Tải bản đầy đủ (.doc) (236 trang)

LUAN AN TIEN SI TRIET HOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.39 KB, 236 trang )

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THÚC LÂN
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY BIỆN CHỨNG
Ở SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 62 22 80 05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội, 2011
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THÚC LÂN
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY BIỆN CHỨNG
Ở SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 62 22 80 05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà
Hà Nội, 2011
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong
luận án là hoàn toàn trung thực; có nguồn gốc, xuất xứ rõ
ràng; nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.


TÁC GIẢ LUẬN ÁN
HOÀNG THÚC LÂN
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thời đại văn minh công nghệ cao, sự phát triển
nhanh chóng của các phát minh khoa học đã làm xuất hiện sự tăng lên theo
cấp số nhân của tri thức nhân loại, trong khi tri thức cũ lại nhanh chóng bị lạc
hậu nên để không bị tụt hậu so với khu vực và thế giới cần phải cập nhật
những thông tin cần thiết để mở rộng và tiếp cận nhanh chóng những tri thức
mới của nhân loại. Muốn đạt được điều đó con người phải được trang bị và
phát huy vai trò của năng lực tư duy biện chứng trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn.
Hơn nữa cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức trong xu thế hội
nhập quốc tế đã và đang đặt ra những thách thức to lớn đối với nước ta nói
chung và sự nghiệp giáo dục đào tạo nói riêng. Sự chuyển đổi cơ chế quản lý
kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa cũng đòi hỏi nền giáo dục phải tạo ra nguồn nhân lực chất
lượng cao, phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, khắc phục dần những thiếu hụt về điều kiện, tiền đề của chủ nghĩa
xã hội mà chúng ta đang xây dựng và hướng tới.
Thực tế nền giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục phổ thông trung học
hiện nay cho thấy, đội ngũ giáo viên có vai trò vô cùng quan trọng, ảnh hưởng
trực tiếp tới giáo dục nhân cách, phẩm chất, lý tưởng, kỹ năng và phương
pháp tư duy, hành động cho học sinh. Tuy nhiên, những năm gần đây chất
lượng giáo dục phổ thông còn có những diễn biến vô cùng phức tạp, thiếu
toàn diện, còn chạy theo chủ nghĩa thành tích, đề cao chuyên môn khoa học
cơ bản, xem nhẹ giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng lao động, phẩm chất công
dân chân chính. Ở một số trường phổ thông hiện tượng học sinh vô lễ với thầy
cô, vi phạm pháp luật, suy thoái đạo đức, bạo lực học đường đang là tiếng

4
chuông báo động đối với toàn xã hội. Thực tế đó phần nào cho thấy một bộ
phận giáo viên trung học phổ thông còn non kém chuyên môn, phương pháp
tư duy thiếu linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo, thiếu toàn diện về nhân cách nên
cần phải nhận thức và xác định rõ nguyên nhân và giải pháp khắc phục những
hạn chế trên.
Nền giáo dục và đào tạo của nước ta những năm qua đã đạt được những
thành tựu to lớn. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo còn thấp so với khu vực và
thế giới. Nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn. Việc tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ cơ bản của
ngành giáo dục, trong đó có ngành sư phạm. Đối với việc đào tạo nguồn nhân
lực, ngành sư phạm có vai trò quan trọng vì đó là ngành tạo ra bản thân người
đi giáo dục. Sinh viên đại học sư phạm cần phải có trình độ chuyên môn cao
để đào tạo nguồn lực lao động tương lai của đất nước. Muốn vậy, một mặt họ
cần nỗ lực học tập, mặt khác cần có phương pháp tư duy đúng đắn. Trong thời
đại ngày nay phương pháp tư duy như vậy chỉ có thể là phương pháp tư duy
biện chứng duy vật. Nắm chắc và vận dụng sáng tạo phương pháp tư duy này,
sinh viên đại học sư phạm sẽ lĩnh hội và truyền đạt tốt hơn kiến thức chuyên
môn cho các thế hệ người học mai sau. Trong những năm qua tuy các trường
đại học sư phạm đã có nhiều cố gắng trong đổi mới nội dung chương trình và
phương pháp đào tạo, nhưng chất lượng và hiệu quả giáo dục vẫn chưa thực
sự đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn xã hội. Không ít sinh viên sư phạm sau khi
tốt nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế về chuyên môn cũng như phương pháp dạy
học. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó là sự yếu kém về năng
lực tư duy biện chứng duy vật của sinh viên đại học sư phạm.
Để khắc phục những hạn chế trên cần phải chú ý tới việc nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo sinh viên sư phạm Việt Nam hiện nay. Bởi lẽ, sinh
viên đại học sư phạm là lực lượng tiếp nối sự nghiệp trồng người nên phải
được rèn luyện và phát triển toàn diện đặc biệt là năng lực tư duy biện chứng.
5

