Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại xí nghiệp sản xuất và cung ứng vật tư hà nội thuộc công ty hoá chất mỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (839.9 KB, 109 trang )
















LUẬN VĂN:

Hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật
liệu tại Xí nghiệp sản xuất và cung ứng vật
tư Hà nội thuộc Công ty Hoá chất Mỏ








Lời nói đầu

Trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, kế toán là công cụ


quan trọng phục vụ cho việc quản lý nền kinh tế cả về mặt vĩ mô và vi mô. Cơ chế thị
trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu , bất kỳ một
doanh nghiệp nào cũng phải thường xuyên quan tâm đến yếu tố đầu vào của quá trình
sản xuất. Đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định đến chất lượng và
giá thành sản phẩm để có thể cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt các doanh nghiệp sản
xuất phải luôn luôn sáng tạo tìm tòi và thực thi các giải pháp nhằm tiết kiệm nguyên vật
liệu, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra.
Từ ngày 01-01-1996, chế độ kế toán mới đã được ban hành và áp dụng thống
nhất trong cả nước. Việc tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu phù
hợp với chế độ kế toán mới và yêu cầu quản lý của nền kinh tế thị trường theo định hư-
ớng xã hội chủ nghĩa, đang trở thành mối quan tâm cấp thiết đối với tất cả những ngời
đang làm công tác kế toán tại các doanh nghiệp sản xuất.
Sau khi được trang bị kiến thức cơ bản về mặt lý luận, để nhanh chóng nắm bắt,
vận dụng lý thuyết với thực tế, khoa Kế toán và trường Đại học Kinh tế quốc dân phối
hợp cùng Xí nghiệp sản xuất và cung ứng vật tư Hà nội thuộc Công ty Hoá chất Mỏ đã
tạo điều kiện cho em thực tập tại phòng kế toán của Xí nghiệp. Đợt thực tập lần này đã
mang lại cho em hiểu sâu sắc hơn lý thuyết đã học đồng thời em cũng được học hỏi
thêm nhiều kiến thức thực tế. Đây sẽ là điều kiện thuận lợi để giúp em có được chuyên
môn, kinh nghiệm để sau khi ra trường có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của một nhân viên
kế toán trong nền kinh tế thị trường sôi động và đầy thách thức.
Qua thời gian thực tập 3 tháng tại Xí nghiệp sản xuất và cung ứng vật tư Hà nội,
em đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác kế toán ngyuên vật liệu ,cũng như
hiệu quả kinh tế và lợi ích mà công tác hạch toán mang lại, em đã chọn đề tài : “Hoàn
thiện công tác kế toán nguyên vật liệu tại Xí nghiệp sản xuất và cung ứng vật tư Hà
nội thuộc Công ty Hoá chất Mỏ”.


Dưới sự hướng dẫn tận tính của các thầy cô giáo, các cô chú nhân viên của Xí
nghiệp đặc biệt là phòng kế toán, cùng với sự nỗ lực của bản thân nên em đã thu được
một số kết quả nhất định trong đợt thực tập và được thể hiện ở Chuyên để thực tâp này.

Nội dung chuyên đề thực tập gồm có 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận về công tác hạch toán nguyên vật liệu.
Phần II: Thực trạng kế toán nguyên vật liệu tại Xí nghiệp sản xuất và cung ứng vật tư
Hà nội.
Phần III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán, quản lý vật liệu tại Xí
nghiệp sản xuất và cung ứng vật tư Hà nội.






















Phần I
Cơ sở lý luận về công tác hạch toán nguyên vật liệu trong doanh nghiệp.


I. Vai trò và sự cần thiết quản lý và hạch toán nguyên vật liệu trong doanh
nghiệp.
1.1. Nguyên vật liệu và đặc điểm của nguyên vật liệu.
Quá trình lao động là quá trình con người sử dụng tư liệu lao động tác động lên
đối tượng lao động, làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất hoá lý của đối tượng
lao động để tạo ra những sản phẩm với chất lượng ngày càng cao. Như vậy, một doanh
nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh phải có đủ 3 yếu tố cơ bản đó là:
- Tư liệu lao động.
- Đối tượng lao động.
- Sức lao động.
Đối tượng lao động là một trong những điều kiện không thể thiếu trong bất cứ
quá trình sản xuất nào. Biểu hiện cụ thể của đối tượng lao động ở đây chính là các loại
vật liệu. Theo Mác, bất kỳ vật liệu nào cũng là đối tượng lao động song không phải bất
cứ đối tượng lao động nào cũng là vật liệu mà chỉ khi đối tượng lao động thay đổi do tác
động của con người thì khi đó mới trở thành vật liệu. Ví dụ như các loại quặng nằm
trong lòng đất thì không phải là vật liệu nhưng than đá, sắt, đồng, thiếc khai thác được
trong các quặng ấy lại là vật liệu cho các ngành công nghiệp chế tạo, cơ khí
Vậy vật liệu là đối tượng lao động đã được thay đổi do lao động có ích của con
người tác động. Trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, vật liệu là tài sản dự trữ
quan trọng nhất của sản xuất, thuộc tài sản lưu động.
Có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản của vật liệu như sau:
- Vật liệu là đối tượng lao động biểu hiện dưới dạng vật hoá, là một trong ba yếu
tố cơ bản không thể thiếu được của quá trình sản xuất, là cơ sở vật chất tạo thành sản
phẩm mới. Kế hoạch sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào việc cung cấp vật liệu có đầy đủ,
kịp thời, đúng chất lượng hay không. Nếu vật liệu có chất lượng tốt, đúng qui định sẽ
tạo điều kiện cho sản xuất tiến hành thuận lợi, chất lượng sản phẩm tạo khả năng cạnh
tranh trên thị trường.



