gia
vào Nghiên cứu đạt được 17 điểm trên thang
điểm là 20, trong khi đó trẻ không tham gia vào
Nghiên cứu chỉ đạt được 13 điểm.
• Trong lĩnh vực hiểu biết về trái nghĩa, phát triển
nhận thức môi trường tự nhiên và thể hiện
qua ngôn ngữ, trẻ tham gia vào Nghiên cứu
đạt được 16 điểm trên thang điểm là 20, trong
khi đó trẻ không tham gia vào Nghiên cứu chỉ
đạt được 12 điểm.
TÓM TẮT CHƯƠNG TRÌNH: NGHIÊN CỨU THỰC HÀNH GIÁO DỤC SONG NGỮ TRÊN CƠ SỞ TIẾNG MẸ ĐẺ
Các kết quả này hoàn toàn phù hợp với những kết
quả đã thu được với lứa trẻ thứ nhất trong năm học
2008-2009 mà theo đó, trẻ tham gia vào Nghiên
cứu có kết quả vượt trội so với trẻ không tham gia
Nghiên cứu trên tất cả các lĩnh vực đánh giá.
Đối với tiếng Việt, trẻ tham gia vào Nghiên cứu và
trẻ không tham gia Nghiên cứu được đánh giá
trong năm lĩnh vực. Như trong hình 1, trẻ tham gia
vào Nghiên cứu có kết quả tốt hơn đáng kể trong
tất cả các lĩnh vực đánh giá. Trong lĩnh vực nghe
hiểu, trẻ em tham gia vào Nghiên cứu đạt được
17 trên thang điểm đánh giá là 20, trong khi đó trẻ
không tham gia vào Nghiên cứu đạt được 12 điểm.

Những khác biệt rõ rệt cũng được nhận thấy trong
lĩnh vực thực hiện mệnh lệnh và sắp xếp tranh theo
chuyện kể, trong khi trẻ em tham gia chương trình
Nghiên cứu thực hiện được 14 và 13 điểm, thì trẻ
em lớp đại trà chỉ thực hiện được một cách tương
ứng là 9 và 8 điểm trong hai lĩnh vực này.
Kết quả về khả năng tiếng Việt đồng nhất với kết
quả của lứa trẻ thứ nhất trong năm học 2008-2009
và cùng cho thấy rõ kết quả tích cực của phương
pháp này đối với kết quả học tập của học sinh
DTTS.
3.2.3 Phản hồi từ các trường học và cộng đồng
địa phương về chương trình GDSNTCSTMĐ
Đã có nhiều phản hồi tích cực từ học sinh, giáo
viên, cán bộ quản lý giáo dục, các bậc cha
mẹ và cộng đồng địa phương về chương trình
GDSNTCSTMĐ trong suốt thời gian thực hiện 2008
- 2010. Tham gia vào chương trình GDSNTCSTMĐ
là cơ hội bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn nghiệp
vụ đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.
Giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục cũng có
phần tự tin hơn vào khả năng giảng dạy của mình.
Về kết quả học tập của học sinh, giáo viên, hiệu
trưởng và cán bộ quản lý giáo dục đã đánh giá và
nhận xét rằng: học bằng tiếng Mẹ đẻ, học sinh rất
tự tin trong giao tiếp, hiểu và nắm bắt nhanh các
khái niệm. Các chuyên gia giáo dục cũng rất ấn
tượng với khả năng tiếng Việt của học sinh tham
gia chương trình GDSNTCSTMĐ. Học sinh có kỹ
năng tốt khi nghe hiểu, nói và vốn từ vựng vượt trội