Năng lực tư duy biện chứng là điều kiện quan trọng và cần thiết để sinh viên
sư phạm rèn luyện, phát triển chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm của mình đáp
ứng yêu cầu giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mai sau trở thành công dân có ích cho
xã hội. Tuy nhiên, năng lực tư duy biện chứng của sinh viên sư phạm hiện
nay còn biểu hiện những hạn chế nhất định như chưa thực sự có phương pháp
tiếp cận đối tượng khoa học, khả năng nhận thức và vận dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng cũng như các nguyên tắc, phạm trù, quy luật của
lôgíc biện chứng vào học tập và rèn luyện còn kém hiệu quả; còn mắc phải sai
lầm rời rạc, máy móc, thiển cận, xem xét sự vật cứng nhắc, thiếu mềm dẻo
nên không phản ánh chính xác đối tượng, ảnh hưởng xấu tới kết quả đào tạo.
Thực tế đó đòi hỏi các trường sư phạm phải xác định rõ nguyên nhân để
khắc phục những hạn chế trên, góp phần tạo nên thế hệ giáo viên tương lai có
chuyên môn vững vàng và có bản lĩnh chính trị kiên định, có đạo đức nhà
giáo mẫu mực Nên nhiệm vụ cấp bách hiện nay là cần nghiên cứu và làm
sáng tỏ vai trò, thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng tới việc phát triển năng
lực tư duy biện chứng ở sinh viên sư phạm. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp
cơ bản khắc phục những hạn chế trên. Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Phát triển
năng lực tư duy biện chứng ở sinh viên đại học sư phạm Việt Nam hiện nay”
làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tư duy, tư duy biện chứng, năng lực tư duy biện chứng đã và đang
được tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau và được công bố trên các tài liệu sách, báo, luận văn Thạc sĩ, Tiến sĩ
trong và ngoài nước.
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học tầm cỡ đề cập
đến những vấn đề phép biện chứng, vấn đề nhận thức và lôgíc của triết học
duy vật biện chứng. Rôdentan khi phân tích về vị trí lôgíc biện chứng trong
cuốn sách “Nguyên lý lôgíc biện chứng” và “Những vấn đề về phép biện
6
chứng trong bộ Tư bản của Mác” Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962; tác giả cho

rằng, tư duy là công cụ mạnh mẽ của con người dùng để nhận thức và cải tạo
thế giới. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu đối tượng,
vai trò của lôgíc học đối với quá trình tư duy, chỉ ra những hạn chế của lôgíc
hình thức, phân biệt mối quan hệ và sự khác nhau giữa lôgíc hình thức và
lôgíc biện chứng. Theo ông, lôgíc biện chứng là lôgíc của sự biến hoá, phát
triển nên nó đã khắc phục được những hạn chế của lôgíc hình thức, nó mở
đường cho tính năng động, mềm dẻo của quá trình tư duy, phản ánh sự vận
động, phát triển của bản thân hiện thực. Bên cạnh đó, ông còn phân tích sâu
sắc mối quan hệ giữa lôgíc và hiện thực khách quan, khẳng định những quy
luật của lôgíc không thuần tuý là những quy luật của bản thân tư duy mà suy
cho cùng nó là kết quả của sự khái quát những quy luật của thế giới hiện thực.
Do đó, những quy luật của phép biện chứng cũng chính là những quy luật của
lôgíc biện chứng và tư duy biện chứng
Vấn đề tư duy biện chứng được bàn đến trong quá trình nghiên cứu lịch sử
phép biện chứng. Trong cuốn “Lịch sử phép biện chứng” tập thể tác giả thuộc
Viện Triết học, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô đã tập trung phân tích sự
phát triển của phép biện chứng gắn liền với sự phát triển của tư duy biện
chứng, trong đó phép biện chứng duy vật là hình thức cao nhất của tư duy
biện chứng. Bên cạnh đó, sự đấu tranh giữa phương pháp tư duy biện chứng
và phương pháp tư duy siêu hình, sự chiến thắng của phương pháp tư duy
biện chứng duy vật đã được trình bày một cách hệ thống; đồng thời chỉ rõ tính
chất phản khoa học của phép biện chứng duy tâm và sự phụ thuộc của tư duy
biện chứng duy vật vào điều kiện kinh tế xã hội và các thành tựu khoa học để
khẳng định tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của tư duy biện chứng duy
vật trong việc lý giải các vấn đề thực tiễn đặt ra.
Khi nghiên cứu về lôgíc học hình thức, trong cuốn sách Đ.PGorki, Lôgíc
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1974; tác giả cho rằng chỉ có thể tư duy đúng đắn
7
khi chúng ta vận dụng những tư tưởng có nội dung chân thực và đã được
chứng minh phù hợp với những qui luật của lôgíc học. Tác giả T.I.Ôidecman