- Vật liệu chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất nhất định, khi tham gia vào sản
xuất thì vật liệu chịu sự tác động của lao động, chúng sẽ bị tiêu hao hoàn toàn hoặc bị
thay đổi hình dáng vật chất ban đầu tạo ra hình thái vật chất của sản phẩm.
- Về mặt giá trị, khi tham gia vào sản xuất, vật liệu chuyển dịch một lần toàn bộ
giá trị của chúng vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Điều này thể hiện ở chỗ chi
phí vật liệu là khoản chi phí phân bổ một lần.
Như vậy, vật liệu có vị trí đặc biệt quan trọng nhưng không thể phủ nhận trong
quá trình sản xuất. Xuất phát từ tầm quan trọng của vật liệu đối với qúa trình sản xuất
trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, việc giảm chi phí vật liệu hợp lý có ý
nghĩa lớn, giảm nhưng không làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
1.2 Sự cần thiết quản lý và hạch toán nguyên vật liệu.
Vật liệu là tài sản lưu động, đồng thời là một yếu tố chi phí của doanh nghiệp.
Do vậy, việc hạch toán vật liệu một cách chính xác, hợp lý, có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc kiểm soát chi phí, giá thành sản phẩm và đáp ứng có hiệu quả các yêu cầu
quản lý.
a. Đối với việc kiểm soát chi phí
Bảo quản vốn kinh doanh nhất là vốn lưu động cả về mặt hiện vật lẫn giá trị là mối
quan tâm của các doanh nghiệp. Vật liệu với tư cách là tài sản lưu động, thường chiếm
tỷ trọng lớn và chủ yếu trong quá trình sản xuất kinh doanh nên nó là đối tượng tất yếu
của việc kiểm soát chi phí của doanh nghiệp. Qúa trình vật liệu tham gia vào sản xuất
kinh doanh cho tới khi rút khỏi qúa trình sản xuất kinh doanh chuẩn bị cho qúa trình
kinh doanh tiếp theo có thể khái quát qua sơ đồ 1.
Đây là sơ đồ phản ánh trị giá vật liệu sử dụng cho sản xuất kinh doanh và tiêu
hao toàn bộ vào sản phẩm, dịch vụ. Qua đó cho thấy, để kiểm soát sự xuất hiện và tham
gia vào qúa trình sản xuất kinh doanh của vật liệu về mặt giá trị thì kế toán phải hạch
toán vật liệu một cách chính xác, hiệu quả và hợp lý. Việc đánh giá đúng giá trị thực của
vật liệu tồn, nhập, xuất là điều kiện quan trọng để xác định giá trị đích thực của vật liệu
tiêu hao cho quá trình sản xuất kinh doanh, từ đó có cơ sở xác định lợi nhuận đã đạt
được.



Mặt khác, vật liệu thường có nhiều chủng loại khác nhau, mỗi loại có công dụng
khác nhau, nếu thiếu một loại nào đó có thể gây ngừng sản xuất, trong khi đó về việc
nhập, xuất vật liệu thường xuyên diễn ra. Do đó chỉ có hạch toán vật liệu chính xác, hợp
lý mới đảm bảo theo dõi được tình hình biến động của từng loại vật liệu- đó là cơ sở cho
việc theo dõi, kiểm soát vật liệu
Sơ đồ1 : Quá trình luân chuyển nguyên vật liệu.
Đối với giá thành sản phẩm dịch vụ
Giá thành là chi phí sản xuất tính cho khối lượng hoặc đơn vị sản phẩm (công
việc, lao vụ) do doanh nghiệp đã sản xuất hoàn thành. Căn cứ, cơ sở để tính giá thành
của sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành là các chi phí sản xuất trong kỳ. Cùng
với chi phí nhân công, chi phí sản xuất chung, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là căn cứ
quan trọng để tính giá thành sản phẩm.
Để tính toán và tập hợp chính xác chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán cần
phải xác định được trị giá nguyên vật liệu sản xuất đã đưa vào sử dụng, đồng thời chú ý
kiểm tra, xác định số nguyên vật liệu đã lĩnh nhưng cuối kỳ chưa sử dụng hết và giá
thành của phế liệu thu hồi (nếu có) để loại chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp trong kỳ.





Chi phí thực
tế nguyên vật
liệu trong kỳ

=

Giá trị nguyên
vật liệu sản xuất

đưa vào sử
dụng

-
Giá trị phế
liệu thu hồi
Sử dụng ngay
VL mua về
Xuất theo yêu cầu
Tái sản xuất
Sản
phẩm
d
ịch vụ

Tiêu thụ
thành
ph
ẩm



Trong qúa trình sử dụng, vật liệu các loại với tư cách là những đối tượng lao
động sẽ được tiêu hao hoàn toàn để cấu tạo nên hình thái vật chất của sản phẩm, hoặc
tăng thêm chất lượng, màu sắc, giá trị sử dụng, giá trị thương mại của sản phẩm hay
phục vụ gián tiếp cho qúa trình sáng tạo khối lượng sản phẩm mới. Bởi vậy, giá trị của
vật liệu đã tiêu dùng được chu chuyển một lần vào giá phí của sản phẩm mới. Để cho
sản phẩm được liên tục với mục tiêu sản lượng hàng hoá, dịch vụ được hoàn thành thì
doanh nghiệp phải đảm bảo tốt vấn đề cung ứng đối tượng lao động cho nó mà một vật
liệu là đối tượng cơ bản vì qúa trình sản xuất kinh doanh là qúa trình tiêu hao vật liệu và

các đối tượng lao động khác để tạo ra một khối lượng vật chất hữu ích khác cho tiêu
dùng xã hội.
Để tổ chức tốt các yêu cầu trên thì hạch toán vật liệu phải được thực hiện một
cách đầy đủ, chính xác, hợp lý để làm căn cứ, cơ sở hạch toán tính giá thành sản phẩm
dịch vụ.
b. Đối với việc đáp ứng có hiệu quả các yêu cầu quản lý.
Quản lý nguyên, vật liệu trong doanh nghiệp là một yêu cầu quan trọng vì doanh
nghiệp cần phải có các thông tin sau để đảm bảo được hiệu quả của quá trình- kinh
doanh.
+ Mức tồn kho thực tế về nguyên, vật liệu, chênh lệch của mỗi loại vật liệu tồn
kho so với định mức dự trữ an toàn của kinh doanh, định mức tối thiểu, tối đa.
+ Mức nguyên, vật liệu nhập vào trong kỳ cho mục đích sản xuất kinh doanh.
+Tình hình tiêu dùng vật liệu các loại cho sản xuất và sử dụng có hiệu quả số vật
liệu đó.
Chính vì vậy, kế toán viên giữ vai trò hết sức quan trọng trong công tác hạch
toán và quản lý vật liệu. Vậy vai trò đó thể hiện như thế nào?
Hàng ngày, khi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kế toán tiến hành tập hợp các
chứng từ, kiểm tra đối chiếu, sắp xếp chúng theo thứ tự và ghi sổ kế toán từ chi tiết đến
tổng hợp số liệu về tình hình thu mua, vận chuyển, bảo quản, tình hình, nhập- xuất- tồn
kho vật liệu.
Định kỳ, kế toán cùng các bộ phận phòng ban chức năng cùng phối hợp thực
hiện việc phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch thu mua, tình hình thanh toán


với người bán (nhà cung cấp), tình hình bảo quản, sử dụng vật liệu trong các quá trình
sản xuất kinh doanh nhằm phát hiện ra những bất hợp lý trong khâu lập kế hoạch, quản
lý cũng như sử dụng. Từ đó điều chỉnh kế hoạch thu mua hợp lý hơn, đề ra các phương
hướng, giải pháp hoàn thiện hơn cho việc quản lý, sử dụng vật liệu một cách tiết kiệm,
hiệu quả nhằm giảm chi phí, hạ giá thành và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.3 Yêu cầu quản lý nguyên vật liệu.