so với học sinh đồng lứa không tham gia Nghiên
cứu.
Cha mẹ và cộng đồng rất hài lòng với kết quả học
tập, khả năng đọc và nói tiếng Mẹ đẻ của con em
mình, điều mà chính họ không có được trước đây.
Cơ hội này cũng góp phần phát huy văn hóa và
bản sắc địa phương thông qua việc sử dụng ngôn
ngữ mẹ đẻ của học sinh. Học sinh đã bày tỏ sự
hào hứng, phấn khởi, tự tin khi tham gia các hoạt
động ở trên lớp, trong tất cả các môn học cũng như
các hoạt động của chương trình GDSNTCSTMĐ.
Trang 5
Hình 1: Kết quả học tập môn tiếng Việt của trẻ mầm non: so sánh giữa nhóm học sinh tham gia
GDSNTCSTMĐ và nhóm không tham gia (điểm tối đa 20)
Trẻ em trong chương trình này luôn hào hứng cả
trên lớp và ở nhà. Các em tự tin hơn và có thể
nói về những chủ đề khác nhau và hát những
bài hát ở cả hai thứ tiếng Tôi hy vọng rằng dự
án này có thể tiếp tục được đến với tất cả trẻ em
trong cả xã

(Tần Thị Giá - Chủ tịch xã Lao Chải, Lào Cai)

TÓM TẮT CHƯƠNG TRÌNH: NGHIÊN CỨU THỰC HÀNH GIÁO DỤC SONG NGỮ TRÊN CƠ SỞ TIẾNG MẸ ĐẺ
Trang 6
3.2.4 Mở rộng chương trình GDSNTCSTMĐ
Cùng với những kết quả tích cực đạt được
sau 2 năm thực hiện nghiên cứu thử nghiệm
GDSNTCSTMĐ tại Lào Cai, Sở Giáo dục và Đào tạo
(Sở GD & ĐT) đã đưa kế hoạch triển khai mở rộng

mô hình GDSN vào trong kế hoạch phát triển giáo
dục đào tạo của tỉnh năm 2010 và các năm tiếp theo.
Trong khi lứa thứ nhất và lứa thứ 2 chỉ có 5 lớp ở 3
huyện, thì năm học 2010 - 2011 Sở GD & ĐT Lào
Cai đã mở rộng lên 4 huyện (tăng thêm 1 huyện), với
tổng số 12 lớp và 214 học sinh.
Từ năm 2011 đến năm 2015, mỗi năm học, một
nhóm mới gồm 210 trẻ 5 tuổi sẽ vào học tại các lớp
chương trình GDSNTCSTMĐ. Vào cuối năm học
2015-2016 tỉnh Lào Cai sẽ có 1,300 học sinh học
chương trình GDSNTCSTMĐ tạị các trường mẫu
giáo, tiếp theo là ở cấp tiểu học, tạo ra một hình mẫu
cho các tỉnh khác học tập nhằm nâng cao kết quả
học tập của học sinh DTTS thông qua phương pháp
GDSNTCSTMĐ.
Để thực hiện kế hoạch này, Sở GD & ĐT Lào Cai
ước tính cần 8 tỷ đồng (gần 205.000 USD). Cho đến
nay khoảng 50% ngân sách đã được đảm bảo cho
hoạt động này và lãnh đạo ngành giáo dục Lào Cai
đang tiếp tục nỗ lực tham mưu cho UBND tỉnh để
huy động và cân đối số tiền cần thiết còn lại.
3.2.5. Vận động chính sách cùng Quốc hội
Hai sự kiện diễn ra trong tháng 11 năm 2010 nhằm
tăng cường sự ủng hộ và đồng thuận của Quốc hội
đối với chương trình GDSNTCSTMĐ:
• Một đoàn đại biểu Việt Nam gồm các quan chức
cấp cao của Hội đồng Dân tộc Quốc Hội, Ủy
ban Dân tộc và Bộ GD & ĐT đã tham gia Hội
thảo Quốc tế tại Bangkok về Ngôn ngữ, Giáo
dục và Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Tại Hội