(chủ biên) Lịch sử phép biện chứng mác xít - Giai đoạn Lênin”, Nxb Tiến bộ
Mát xcơva, 1987. Tác giả đã chỉ rõ sự sự phát triển của phép biện chứng gắn
liền với sự phát triển tư duy biện chứng, trong đó phép biện chứng duy vật là
hình thức phát triển cao nhất của tư duy biện chứng. Đồng thời, tác giả khẳng
định sự phụ thuộc của phép biện chứng duy vật vào điều kiện kinh tế xã hội
và các thành tựu của khoa học nên nó mang tính khoa học, cách mạng, đúng
đắn trong nhận thức, giải thích và cải tạo thế giới.
A.P.Séptulin đã đi sâu phân tích chức năng phương pháp luận của học
thuyết triết học Mác - Lênin, khẳng định và lý giải phép biện chứng với tư
cách là phương pháp luận nhận thức. Ông đã phân tích và tập trung luận giải
bản chất và những nguyên tắc của phương pháp biện chứng. Trên cơ sở đó đề
ra những yêu cầu, định hướng đối với chủ thể nhận thức trong quá trình
nghiên cứu khách thể; đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa phương pháp biện
chứng với phương pháp của các khoa học cụ thể. Ông đi đến khẳng định
phương pháp nhận thức biện chứng là kết quả của lịch sử phát triển nhận
thức, các quy luật của hoạt động nhận thức được thể hiện qua các quy luật và
phạm trù của phép biện chứng. Trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới
chủ thể tư duy phải tuân thủ các nguyên tắc của phép biện chứng.
Tác giả E.V.Ilencôv trong cuốn “Lôgíc học biện chứng” trình bày các quan
điểm triết học viết dưới dạng bút ký đã phân tích, luận chứng một cách có hệ
thống, sâu sắc về cuộc tranh luận trong lịch sử triết học giữa các trào lưu triết
học duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình về bản chất của tư duy và
khoa học về tư duy. Trên cơ sở đó, ông đã chỉ rõ những sai lầm và hạn chế,
cũng như những đóng góp của các nhà triết học trước đó về các vấn đề triết
học. Theo ông đối tượng nghiên cứu của lôgíc biện chứng: “Lôgíc học biện
chứng nghiên cứu không chỉ là khoa học về “tư duy” mà còn là khoa học về
8
sự phát triển của tất cả các sự vật, vật chất lẫn tinh thần” [52, tr. 20]. Ông còn
khẳng định mâu thuẫn trong quá trình hình thành và phát triển của môn khoa
học này: mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết một cách đúng đắn, khoa

học với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự thống nhất biện chứng
giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học và chỉ có cách hiểu như
vậy mới cho chúng ta cách tiếp cận đúng đắn để đi đến nghiên cứu và thấy
được hết giá trị, ý nghĩa của môn khoa học này.
Trong nước đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, làm sáng tỏ
những vấn đề về nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, lịch sử hình thành của tư
duy và tư duy biện chứng duy vật; mối quan hệ giữa nội dung và phương
pháp, trình độ và năng lực của tư duy, các nguyên tắc và quy luật của tư duy
và tư duy biện chứng duy vật; mối quan hệ giữa tư duy hình thức và tư duy
biện chứng. Tác giả Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải: “Tư duy khoa học trong
giai đoạn cách mạng khoa học - công nghệ”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1998. Tập thể tác giả đã tập trung phân tích và làm sáng tỏ vấn đề tư
duy, bản chất và đặc điểm chủ yếu của tư duy khoa học cũng như một số đặc
trưng của tư duy khoa học trong giai đoạn mới của cách mạng khoa học công
nghệ. Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Đỗ Minh Hợp: “Ý nghĩa của phép
biện chứng Hêghen” (Tạp chí Triết học, số 4/2000), phân tích bản chất của
phép biện chứng của Hêghen và giá trị lịch sử của nó đối với sự ra đời của
phép biện chứng duy vật mácxít; “Vấn đề tư duy trong triết học Hêghen” Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Các tác giả đã tập trung phân tích,
phê phán quan điểm sai lầm của Hêghen về tư duy, chỉ ra những “hạt nhân
hợp lý” của nó cho sự ra đời của tư duy khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin
sau này. Đoàn Thế Hùng, Tìm hiểu sự hình thành tư duy biện chứng mácxít,
(Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội 2004), đã khái quát lịch sử và điều kiện
hình thành, phát triển tư duy biện chứng duy vật từ thời cổ đại đến giai đoạn
Lênin. Trên cơ sở đó, tác giả đã chỉ rõ tiền đề lý luận và vai trò của lôgíc học
9
đối với tư duy biện chứng duy vật; đồng thời phân tích và làm sáng tỏ bản
chất, đặc trưng và thực chất của tư duy biện chứng duy vật; Bùi Thanh Quất,
Bùi Trí Tuệ, Nguyễn Ngọc Hà, Đối tượng, phương pháp nghiên cứu và đặc
điểm của lôgíc biện chứng (Tạp chí Triết học số 7/2001). Nhóm tác giả đã