Trong cơ chế thị trường, sản phẩm ngày càng đa dạng về chủng loại đòi hỏi khối
lượng nguyên vật liệu ngày càng tăng, trong khi đó nguyên vật liệu sản xuất trong nước
chưa đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất, nhiều nguyên vật liệu còn phải nhập ngoại. Vì vậy,
cần phải quản lý tốt nguyên vật liệu, tìm biện pháp sử dụng nguyên vật liệu tiết kiệm
hợp lý nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm được sản xuất ra.
Quản lý tốt nguyên vật liệu sẽ hạn chế được những mất mát, hư hỏng, giảm bớt
những rủi ro thiệt hại xảy ra trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, góp
phần giảm bớt chi phí, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao hiệu quả của hoạt động sản
xuất kinh doanh. Quản lý tốt nguyên vật liệu còn là điều kiện để xác định hiệu quả kinh
doanh và đánh giá tài sản của doanh nghiệp một cách đầy đủ, xác thực đảm bảo tính
trung thực khách quan của thông tin trình bày trên các báo cáo tài chính của doanh
nghiệp.
Với ý nghĩa đó, việc quản lý nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp đòi hỏi phải
chặt chẽ ở nhiều khâu khác nhau từ khâu thu mua, bảo quản tới khâu dự trữ và sử dụng.
- ở khâu thu mua: Nguyên vật liệu là tài sản dự trữ sản xuất, thường xuyên biến
động, các doanh nghiệp thường xuyên phải tiến hành thu mua nguyên vật liệu để đáp
ứng kịp thời cho quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm và phục vụ cho những nhu cầu
khác doanh nghiệp. Khâu thu mua phải quản lý về mặt số lượng, quy cách, chủng loại,
giá mua và chi phí thu mua, thực hiện kế hoạch thu mua đúng tiến độ thời gian phù hợp
với kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- ở khâu bảo quản: Việc tổ chức tốt kho tàng, bến bãi, thực hiện đúng chế độ bảo
quản đối với từng loại nguyên vật liệu, tránh hư hỏng, mất mát, đảm bảo chế độ an toàn
là một trong các yêu cầu quản lý nguyên vật liệu.


- ở khâu sử dụng: Sử dụng nguyên vật liệu hợp lý, tiết kiệm trên cơ sở định mức
và dự toán chi phí có ý nghĩa quan trọng trong việc hạ thấp chi phí sản xuất, giá thành
sản phẩm, tăng thu nhập tích luỹ của doanh nghiệp. Do vậy, trong khâu này cần phải tổ
chức tốt các việc ghi chép phản ánh tình hình xuất dùng nguyên vật liệu trong sản xuất
kinh doanh.

- ở khâu dự trữ : Đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định được định mức dự trữ tối đa,
tối thiểu cho từng loại nguyên vật liệu đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến
hành bình thường, không bị ngừng trệ hay gián đoạn do vịc cung ứng, mua không kịp
thời hoặc lâm vào tình trạng ứ đọng vốn do dự trữ quá nhiều.
1.4 Yêu cầu và nhiệm vụ của công tác kế toán nguyên vật liệu.
Để cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình cung cấp nguyên vật liệu, dự trữ và sử
dụng nguyên vật liệu hợp lý tiết kiệm, ngăn ngừa các hiện tượng hư hỏng, mất mát và
lãng phí nguyên vật liệu, công tác hạch toán nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp
công nghiệp cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Thực hiện việc đánh giá và phân loại nguyên vật liệu phù hợp với nguyên tắc,
yêu cầu quản lý thống nhất và yêu cầu quản trị doanh nghiệp.
- Tổ chức chứng từ, tài khoản kế toán, sổ sách kế toán phù hợp với phương pháp
kế toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp để ghi chép, phân loại, tổng hợp số
liệu về tình hình hiện có và sự biến động tăng giảm của nguyên vật liệu trong quá trình
sản xuất kinh doanh, cung cấp số liệu kịp thời để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm.
- Tham gia việc phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch mua, tình hình
thanh toán với người bán và tình hình sử dụng nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất
kinh doanh.
II. Phân loại và tính giá nguyên vật liệu
2.1 Phân loại nguyên vật liệu trong doanh nghiệp
Vật liệụ sử dụng trong các doanh nghiệp có nhiều loại, nhiều thứ, có vai trò, công
dụng hết sức khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vật liệu cần được hạch
toán chi tiết theo từng thứ, từng loại, từng nhóm theo cả hiện vật và giá trị. Trên cơ sở
đó, xây dựng “danh điểm vật liệu” nhằm thống nhất tên gọi, ký - mã hiệu, qui cách, đơn


vị tính và giá hạch toán của từng thứ vật liệu Do vậy, cần thiết phải tiến hành phân loại
vật liệu nhằm tạo điều kiện cho việc hạch toán và quản lý vật liệu. Căn cứ vào vai trò và
tác dụng của vật liệu trong sản xuất, vật liệu được chia thành các loại sau:

Nguyên vật liệu chính: Là những thứ mà sau quá trình gia công, chế biến sẽ
thành thực thể vật chất chủ yếu của sản phẩm (kể cả bán thành phẩm mua vào).
- Vật liệu phụ: Là những vật liệu chỉ có tác dụng phụ trợ trong sản xuất, được sử
dụng kết hợp với vật liệu chính để làm thay đổi màu sắc, hình dáng, mùi vị hoặc dùng
để bảo quản, phục vụ hoạt động của các tư liệu lao động hay phục vụ cho lao động của
công nhân viên chức (dầu nhờn, hồ keo, thuốc nhuộm, thuốc tẩy, thuốc chống gỉ, hương
liệu, xà phòng, giẻ lau ).
- Nhiên liệu: Là những thứ dùng để cung cấp nhiệt lượng trong quá trình sản
xuất, kinh doanh như than, củi, xăng dầu, hơi đốt, khí đốt v.v
- Phụ tùng thay thế: Là các chi tiết, phụ tùng dùng để sửa chữa và thay thế cho
máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải
- Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: Bao gồm các vật liệu và thiết bị (cần lắp,
không cần lắp, vật kết cấu, công cụ, khí cụ ) mà các doanh nghiệp mua vào nhằm mục
đích đầu tư cho xây dựng cơ bản.
- Phế liệu: Là các loại vật liệu thu được trong quá trình sản xuất hay thanh lý tài
sản, có thể sử dụng hay bán ra ngoài (phôi bào, vải vụn, gạch, sắt ).
- Vật liệu khác: Bao gồm các loại vật liệu còn lại ngoàI các thứ chưa kể trên như
bao bì, vật đóng gói, các loại vật tư đặc chủngv.v
Hạch toán theo cách phân loại nói trên đáp ứng được yêu cầu phản ánh tổng quát
về mặt giá trị đối với mỗi loại vật liệu. Tuỳ vào yêu cầu quản lý và hạch toán chi tiết, cụ
thể của từng doanh nghiệp mà mỗi loại vật tư trên lại được chi tiết thành từng nhóm,
từng thứ chi tiết hơn.
2.2 Tính giá nguyên vật liệu
Tính giá nguyên vật liệu, về thực chất là việc xác nhận giá trị ghi sổ của vật liệu
được tính theo giá thực tế (giá gốc). Lựa chọn phương pháp tính giá nguyên vật liệu
trong kỳ hợp lý để đảm bảo phản ánh chính xác chi phí vật liệu trong giá thành sản
phẩm mới và giá trị dự trữ vật liệu ngày cuối kỳ. Vì vậy, tính giá vật liệu là nhiệm vụ


không thể thiếu của tổ chức hạch toán, là tiền đề để hình thành hệ thống thông tin chính

xác về vật liệu tiêu dùng và dự trữ.
Tính giá vật liệu là dùng tiền để biểu hiện giá trị của chúng theo những nguyên
tắc nhất định. Trong công tác hạch toán vật liệu ở các doanh nghiệp công nghiệp, vật
liệu được tính theo giá thực tế (giá gốc). Giá thực tế của vật liệu là loại giá được hình
thành trên cơ sở các chứng từ hợp lệ, chứng minh các khoản chi hợp pháp của doanh
nghiệp.
2.2.1 Tính giá vật liệu nhập
Tuỳ theo doanh nghiệp tính thuế VAT theo phương pháp trực tiếp hay phương
pháp khấu trừ mà trong giá thực tế có thể có thuế VAT (nếu tính thuế VAT theo phương
pháp trực tiếp hay không có thuế VAT (nếu tính thuế VAT theo phương pháp khấu trừ).
 Với vật liệu mua ngoài:
Giá thực tế gồm giá mua ghi trên hoá đơn của người bán cộng thuế nhập khẩu
(nếu có) và các chi phí thu mua thực tế (chi phí vận chuyển, bốc dỡ, chi phí nhân viên
thu mua, chi phí của bộ phận thu mua độc lập, chi phí thuê kho bãI, tiền phạt lưu kho,
lưu hàng, lưu bãi ) trừ các khoản giảm giá mua được hưởng.
 Với vật liệu tự sản xuất:
Tính theo giá thành sản xuất thực tế.
 Với vật liệu mua ngoài gia công chế biến:
Giá thực tế gồm giá trị vật liệu xuất chế cùng các chi phí liên quan (tiền
thuê gia công, chế biến, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt trong định mức ).
 Với vật liệu nhận đóng góp từ các đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia liên
doanh:
Giá thực tế là giá thoả thuận do các bên xác định cộng (+) với các chi phí tiếp
nhận (nếu có).
 Với phế liệu:
Giá thực tế là giá ước tính có thể sử dụng được hay giá trị thu hồi tối thiểu.
 Với vật liệu được tặng thưởng:


Giá thực tế tính theo giá thị trường tương đương cộng (+) chi phí liên quan đến

việc tiếp nhận.
 Đối với phế liệu thu hồi:
Giá thực tế là giá ước tính có thể sử dụng được hay giá trị thu hồi tối thiểu.
2.2.2. Tính giá nguyên vật liệu xuất kho.
Đối với vật liệu xuất dùng trong kỳ, tuỳ theo đặc điểm hoạt động của từng doanh
nghiệp, vào yêu cầu quản lý và trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán, có thể sử dụng
một trong các phương pháp sau theo nguyên tắc nhất quán trong hạch toán, nếu có thay
đổi phải giải thích rõ ràng:
a. Phương pháp giá đơn vị bình quân:
Theo phương pháp này, giá thực tế vật liệu xuất dùng trong kỳ được tính theo công
thức.

Trong đó, giá đơn vị bình quân có thể tính một trong 3 cách như sau:
* Phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ.
Ưu điểm:
- Việc tính giá vật liệu xuất kho không phụ thuộc vào tần suất nhập- xuất trong
kỳ.
- Đơn giản, dễ làm, phù hợp với doanh nghiệp có ít danh điểm vật liệu, số lần
nhập xuất nhiều, giá cả biến động đột ngột.
Nhược điểm:
- Độ chính xác không cao, công việc tính toán dồn vào cuối tháng gây ảnh
hưởng đến công tác quyết toán nói chung.
- Cách tính này tuy đơn giản, dễ làm nhưng độ chính xác không cao. Hơn nữa,
công việc tính toán dồn vào cuối tháng, gây ảnh hưởng đến công tác kế toán nói chung.
 Phương pháp giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước.
Giá thực tế vật
liệu xuất dùng

=
Số lượng vật

liệu xuất dùng

x
Giá đơn vị
bình quân

=
Giá đơn vị bình quân
cả kỳ dự trữ
Lượng thực tế vật liệu tồn đầu kỳ và nhập trong
k


Giá thực tế vật liệu tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ


Theo phương pháp này, giá thực tế nguyên, vật liệu xuất dùng trong kỳ được tính
trên cơ sở số lượng vật liệu xuất kho và giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước.