thảo các đại biểu đã chia sẻ kinh nghiệm GDSN
tại Việt Nam với các đại diện từ các nước khác.
Các đại biểu tham gia hội thảo đánh giá cao sự
tham gia và báo cáo chia sẻ về GDSN ở Việt
Nam.
• Tiếp theo việc đoàn Việt Nam tham gia Hội
nghị quốc tế, kết quả và kinh nghiệm triển khai
GDSNTCSTMĐ trong khuôn khổ hợp tác của
Bộ GD&ĐT - UNICEF đã được chia sẻ tại Hội
nghị tọa đàm diễn ra tại Hà Nội vào dịp 20/11,
với gần 100 đại biểu tham dự; trong đó có 5 Phó
Chủ tịch thường trực và 22 đại biểu Quốc Hội
là thành viên của Hội đồng Dân tộc Quốc Hội,
15 cán bộ, chuyên viên cao cấp của Văn phòng
Quốc Hội. Tọa đàm này được tổ chức với sự
phối hợp của Bộ GD&ĐT, hỗ trợ của UNICEF và
tổ chức cứu trợ trẻ em nhằm báo cáo với các
đại biểu Hội đồng dân tộc Quốc Hội về vấn đề
nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ em dân
tộc thiểu số thông qua các giải pháp tăng cường
tiếng Việt và giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng
Mẹ đẻ. Một kết quả quan trọng là tại tọa đàm
này, các đại biểu đã cùng nhau khẳng định cơ
hội để trẻ em dân tộc thiểu số học tốt nhất là
thông qua ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, và cách
tiếp cận GDSNTCSTMĐ là một phương thức
tiếp cận hiệu quả giúp học sinh học tốt tiếng
Việt. Tọa đàm này cũng đã đi đến thống nhất
rằng Quốc Hội sẽ thực hiện các hoạt động giám
sát thường xuyên tại các tỉnh, các địa bàn thử

nghiệm nhằm chia sẻ và khẳng định tính hiệu
quả của Nghiên cứu.
4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
• Sự hỗ trợ và tham gia của chính quyền địa
phương các cấp, của trường học, giáo viên,
phụ huynh và học sinh đã góp phần vào sự
thành công của Nghiên cứu.
• Thúc đẩy và đa dạng các quan hệ đối tác:
tiếp tục nâng cao nhận thức ở tất cả các cấp,
thúc đẩy việc đa dạng hóa các quan hệ đối
tác trong ngành giáo dục và các ngành liên
quan để bảo đảm thực hiện tốt Nghiên cứu
Thực hành.
Tôi đã xem và đánh giá rất cao Chương trình
này. Vụ Dân tộc nên chủ động theo dõi giúp
Thường trực Hội đồng dân tộc nắm bắt kịp thời và
đúng diễn biến triển vọng thực hiện thí điểm của
Chương trình
Ông Ksor Phước, Chủ tịch Hội Đồng dân tộc


TÓM TẮT CHƯƠNG TRÌNH: NGHIÊN CỨU THỰC HÀNH GIÁO DỤC SONG NGỮ TRÊN CƠ SỞ TIẾNG MẸ ĐẺ
Trang 7
• Hỗ trợ nâng cao năng lực một cách có hệ
thống của các bên liên quan: Nâng cao
năng lực cho tất cả các cấp cần được thực
hiện liên tục để đảm bảo chất lượng triển khai
Nghiên cứu.
• Bảo đảm chất lượng và sự phù hợp của tài
liệu dạy/học: Một trong những thách thức khi

triển khai Nghiên cứu là thiếu các chuyên gia
về ngôn ngữ DTTS. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của
cộng đồng, trí thức địa phương là công việc
cần thiết để đảm bảo việc xây dựng các tài
liệu luôn phản ánh những đặc thù văn hóa của
mỗi dân tộc.
• Thường xuyên đánh giá kết quả học tập
của học sinh và kết quả của Nghiên cứu:
để thực hiện thành công Nghiên cứu, đánh
giá chính xác và thường xuyên là hoạt động
cần thiết nhằm xác định rõ kết quả và hạn chế
trong thiết kế và khi triển khai Nghiên cứu.
5. NHỮNG BƯỚC TIẾP THEO
• Tiếp tục triển khai Nghiên cứu, tập trung vào
(a) Đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ
GV và CBQL giáo dục ở các địa phương, (b)
Xây dựng và điều chỉnh tài liệu, (c) Giám sát,
đánh giá và (d) Củng cố, tăng cường năng
lực triển khai, kiểm tra, giám sát các hoạt
động nghiên cứu ở các cấp: Trường, Huyện,
Tỉnh,Trung ương.
• Điều chỉnh thiết kế của nghiên cứu để các
tỉnh và các tổ chức phát triển khác có thể
nhân rộng cách tiếp cận ở các địa bàn khác.
Rà soát chi phí cũng đang được tiến hành
để thông báo cho các cơ quan liên quan các
yêu cầu về tài chính và vận động tăng nguồn
lực hỗ trợ phương pháp tiếp cận GDSN. Sẽ
tiếp tục vận động nhân rộng phương pháp
tiếp cận này tại các địa bàn đang triển khai