phân tích đối tượng, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của lôgíc học biện
chứng. Các tác giả cho rằng tư duy biện chứng vừa là đối tượng nghiên cứu,
vừa là công cụ nghiên cứu của lôgíc biện chứng; nghiên cứu lôgíc biện chứng
có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà khoa học tự nhiên trong việc khái quát
các tri thức chuyên ngành, khắc phục tính tự phát của tư duy, nghiên cứu khoa
học; Nguyễn Mạnh Cương, Về bản chất tư duy (Tạp chí Triết học số 1/2004)
đã phân tích, làm rõ nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, lịch sử hình thành và phát
triển tư duy biện chứng duy vật. Tác giả đã phân tích sự phụ thuộc của tư duy
vào hệ thống tri thức và hoạt động thực tiễn của mỗi chủ thể. Đặc biệt tác giả
đã phân tích, chỉ ra mối quan hệ biện chứng, sự khác nhau giữa tư duy chính
xác và tư duy biện chứng duy vật trong quá trình nhận thức; Nguyễn Bá
Dương, Về đặc trưng của tư duy biện chứng duy vật (Tạp chí Triết học số 5/
1991). Tác giả đã đi sâu phân tích năm đặc trưng cơ bản của tư duy biện
chứng duy vật (như tư duy biện chứng là loại hình tư duy phát triển cao nhất
so với các hình thức tư duy trong lịch sử; phản ánh hiện thực đang vận động,
biến đổi; phản ánh đúng sự vận động, phát triển và những mâu thuẫn vốn có
của thế giới khách quan; tư duy biện chứng có tính khách quan; nó là tư duy
khoa học, cách mạng, có tính phê phán và chiến đấu cao, luôn tạo ra sản phẩm
kép). Trên cơ sở đó khẳng định vai trò và tầm quan trọng của tư duy biện
chứng trong nhận thức và cải tạo thế giới; Trần Đình Thoả, Một số vấn đề tư
duy biện chứng mác xít (Tạp chí Triết học số 2/ 2002). Tác giả đã tiếp cận lịch
sử hình thành, phát triển của tư duy biện chứng, so sánh tư duy biện chứng
với các hình thức tư duy khác để chỉ rõ sự khác biệt của tư duy biện chứng
duy vật với các hình thức tư duy khác ở các đặc trưng cơ bản: tính khách
10
quan; tính toàn diện; tính lịch sử; sự thống nhất giữa lịch sử và lôgíc; quá
trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Các công trình nghiên cứu này đã góp phần
làm sâu sắc hơn những vấn đề chung nhất về tư duy biện chứng duy vật và
gợi mở ra nhiều vấn đề mới cần nghiên cứu và làm sáng tỏ hơn.
Về tư duy của đội ngũ cán bộ nước ta. Từ đổi mới tới nay, đã có nhiều

công trình nghiên cứu về đổi mới nội dung và phương pháp tư duy chỉ rõ
nguyên nhân và các giải pháp khắc phục những căn bệnh trong tư duy của đội
ngũ cán bộ nước ta, đặc biệt là năng lực tư duy ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở. Tác giả Đào Duy Tùng, Bàn về đổi mới tư duy, Nhà xuất bản sự thật,
Hà Nội, 1986. Bài viết đã tập trung phân tích sự cần thiết phải đổi mới tư duy,
tư duy lý luận về nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chỉ ra phương
hướng, biện pháp để đổi mới tư duy, đặc biệt là tác giả đã nhấn mạnh sự kết
hợp đổi mới nội dung, phương pháp tư duy phải nắm vững tư duy biện chứng
mác xít, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận, kiểm tra lại
hệ thống tri thức; tích cực nghiên cứu lịch sử tư duy dân tộc và tư duy nhân
loại; Tác giả Nguyễn Văn Linh “Đổi mới tư duy và phong cách tư duy”, Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1987, đã tập trung phân tích và chỉ rõ những hạn
chế của tư duy lý luận của Đảng trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp.
Trên cơ sở đó luận giải sự cần thiết phải đổi mới tư duy và phong cách tư duy
của Đảng và đội ngũ cán bộ lãnh đạo nước ta; đồng thời tác giả đưa ra những
nội dung cần thực hiện đổi mới tư duy. GS. Nguyễn Ngọc Long: “Năng lực tư
duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy” (Tạp chí Cộng sản, số 10/1987)
đã tập trung phân tích bản chất và những yếu tố cấu thành năng lực tư duy lý
luận; sự cần thiết phải phát triển năng lực tư duy lý luận trong thời kỳ đổi mới
đất nước; Tác giả Hồ Văn Thông, Một số vấn đề tư duy và đổi mới tư duy
hiện nay ở nước ta (Tạp chí cộng sản, số 10/1987) đã đưa ra một số nét cơ
bản của tư duy trong mối quan hệ với hoạt động nhận thức và thực tiễn. Tác
giả cho rằng đổi mới tư duy hiện nay cần quán triệt và vận dụng chủ nghĩa
11
Mác - Lênin, nhất là vận dụng những quy luật cách mạng xã hội chủ nghĩa
phù hợp với điều kiện thực tiễn đất nước; Tác giả Nguyễn Đăng Quang, Quan
hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới phương pháp tư duy (Tạp chí Cộng sản số
10/1987) đã chỉ rõ vai trò quan trọng của mối quan hệ giữa nội dung và
phương pháp tư duy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Bên cạnh đó, có
nhiều công trình nghiên cứu bàn về bản chất tư duy, năng lực tư duy, cũng