Ưu điểm:
- Đơn giản, phản ánh kịp thời tình hình biến động vật liệu trong kỳ.
Nhược điểm
- Độ chính xác không cao vì không tính đến sự biến động của giá cả vật liệu kỳ
này.
 Phương pháp bình quân sau mỗi lần nhập.
Theo phương pháp này, sau mỗi lần nhập, kế toán phải xác định giá đơn vị bình
quân của từng danh điểm vật liệu. Giá nguyên, vật liệu xuất kho sẽ chịu ảnh hưởng rất
lớn vào số lượng và đơn giá của nguyên, vật liệu nhập trước đó.
Ưu điểm:
Cách tính theo giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập lại khắc phục được nhược

điểm của cả hai phương pháp trên, vừa chính xác, vừa cập nhật, phản ánh kịp thời sự
biến động của giá cả.
Nhược điểm:
Việc tính toán rất phức tạp, tốn nhiều công sức, tính toán nhiều lần, chỉ nên áp
dụng đối với các doanh nghiệp có ít danh điểm vật liệu, số lần nhập xuất không nhiều
và thực hiện bằng kế toán bằng máy vi tính.
b. Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO):
Theo phương pháp này, giả thiết rằng số vật liệu nào nhập trước thì xuất trước,
xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số hàng xuất. Nói
Giá đơn vị bình
quân cuối kỳ
trư
ớc

=

Giá thực tế vật liệu tồn kho đầu kỳ (hoặc cuối kỳ)
trư

Lượng thực tế vật liệu tồn đầu kỳ (hoặc cuối kỳ trước)
Giá đơn vị bình quân
sau mỗi lần nhập

=
Giá thực tế vật liệu tồn kho sau mỗi lần nhập
Lượng thực tế vật liệu tồn sau mỗi lần nhập


cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của vật liệu mua trước sẽ được
dùng làm giá để tính giá thực tế vật liệu xuất trước và do vậy giá trị vật liệu tồn kho

cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số vật liệu mua vào sau cùng.
Ưu điểm:
- Gần đúng với luồng nhập- xuất vật liệu trong thực tế.
- Phản ánh được sự biến động của giá vật liệu tương đối chính xác.
Nhược điểm:
- Làm cho doanh thu hiện tại không phù hợp với những khoản chi phí hiện tại.
Theo phương pháp nhập trước - xuất trước, doanh thu hiện tại được tạo ra bởi giá trị vật
liệu đã được mua vào từ cách đó rất lâu.
- Khối lượng công việc hạch toán nhiều.
- Phương pháp này thường được áp dụng ở những doanh nghiệp có ít vật
liệu, số lần nhập kho của mỗi danh điểm không nhiều. Phương pháp này cũng thích hợp
trong trường hợp giá cả ổn định hoặc có xu hướng giảm.
c. Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO):
Phương pháp này giả định những vật liệu mua sau cùng sẽ được xuất trước tiên,
ngược lại với phương pháp nhập trước, xuất trước ở trên. Phương pháp nhập sau, xuất
trước thích hợp trong trường hợp giá cả có xu hướng tăng lên, lạm phát vì khi đó doanh
nghiệp sẽ giảm được số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước.
Ưu điểm:
- Doanh thu hiện tại được phù hợp với nhưng khoản chi phí hiện tại.
Nhược điểm
- Phương pháp này bỏ qua việc nhập- xuất vật liệu trong thực tế.
- Chi phí quản lý vật liệu của doanh nghiệp có thể cao vì phải mua thêm vật
liệu nhằm tính vào giá vốn hàng bán những chi phí mới nhất với giá cao.
- Giá trị vật liệu tồn kho và vốn lưu động của doanh nghiệp được phản ánh
thấp hơn so với thực tế. Điều này làm khả năng thanh toán của doanh nghiệp bị nhìn
nhận là kém so với khả năng thực tế.
d. Phương pháp trực tiếp (giá thực tế đích danh)


Theo phương pháp này, vật liệu được xác định giá trị theo đơn chiếc hay từng lô

và giữ nguyên từ lúc nhập vào cho đến lúc xuất dùng (trừ trường hợp điều chỉnh). Khi
xuất vật liệu nào sẽ tính theo giá thực tế của vật liệu đó. Do vậy, phương pháp này còn
có tên gọi là phương pháp đặc điểm riêng hay phương pháp giá thực tế đích danh và
thường sử dụng với các loại vật liệu có giá trị cao và có tính tách biệt.
Ưu điểm:
- Tính giá vật liệu xuất kho chính xác.
- áp dụng có hiệu quả trong các doanh nghiệp có số lượng danh điểm nguyên
vật liệu ít nhưng có giá trị lớn và mang tính đặc thù.
Nhược điểm:
- Đòi hỏi công tác quản lý, bảo hànhvà hạch toán chi tiết, tỉ mỉ.
a. Phương pháp giá hạch toán.
Theo phương pháp này, toàn bộ vật liệu biến động trong kỳ được tính theo giá
hạch toán (giá kế hoạch hoặc một loại giá ổn định trong kỳ). Cuối kỳ, kế toán sẽ tiến
hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế theo công thức:
Giá thực tế vật liệu xuất
dùng(hoặc tồn kho cuối kỳ)
=
Giá hạch toán Vật liệu xuất
dùng (hoặc tồn kho cuối kỳ)
x
Hệ số giá
vật liệu
Hệ số giá có thể tính cho từng loại, từng nhóm hoặc từng thứ vật liệu chủ yếu tuỳ
thuộc vào yêu cầu và trình độ quản lý.
Ưu điểm:
Phương pháp này kết hợp được hạch toán chi tiết vật liệu và hạch toán tổng hợp
để tính giá vật liệu, không phụ thuộc vào cơ cấu vật liệu sử dụng nhiều hay ít.
Nhược điểm:
- Phải tổ chức hạch toán tỉ mỉ, khối lượng công việc dồn vào cuối kỳ hạch toán,
phải xây dựng được giá hạch toán khoa học.

- Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có nhiều danh điểm vật
liệu và có trình độ kế toán tương đối tốt.
Hệ số giá vật
liệu

=
Giá thực tế vật liệu tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ

Số lượng vật liệu tôn đầu kỳ và nhập trong kỳ x Đơn giá vật liệu



III. Hạch toán chi tiết nguyên, vật liệu.
Vật liệu trong doanh nghiệp thường có nhiều chủng loại khác nhau, nếu thiếu
một loại nào đó có thể gây ra ngừng sản xuất, chính vì vậy hạch toán vật liệu phải đảm
bảo theo dõi được tình hình biến động của từng loại vật liệu. Vật liệu là một trong
những đối tượng kế toán, là tài sản cần phải được tổ chức, hạch toán chi tiết không chỉ
về mặt giá trị mà cả về mặt hiện vật, không chỉ ở từng kho mà phải chi tiết theo từng
loại, nhóm, thứ và phải được tiến hành đồng thời ở cả kho và phòng kế toán trên cùng
cơ sở các chứng từ nhập, xuất kho.
Hạch toán chi tiết vật liệu được hiểu là việc các doanh nghiệp tổ chức hệ thống
chứng từ, mở các sổ kế toán chi tiết và lựa chọn, vận dụng các công tác quản lý tài sản
nói chung, quản lý vật liệu nói riêng.
Có nhiều phương pháp kế toán chi tiết vật liệu, do vậy mỗi doanh nghiệp tuỳ
theo đặc điểm và yêu cầu quản lý vật liệu của mình mà lựa chọn phương pháp kế toán
chi tiết vật liệu cho phù hợp.
Để kế toán chi tiết vật liệu, các doanh nghiệp sử dụng một số chứng từ ban đầu
như:
- Phiếu nhập kho- (Mẫu 01- VT).
- Phiếu xuất kho- (Mẫu 02- VT).

- Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ- (Mẫu 03- VT).
- Biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm hàng hoá- (Mẫu 08- VT).
- Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho- (Mẫu 02- BH).
- Hoá đơn cước phí vận chuyển- (Mẫu 03- BH).
Ngoài các chứng từ bắt buộc sử dụng theo mẫu thống nhất theo qui định của nhà
nước , các doanh nghiệp có thể sử dụng thêm các chứng từ kế toán hướng dẫn khác như:
- Phiếu xuất vật tư theo hạn mức- (Mẫu 04- VT).
- Biên bản kiểm nghiệm vật tư- (Mẫu 05- VT).
- Phiếu báo vật tư còn lại cuối kỳ- (Mẫu 07- VT).



Việc tổ chức kế toán chi tiết vật liệu được sử dụng một trong ba phương pháp:
Phương pháp thẻ song song, phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển và phương pháp sổ
số dư. Mỗi phương pháp có ưu điểm, nhược điểm và phạm vi áp dụng riêng nhưng dù
sao thì các phương pháp này cũng là sự kết hợp giữa kho và phòng kế toán để theo dõi
tình hình biến động tăng, giảm, và tồn kho vật liệu theo cả hai chỉ tiêu số lượng và giá
trị.
1. Phương pháp thẻ song song.
1.1 Nguyên tắc hạch toán vật liệu theo phương pháp thẻ song song.
Theo phương pháp thẻ song song, để hạch toán nghiệp vụ nhập, xuất và tồn kho
vật liệu, ở kho phải mở thẻ kho để ghi chép về mặt số lượng và ở phòng kế toán phải
mở sổ kế toán chi tiết vật liệu để ghi chép về mặt số lượng và giá trị.
Thẻ kho do kế toán lập theo mẫu qui định thống nhất (Mẫu 06- VT) cho từng
danh điểm vật liệu và phát cho thủ kho sau khi đã vào sổ đăng ký thẻ kho.
1.2 Trình tự hạch toán
Trình tự kế toán chi tiết vật liệu theo phương pháp thẻ song có thể khái quát qua
sơ đồ sau
Sơ đồ 2 Kế toán chi tiết vật liệu theo phương pháp thẻ song song


Thẻ kho
Chứng từ
nh
ập

Sổ kế toán chi
ti
ết

Chứng từ
xu
ất

Bảng kê tổng hợp
N-X-T
Ghi hàng
ngày

Ghi cuối
tháng

Đối chiếu, kiểm
tra

Ghi chú


Ưu điểm:
Đơn giản, dễ làm, dễ kiểm tra đối chiếu số liệu, đảm bảo sự chính xác của thông
tin và có khả năng cung cấp thông tin nhanh cho quản trị hàng tồn kho.

Nhược điểm:
Việc ghi chép giữa kho và phòng kế toán còn trùng lặp về chỉ tiêu số lượng. Việc
kiểm tra đối chiếu chủ yếu tiến hành vào cuối tháng, do vậy hạn chế chức năng của kế
toán.
Điều kiện áp dụng:
áp dụng thích hợp với những doanh nghiệp có ít chủng loại vật liệu, khối lượng
các nghiệp vụ nhập, xuất ít, phát sinh không thường xuyên và trình độ chuyên môn của
các nhân viên kế toán chưa cao.
2. Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển.
2.1 Nguyên tắc hạch toán vật liệu theo phương pháp sổ đối chiếu luân
chuyển.
Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển được hình thành trên cơ sở cải tiến một
bước phương pháp thẻ song
2.2 Trình tự kế toán vật liệu theo phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển.
Trình tự kế toán chi tiết vật liệu theo phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển có
thể khái quát theo sơ đồ 3.
Ưu điểm:
Phương pháp này đơn giản, dễ làm, khối lượng ghi chép có giảm bớt so với
phương pháp thẻ song song.
Nhược điểm:
- Việc ghi sổ vẫn trùng lặp giữa kho và phòng kế toán về chỉ tiêu số lượng.
- Việc kiểm tra đối chiếu số liệu giữa kho và phòng kế toán chỉ được tiến hành
vào cuối tháng, vì vậy hạn chế chức năng kiểm tra của kế toán.
- Nếu không lập bảng kê nhập, xuất vật liệu thì việc sắp xếp chứng từ nhập, xuất
trong cả tháng để ghi sổ đối chiếu luân chuyển để phát sinh nhầm lẫn, sai sót. Nếu có
lập bảng kê nhập, xuất thì khối lượng ghi chép lớn.


- Theo yêu cầu cung cấp thông tin nhanh phục vụ quản trị hàng tồn kho thì doanh
nghiệp không nên sử dụng phương pháp này, vì muốn lập báo cáo nhanh thì hàng tồn

kho cần dựa vào số liệu trên thẻ kho.
Điều kiện áp dụng:
áp dụng thích hợp cho các doanh nghiệp không có nhiều nghiệp vụ nhập, xuất,
không bố trí riêng nhân viên kế toán chi tiết vật liệu do vậy không có điều kiện ghi
chép, theo dõi tình hình nhập, xuất hàng ngày.
Sơ đồ 3 : Trình tự kế toán chi tiết vật liệu theo phương pháp sổ đối chiếu
luân chuyển.