Chương trình GDSNTCSTMĐ nhằm mở rộng
nhiều lớp và trường học theo mô hình này.
Lào Cai, theo kế hoạch mở rộng của mình đã
tăng số lượng các lớp học mầm non tại nơi
các địa phương đang triển khai chương trình
GDSNTCSTMĐ từ năm (05) lớp lên mười
hai (12) lớp trong năm học 2010-2011. Kinh
nghiệm này sẽ được ghi lại và chia sẻ rộng
rãi.
• Cơ chế đánh giá của Nghiên cứu thực hành
GDSNDTTMĐ sẽ được rà soát và điều chỉnh
để đảm bảo việc cung cấp những bằng chứng
mang tính khoa học, có chất lượng cao về kết
quả học tập của học sinh.
• Tăng cường tuyên truyền vận động chính
sách thông qua việc chia sẻ, cập nhật kiến
thức, kinh nghiệm với các đối tác chiến lược
và cơ quan pháp luật, bao gồm Quốc hội, Uỷ
ban Dân tộc, Bộ GD & ĐT để thúc đẩy và mở
rộng quy mô chương trình GDSNTCSTMĐ.
Các hoạt động cụ thể bao gồm:
○ Bộ GD&ĐT, Hội đồng Dân tộc Quốc Hội,
Ủy ban Dân tộc tiếp tục đẩy mạnh việc
giám sát các hoạt động tại cơ sở,các
trường triển khai Nghiên cứu nhằm tăng
cường sự đồng thuận và ủng hộ cho
phương pháp tiếp cận này;
○ Kinh nghiệm và bài học kinh nghiệm của
UNICEF và các đối tác phát triển khác tại
Việt Nam sẽ được chia sẻ rộng rãi tại các

cấp; cũng như kinh nghiệm của các nước
về GDSNTCSTMĐ cũng được chia sẻ
với Việt Nam nhằm tăng cường sự hỗ trợ
với GDSNTCSTMĐ.
○ Tạo điều kiện cho các chuyến thăm quan
của cán bộ Bộ Giáo dục và Chính phủ từ
các nước khác trong khu vực tới thăm
quan trao đổi việc thực hiện phương
pháp GDSNTCSTMĐ tại các địa bàn
Nghiên cứu trong năm học 2011 để chia
sẻ kinh nghiệm về GDSN.
Cháu thích đi học vì khi đến trường cháu được học
tiếng Mông, cháu có thể hát cả tiếng Mông và tiếng
Việt. Đến trường rất vui và học được nhiều. Cháu
muốn trở thành thầy giáo như thầy giáo Tầu. Khi
lớn cháu có thể dạy các em bé tiếng Mông.
Lò A Măng học sinh lớp 2 song ngữ
trường Lao Chải, tỉnh Lào Cai.


UNICEF Việt Nam
Đc: 81A - Trần Quốc Toản, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Đt: +844-3942.5706 - 11 | Fax: +844-3942.5705
Email:
Web: />Đây là bản Tóm tắt Chương trình thứ 2 do Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn với sự hỗ trợ của UNICEF nhằm tiếp
tục giới thiệu phương thức và kết quả triển khai Chương trình GDSNDTTMĐ sau 2 năm, đặc biệt kết quả đánh giá
học sinh mầm non và lớp 1 trong năm học 2009 - 2010.

Tư liệu ảnh:
Trang 1: © UNICEF Việt Nam\2007\Đoàn Bảo Châu

Trang 2, 6: © UNICEF Việt Nam\2011\Trương Việt Hùng

×