như tính tất yếu và định hướng chủ yếu trong đổi mới tư duy của các nhà lãnh
đạo Đảng và Nhà nước. Tác giả Trần Văn Phòng, Bệnh kinh nghiệm chủ
nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
(Luận án phó tiến sĩ Triết học, Hà Nội 1994). Tác giả đã đi sâu phân tích và
làm sáng tỏ những hạn chế trong tư duy lý luận của đội ngũ này là “bệnh kinh
nghiệm” và đề xuất những giải pháp căn bản khắc phục căn bệnh này; Hồ Bá
Thâm, Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
xã hiện nay (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 1994). Tác giả tập trung phân tích làm rõ khái niệm năng lực
tư duy, vai trò của năng lực tư duy đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và
mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và chủ quan của chủ thể tư duy. Trên
cơ sở phân tích thực trạng và những yếu kém về năng lực tư duy của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng
lực tư duy của họ; Nguyễn Đình Trãi, Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
cán bộ giảng viên lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh (Luận án
tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994),
đã tập trung phân tích tính tất yếu và sự cần thiết phải nâng cao năng lực tư
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ giảng viên lý luận Mác - Lênin ở trường chính
trị tỉnh; phân tích và làm sáng tỏ đặc thù để đi vào nghiên cứu thực trạng tư
duy lý luận của đội ngũ cán bộ này. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ giảng viên lý luận
Mác - Lênin ở trường chính trị tỉnh; Nguyễn Thị Bích Thuỷ, Vai trò của tư
12
duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo kinh tế trong quá trình đổi mới ở
nước ta (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2001). Tác giả đã tập trung phân tích lịch sử hình thành và đặc điểm
của tư duy biện chứng duy vật, đưa ra định nghĩa về tư duy biện chứng duy
vật của đội ngũ cán bộ kinh tế hiện nay; đồng thời phân tích vai trò của tư duy
biện chứng duy vật đối với đội ngũ cán bộ kinh tế và đánh giá thực trạng của
tư duy biện chứng duy vật ở đội ngũ này để đề xuất những giải pháp cơ bản

nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo kinh tế
ở nước ta hiện nay; Trần Thành, Tư duy lý luận với hoạt động của người cán
bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003). Tác giả tập trung phân tích hệ thống bản chất và kết cấu của tư duy lý
luận, vai trò của tư duy lý luận đối với hoạt động của người cán bộ; Dương
Minh Đức, Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh
trong giai đoạn hiện nay (Qua thực tế ở tỉnh Bắc Giang)”, (Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006) đã đưa ra
định nghĩa năng lực tư duy lý luận và sự cần thiết phải nâng cao năng lực tư
duy lý cho cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay; qua đó đề xuất
một số giải pháp cơ bản để nâng cao hơn nữa năng lực tư duy lý luận cho đội
ngũa này; Vũ Văn Viên, “Nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo - một yếu tố quan trong để nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng” (Tạp chí Triết học, số 12/2007). Tác giả khẳng định nâng cao năng lực
tư duy khoa học cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo là yếu tố quan trọng để nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở đó làm rõ khái niệm năng lực tư duy
khoa học, vai trò của nó đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cũng như các bộ
phận hợp thành nó, tác giả nhấn mạnh một số biện pháp cơ bản để nâng cao
năng lực tư duy khoa học của đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
Nguyễn Đức Quyền, Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt ở tỉnh Lạng Sơn (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã
13
hội, Hà Nội, 2010). Tác giả đã đi sâu phân tích tầm quan trọng của tư duy lý
luận đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và đánh giá thực trạng tư duy lý
luận của đội ngũ này; phân tích và làm sáng tỏ nguyên nhân hạn chế và những
yếu tố ảnh hưởng tới năng lực tư duy của họ. Trên cơ sở đó, tác giả đề ra các
giải pháp nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh trong
giai đoạn hiện nay.
Trong lĩnh vực quân sự, vấn đề tư duy biện chứng cũng đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu trong các bài viết, luận văn thạc sĩ và luận án