3. Phương pháp sổ số dư
3.1 Nguyên tắc hạch toán vật liệu theo phương pháp sổ số dư.
Phương pháp sổ số dư là một bước cải tiến căn bản trong việc tổ chức hạch toán
chi tiết vật liệu. Đặc điểm nổi bật của phương pháp này là kết hợp chặt chẽ việc hạch
toán nghiệp vụ của thủ kho với việc ghi chép của phòng kế toán. ở kho, chỉ hạch toán về
mặt số lượng và ở phòng kế toán chỉ hạch toán về mặt giá trị của vật liệu, vì vậy đã xoá
bỏ được sự ghi chép trùng lắp giữa kho và phòng kế toán, tạo điều kiện thực hiện và
kiểm tra thường xuyên một cách có hệ thống của kế toán đối với thủ kho, đảm bảo số
liệu kế toán chính xác, kịp thời.
3.2 Trình tự kế toán vật liệu theo phương pháp sổ số dư
Thẻ kho
Chứng từ nhập
Sổ đối chiếu luân chuyển
Chứng từ xuất
Ghi chú
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu, kiểm tra
Bảng kê xuất Bảng kê nhập


Trình tự kế toán chi tiết được khái quát trên sơ đồ số 4.

Sơ đồ 4: Trình tự kế toán chi tiết vật liệu theo phương pháp sổ số dư
Ưu điểm:
+ Tránh được sự ghi chép trùng lặp giữa kho và phòng toán giảm bớt khối lượng
ghi chép kế toán, công việc được tiến hành đều trong tháng.
+ Kế toán thực hiện kiểm tra thường xuyên đối với việc ghi chép của thủ kho
trên thẻ kho cũng như việc bảo quản hàng trong kho của thủ kho.
Nhược điểm:
+ Khó kiểm tra sai sót vì phòng kế toán chỉ theo dõi về mặt giá trị của từng nhóm
vật liệu.
Điều kiện áp dụng:
Phù hợp với các doanh nghiệp có nhiều danh điểm vật liệu, nghiệp vụ nhập, xuất
vật liệu nhiều, dùng giá hạch toán để ghi chép tình hình nhập, xuất, tồn vật liệu và yêu
cầu trình độ kế toán cao.
IV. Hạch toán tổng hợp nguyên vật liệu.
Phiếu giao nhận
chứng từ nhập
Bảng luỹ kế
nh
ập

Bảng kê tổng
h
ợp

Chứng từ xuất
Phiếu giao nhận
chứng từ xuất
Bảng luỹ kế xuất
Ghi chú
Ghi hàng ngày

Ghi cuối
tháng

Đối chiếu, kiểm
tra

Chứng từ nhập
Thẻ
kho

Sổ số dư


Để hạch toán vật liệu nói riêng và các loại hàng tồn kho khác nói chung, kế toán
có thể áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên hoặc phương pháp kiểm kê định kỳ.
Việc sử dụng phương pháp nào là tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp,
vào yêu cầu của công tác quản lý và vào trình độ cán bộ kế toán của doanh nghiệp là tài
sản lưu động của doanh nghiệp tồn tại dưới hình thái vật chất, bao gồm nguyên-vật liệu,
công cụ, dụng cụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hoá. Những thứ này có thể do
doanh nghiệp mua ngoài hay tự sản xuất và được dùng để phục vụ cho quá trình sản
xuất sản phẩm hay thực hiện việc cung cấp lao vụ, dịch vụ hay để bán.
Căn cứ vào giấy báo nhận hàng, khi hàng về đến nơi, doanh nghiệp có trách
nhiệm lập ban kiểm nghiệm để kiểm nghiệm vật tư thu mua cả về số lượng, chất lượng,
qui cách, mẫu mã. Ban kiểm nghiệm sẽ căn cứ vào kết quả kiểm nghiệm thực tế để ghi
vào “Biên bản kiểm nghiệm vật tư”, sau đó, bộ phận cung ứng sẽ lập “Phiếu nhập kho
vật liệu” trên cơ sở hoá đơn, giấy báo nhận hàng và biên bản kiểm nghiệm rồi giao cho
thủ kho. Thủ kho sẽ ghi sổ số thực tế nhập kho vào phiếu rồi chuyển lên phòng kế toán
làm căn cứ ghi sổ. Trong trường hợp phát hiện thừa, thiếu, sai qui cách thì thủ kho phải
báo ngay cho bộ phận cung ứng biết và cùng người giao hàng lập biên bản.
Khi xuất kho vật liệu với các mục đích khác nhau, kế toán sử dụng chứng từ khác

nhau. Trong trường hợp xuất kho vật liệu không thường xuyên với số lượng ít thì sử
dụng “Phiếu xuất vật tư”. Phiếu này được lập làm 3 liên, 1 liên giao cho bộ phận lĩnh
vật tư, 1 liên giao cho bộ phận cung ứng vật tư và 1 liên giao cho thủ kho để ghi vào
kho thẻ kho sau đó chuyển lên phòng kế toán.
Trong trường hợp vật tư xuất thường xuyên trong tháng và doanh nghiệp đã lập
được định mức tiêu hao vật tư cho sản phẩm thì sử dụng “Phiếu xuất vật tư theo hạn
mức”. Phiếu này được lập thành 2 liên, 1 liên giao cho thủ kho, 1 liên giao cho đơn vị
lĩnh, sau mỗi lần xuất kho, thủ kho ghi số thực xuất vào thẻ kho. Cuối tháng hoặc sau
khi đã xuất hết hạn mức, thủ kho phải thu lại phiếu của đơn vị lĩnh, kiểm tra đối chiếu
với thẻ kho, ký và chuyển 1 liên cho bộ phận cung ứng, liên còn lại chuyển cho phòng
kế toán.
Đối với trường hợp xuất bán vật liệu, bộ phận cung ứng sẽ lập “Hoá đơn kiêm
phiếu xuất kho” lập thành 3 liên: 1 liên lưu lại ở phòng cung ứng, 1 liên giao cho khách
hàng và 1 liên thủ kho ghi vào thẻ kho và chuyển lên cho phòng kế toán.


Trường hợp xuất kho vật liệu để gia công chế biến, di chuyển nội bộ, doanh
nghiệp sử dụng “Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ”.
1. Hạch toán tổng hợp vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên.
Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi và phản ánh tình
hình hiện có, biến động tăng, giảm hàng tồn kho một cách thường xuyên, liên tục trên
các tài khoản phản ánh từng loại hàng tồn kho. Phương pháp này được sử dụng phổ biến
hiện nay ở nước ta vì những tiện ích của nó. Tuy nhiên, với những doanh nghiệp có
nhiều chủng loại vật tư, hàng hoá có giá trị thấp, thường xuyên xuất dùng, xuất bán mà
áp dụng phương pháp này sẽ rất tốn nhiều công sức. Song, phương pháp này có độ
chính xác cao và cung cấp thông tin về hàng tồn kho một cách kịp thời, cập nhật. Theo
phương pháp này, tại bất kỳ thời điểm nào, kế toán cũng có thể xác định được lượng
nhập, xuất, tồn kho từng loại hàng tồn kho nói chung và nguyên, vật liệu nói riêng.
Để hạch toán nguyên, vật liệu, kế toán sử dụng các tài khoản như sau:
- Tài khoản 152 - Nguyên liệu, vật liệu”: Tài khoản này được dùng để theo dõi

giá trị hiện có, tình hình tăng, giảm của các nguyên, vật liệu theo giá thực tế, có thể mở
chi tiết theo từng loại, nhóm, thứ tuỳ theo yêu cầu quản lý và phương tiện tính toán.
Bên Nợ: Phản ánh các nghiệp vụ phát sinh làm tăng giá thực tế của nguyên vật
liệu trong kỳ (mua ngoài, tự sản xuất, nhận góp vốn, phát hiện, đánh giá tăng )
Bên Có: Phản ánh các nghiệp vụ phát sinh làm giảm nguyên, vật liệu trong kỳ
theo giá thực tế (xuất dùng, xuất bán, xuất góp vốn liên doanh, thiếu hụt, giảm giá được
hưởng ).
Dư Nợ: Giá thực tế của nguyên, vật liệu tồn kho.
- Tài khoản 151 - Hàng mua đi đường: Tài khoản này dùng theo dõi các loại
nguyên, vật liệu, công cụ, hàng hoá mà doanh nghiệp đã mua hay chấp nhận mua, đã
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng cuối tháng chưa về nhập kho (kể cả số
đang gửi kho người bán).
Bên Nợ: Phản ánh giá trị hàng đi đường tăng.
Bên Có: Phản ánh giá trị hàng đi đường kỳ trước đã nhập kho hay chuyển giao
cho các bộ phận khác sử dụng hoặc giao cho khách hàng.
Dư Nợ: Giá trị hàng đang đi đường (đầu và cuối kỳ).


Ngoài ra, trong quá trình hạch toán, kế toán còn sử dụng một số tài khoản liên
quan khác như 133, 331, 111, 112.
Căn cứ vào giấy báo nhận hàng, nếu xét thấy cần thiết, khi hàng về đến nơi, có
thể lập ban kiểm nhận để kiểm nhận vật liệu thu mua cả về số lượng, chất lượng, quy
cách Ban kiểm nhận căn cứ vào kết quả thực tế ghi vào “Biên bản kiểm nhận vật tư”.
Sau đó bộ phận cung ứng sẽ lập “Phiếu nhập kho” vật tư trên cơ sở hoá đơn, giấy báo
nhận hàng và biên bản kiểm nhận rồi giao cho thủ kho. Thủ kho sẽ ghi số vật liệu thực
nhập vào phiếu rồi chuyển cho phòng kế toán làm căn cứ ghi sổ. Trường hợp phát hiện
thừa, thiếu, sai quy cách, thủ kho phải báo cho bộ phận cung ứng biết và cùng người
giao lập biên bản.
Các chứng từ được sử dụng trong hạch toán vật liệu ở các doanh nghiệp thường
bao gồm: Hoá đơn bán hàng (nếu tính thuế theo phương pháp trực tiếp), Hoá đơn giá trị

gia tăng (nếu tính thuế theo phương pháp khấu trừ), Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển
nội bộ, phiếu nhập kho, phiếu xuất vật tư theo hạn mức, tuỳ theo nội dung nghiệp vụ
cụ thể.
2. Hạch toán tổng hợp tình hình biến động tăng vật liệu
2.1 Đối với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp.
Trình tự hạch toán tổng hợp tình hình biến động tăng vật liệu theo phương pháp
kê khai thường xuyên và tính thuế GTGT trực tiếp được khái quát qua sơ đồ 5.
Sơ đồ 5: Sơ đồ hạch toán tổng hợp vật liệu theo phương pháp kê khai thường
xuyên (tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp).




2.2 Hạch toán tình hình biến động tăng đối với các doanh nghiệp tính thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ.
Đối với các cơ sở kinh doanh đã có đủ điều kiện để tính thuế VAT theo phương
pháp khấu trừ (thực hiện việc mua, bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ ghi chép kế toán
đầy đủ), thuế VAT đầu vào được tách riêng, không ghi vào giá thực tế của vật liệu. Như
vậy, khi mua hàng, trong tổng giá thanh toán phải trả cho người bán, phần giá mua chưa
thuế được ghi tăng giá vật liệu, còn phần thuế VAT đầu vào được ghi vào số được khấu
trừ.
Trình tự hạch toán các nghiệp vụ tăng vật liệu đối với các doanh nghiệp tính thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ được khái quát qua sơ đồ số 4, như sau:
Sơ đồ 6: Hạch toán tổng quát vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên
(tính thuế VAT theo phương pháp khấu trừ)







Tăng do mua ngoài
( Tổng giá thanh toán)
TK 411, 222…
V
ật liệu t
ăng do các nguyên nhân
khác

TK 621
TK 331, 111, 112,
141, 311


TK 152
Xuất để chế tạo sản phẩm
TK 627, 641, 642
Xuất cho nhu cầu khác ở PX, xuất
ph
ục vụ bán hàng, QL, XDCB

TK 632
Xuất bán NVL
TK 151
TK 111, 331
Mua NVL
NVL đi đường
về nhập kho
TK 152
TK 621

Tăng do mua ngoài
TK 1331
Thuế VAT
được khấu trừ
TK 151
Hàng đi đường kỳ trước
TK 411

Xuất để chế tạo sản phẩm
TK 627, 641, 642
Xuất cho CPSX chung,
BH, QL, XDCB
TK 128, 222

Xu
ất góp vốn liên doanh

TK 133
Xuất bán NVL
CK được
hưởng từ
người mua
TK 331, 111,
112,141,
TK 111, 112, 331…
TK 711




















3 Hạch toán vật liệu theo phương pháp kiểm kê định kỳ
3.1 Khái niệm và tài khoản sử dụng
Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp không theo dõi một cách thường
xuyên, liên tục về tình hình biến động của các loại vật tư, hàng hoá, sản phẩm trên các
tài khoản phản ánh từng loại hàng tồn kho mà chỉ phản ánh giá trị tồn kho đầu kỳ và
cuối kỳ của chúng trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ, xác định lượng tồn kho thực tế. Từ đó,
xác định lượng xuất dùng cho sản xuất kinh doanh và các mục đích khác trong kỳ theo
công thức:

Giá trị vật liệu
xuất dùng trong

=

Giá trị vật liệu

tồn kho đầu kỳ

+

Tổng giá trị vật
liệu tăng thêm

-
Giá trị vật liệu
tồn kho cuối

×