tiến sĩ. Tác giả Đào Văn Tiến: Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của đội
ngũ sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam, (Luận án tiến sĩ triết
học, Học viện Chính trị quân sự, Bộ quốc phòng, 1998), đã đi sâu phân tích
và làm sáng tạo các khái niệm cơ bản như tư duy sáng tạo là gì, cấu trúc của
tư duy sáng tạo, phân biệt sự nhau giữa tư duy sáng tạo với tư duy siêu hình,
tư duy biện chứng duy tâm. Tác giả đã chỉ rõ đặc đặc điểm của tư duy sáng
tạo của đội ngũ cán bộ sĩ quan cấp phân đội. Trên cơ sở đó, tác đi sâu khảo sát
thực trạng và nguyên nhân hạn chế tư duy sáng tạo, đề xuất một số giải pháp
cơ bản phát triển tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội trong
những năm tới.
Tác giả Nguyễn Bá Dương, Đặc điểm quá trình phát triển tư duy biện
chứng duy vật của sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam trong
nhận thức nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính
trị quân sự, Bộ quốc phòng, 2000). Tác giả phân tích và làm sáng tỏ bản chất,
đặc trưng vai trò của quá trình phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ
quan cấp phân đội trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc hiện nay; đồng
thời khảo sát, đánh giá thực trạng, đề xuất định hướng, giải pháp phát triển tư
duy biện chứng duy vật của sĩ quan cấp phân đội trong nhận thức nhiệm vụ
bảo vệ tổ quốc; Phạm Thanh Sơn, Một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực
tư duy của đội ngũ cán bộ quan đội trong thời kỳ mới (Tạp chí Nhà trường
14
quân đội, số 4/2005) đã đề xuất một số biện pháp tăng cường rèn luyện
phương pháp tư duy biện chứng duy vật cho đội ngũ cán bộ; kết hợp chặt chẽ
giữa học tập nhà trường với rèn luyện đơn vị, phát huy khả năng tự học; tăng
cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận quốc phòng - quân sự; từng bước
hoàn thiện cơ chế, tổ chức, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội với
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa để nâng
cao năng lực tư duy cho đội ngũ cán bộ quân đội trong giai đoạn hiện nay.
Trần Văn Riễn, Phát triển tư duy biện chứng duy vật của học viên đào tạo sĩ
quan khoa học kỹ thuật quân sự hiện nay, (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện

chính trị quân sự, Hà Nội, 2009). Tác giả phân tích hệ thống lý luận về tư duy
biện chứng duy vật và thực chất phát triển tư duy biện chứng duy vật của học
viên đào tạo sĩ quan khoa học kỹ thuật quân sự. Trên cơ sở phân tích thực
trạng phát triển tư duy biện chứng duy vật và những yếu tố tác động đến tư
duy biện chứng và yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát triển
tư duy biện chứng duy vật của học viên đào tạo sĩ quan khoa học kỹ thuật
quân sự.
Nghiên cứu tư duy biện chứng của học sinh, sinh viên ở nước ta. Gần đây,
có nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu vấn đề rèn luyện, phát triển tư
duy biện chứng cho học sinh, sinh viên theo nhiều góc độ khác nhau. Chẳng
hạn, Vũ Văn Viên, Rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy khoa học cho học
sinh, sinh viên (Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 2/1992) đã tập
trung phân tích và làm sáng tỏ nét đặc thù và sự cần thiết phải phát triển tư
duy khoa học cho học sinh, sinh viên ở nước ta trong giai đoạn hiện nay; tác
giả đã chỉ ra những hạn chế của tư duy khoa học ở các đối tượng này và đề
xuất một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy khoa học của học sinh,
sinh viên hiện nay; Trần Viết Quang, Phát triển năng lực tư duy lý luận cho
sinh viên thông qua giảng dạy triết học Mác - Lênin (Luận văn thạc sỹ Triết
học Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996). Tác giả tập trung phân
15
tích và làm sáng tỏ hệ thống khái niệm tư duy, tư duy lý luận, những yếu tố
ảnh hưởng tới tư duy lý luận; đặc biệt tác giả tập trung phân tích vai trò của
giảng dạy triết học Mác - Lênin trong rèn luyện tư duy lý luận cho sinh viên
và đề xuất các giải pháp cơ bản phát huy vai trò tư duy lý luận thông qua dạy
học triết học Mác - Lênin; Những yêu cầu về rèn luyện, nâng cao năng lực tư
duy cho sinh viên hiện nay (Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 3/
1996). Tác giả đã tập trung phân tích về thực trạng năng lực tư duy ở sinh
viên hiện nay và chỉ rõ đặc thù tư duy sinh viên; đồng thời đề xuất những yêu
cầu cần thực hiện để phát triển năng lực tư duy của họ; Nguyễn Xuân Tạo,
Rèn luyện và nâng cao năng lực tư duy lý luận cho sinh viên trong quá trình

dạy học (Luận văn thạc sĩ Triết học Viện triết học, 1998). Tác giả đã phân tích
một cách có hệ thống về tư duy lý luận ở sinh viên và làm sáng tỏ tầm quan
trọng của quá trình dạy học đối với việc rèn luyện năng lực tư duy lý luận cho
sinh viên. Qua đó, khảo sát, đánh giá những mặt được và chưa được trong quá
trình rèn luyện tư duy lý luận cho sinh viên thông qua hoạt động dạy học; đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò dạy học trong rèn luyện tư
duy lý luận cho sinh viên; Triết học với việc xây dựng năng lực tư duy biện
chứng cho sinh viên sư phạm ở nước ta hiện nay, (Luận án tiến sĩ Triết học,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008). Tác giả đã phân tích
những vấn đề lý luận chung về năng lực tư duy biện chứng, đặc thù của nghề
dạy học, những yếu tố ảnh hưởng tới năng lực tư duy biện chứng; đồng thời
tập trung phân tích thực chất và đặc thù giảng dạy triết học với việc bồi
dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên sư phạm. Trên cơ
sở đó, tác giả tập trung khảo sát và làm rõ thực trạng phát huy vai trò giảng
dạy triết học trong bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy biện chứng cho sinh
viên sư phạm; đi sâu phân tích nguyên nhân hạn chế của việc giảng dạy triết
học để đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa vai trò giảng
dạy triết học trong bồi dưỡng, rèn luyện năng lực tư duy biện chứng cho sinh
16
viên sư phạm nước ta hiện nay; Nguyễn Thanh Hưng, Góp phần rèn luyện và
phát triển tư duy biện chứng cho học sinh thông qua dạy học hình học ở
trường trung học phổ thông, (Luận văn thạc sỹ khoa học Giáo dục, Trường
Đại học Vinh, 2003) đã tập trung phân tích đặc thù học sinh trung học phổ
thông và những yêu cầu cần phải rèn luyện tư duy lôgíc cho họ; đặc biệt luận
văn đã chỉ rõ biện pháp pháp phát huy vai trò của dạy học hình học trong rèn
luyện tư duy biện chứng cho người học ở trường trung học phổ thông hiện
nay; Hoàng Thúc Lân, Triết học Mác - Lênin với việc nâng cao năng lực tư
duy biện chứng cho sinh viên (Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 96/2004),
Giảng dạy triết học Mác - Lênin với việc nâng cao năng lực tư duy biện
chứng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng (Luận văn thạc sỹ Triết học

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004), Một số giải pháp chủ yếu
nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên thông qua phát huy vai
trò giảng dạy Triết học Mác - Lênin (Tạp chí lý luận Khoa học Giáo dục, số
160/2007); Vai trò tư duy biện chứng đối với sinh viên đại học nước ta (Tạp
chí Triết học số 4/2007), Tư duy biện chứng và vai trò của nó trong đào tạo
đại học (Tạp chí Giáo dục số 181/2008). Tác giả đã tập trung phân tích và làm
sáng tỏ hệ thống lý luận về tư duy biện chứng, năng lực tư duy biện chứng;
đặc thù và vai trò của giảng dạy Triết học Mác - Lênin trong nâng cao năng
lực tư duy biện chứng duy vật cho sinh viên đại học, cao đẳng Việt Nam hiện
nay. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn nữa
năng lực tư duy biện chứng duy vật thông qua phát huy vai trò của giảng dạy
triết học Mác - Lênin; Trần Đình Phụng: “Phương pháp phát triển năng lực
tư duy lý luận trong dạy học triết học cho sinh viên trường Đại học An
Giang”, Luận văn thạc sĩ Lý luận và phương pháp dạy học Giáo dục Chính
trị, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2007) đã tập trung phân tích và
làm sáng tỏ phương pháp giảng dạy triết học nhằm phát triển năng lực tư duy
biện chứng cho sinh viên Đại học An Giang; thiết kế một số bài giảng triết
17
học kiểu mẫu nhằm nâng cao chất lượng dạy học triết học trong phát triển tư
duy lý luận cho sinh viên đại học An Giang hiện nay. Trên cơ sở đó khảo sát
thực tiễn, đánh giá thực trạng đổi mới phương pháp dạy học triết học hiện nay.
Như vậy, vấn đề tư duy biện chứng đã được các nhà khoa học trong và
ngoài nước bàn đến ở nhiều góc độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu trên
đã góp phần làm rõ đặc trưng của của tư duy lý luận, tư duy biện chứng duy
vật, thực trạng, thực chất, biểu hiện, đặc trưng và những giải pháp phát triển
tư duy lý luận, tư duy biện chứng duy vật cho cán bộ, học sinh, sinh viên ở
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, phát triển năng lực tư duy biện chứng duy vật ở
sinh viên đại học sư phạm Việt Nam hiện nay thì chưa có công trình nào trực
tiếp đề cập, cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ hơn trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

a. Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển năng lực tư duy biện
chứng ở sinh viên đại học sư phạm nước ta hiện nay.
Về mặt lý luận: Làm rõ khái niệm tư duy biện chứng, năng lực tư duy biện
chứng, đặc điểm, vai trò và những yếu tố ảnh hưởng tới phát triển năng lực tư
duy biện chứng ở sinh viên sư phạm Việt Nam hiện nay.
Về mặt thực tiễn: Khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển năng lực tư duy
biện chứng ở sinh viên sư phạm hiện nay; tìm hiểu nguyên nhân hạn chế năng
lực tư duy biện chứng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển
năng lực tư duy biện chứng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên
sư phạm trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
b. Nhiệm vụ
- Phân tích bản chất, đặc trưng của tư duy biện chứng duy vật.
- Phân tích đặc điểm và thực chất phát triển năng lực tư duy biện chứng ở
sinh viên đại học sư phạm Việt Nam hiện nay và những yếu tố ảnh hưởng tới
việc phát triển năng lực tư duy biện chứng ở đối tượng này.
18
- Phân tích thực trạng phát triển năng lực tư duy biện chứng ở sinh viên đại
học sư phạm nước ta trong thời gian qua.
- Phân tích yêu cầu và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn
nữa hiệu quả của việc phát triển năng lực tư duy biện chứng ở sinh viên đại
học sư phạm nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
a. Đối tượng nghiên cứu: Năng lực tư duy biện chứng duy vật ở sinh viên
đại học sư phạm Việt Nam hiện nay.
b. Phạm vi nghiên cứu:
- Luận án tập trung phân tích và làm sáng tỏ thực trạng phát triển năng lực
tư duy biện chứng duy vật ở sinh viên đại học sư phạm hệ chính quy trong các
hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
- Luận án chỉ tập trung khảo sát một số trường đại học sư phạm ở miền bắc

từ 2004 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin đặc
biệt là phép biện chứng, nguyên lý lý luận nhận thức và lôgíc học, quan điểm
của Đảng về giáo dục và những thành tựu của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước liên quan đến vấn đề này.
b. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp: quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng
hợp, lịch sử - lôgíc, hệ thống hoá, khái quát hoá, thống kê, điều tra xã hội
học…
6. Đóng góp mới của luận án
- Nghiên cứu hệ thống lý luận đặc điểm, yêu cầu, vai trò của việc phát triển
năng lực tư duy biện chứng ở sinh viên sư phạm Việt Nam hiện nay.
19
- Đánh giá thực trạng của việc phát triển năng lực tư duy biện chứng ở sinh
viện đại học sư phạm Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển năng lực tư duy biện
chứng ở sinh viên đại học sư phạm Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu các giải pháp đổi mới nội dung chương trình,
phương pháp giảng dạy ở các trường đại học sư phạm nói chung và với môn
“Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin” ở các trường đại học
sư phạm nước ta hiện nay; qua đó góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng đào
tạo đội ngũ nhà giáo tương lai của đất nước.
- Luận án còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ, giảng
viên, sinh viên sư phạm để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, những công trình

nghiên cứu của tác giả liên quan đến đề tài, luận án bố cục 3 chương 13 tiết.
20
Chương 1
NĂNG LỰC TƯ DUY BIỆN CHỨNG
VỚI SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Tư duy biện chứng và năng lực tư duy biện chứng
1.1.1. Tư duy biện chứng
Tư duy là sản phẩm của dạng vật chất sống có tổ chức cao, phức tạp nên
nó là hoạt động cơ bản, riêng biệt của loài người. Vấn đề tư duy luôn được
các nhà triết học quan tâm nghiên cứu từ thời cổ đại đến nay. Vì vậy, tư duy
được các trường phái triết học trong lịch sử bàn đến và trở thành nội dung
quan trọng trong vấn đề cơ bản của triết học.
Nhận thức của con người ở nhiều cấp độ khác nhau, nhưng chỉ khi nào đi
sâu vào bản chất, quy luật bên trong của hiện thực khách quan mới đạt tới
trình độ tư duy trừu tượng hay nhận thức lý tính. Tư duy là: “Giai đoạn cao
của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của
sự vật bằng những hình thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lý”
[138, tr. 1070].
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, tư duy là sản phẩm của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao; được hình thành trong quá trình nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy là sự phản ánh sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Ph.Ăngghen
cho rằng: “Nếu người ta đặt câu hỏi tư duy, ý thức là gì, chúng từ đâu đến thì
người ta thấy chúng là sản phẩm của bộ óc con người” [77, tr. 55].
Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái quát,
gián tiếp, tích cực và sáng tạo về thế giới. Ở giai đoạn nhận thức lý tính, sự
vật được tư duy con người phản ánh khái quát, gián tiếp trong các khái niệm,
phán đoán và suy lý. Nên khái quát hoá và trừu tượng hoá là hai đặc điểm cơ
bản của tư duy, có mối liên hệ mật thiết với nhau. Tính khái quát, gián tiếp
21

của tư duy biểu hiện ở chỗ, nó đi từ “một hình thức liên hệ và phụ thuộc lẫn
nhau này đến một hình thức khác sâu sắc hơn, chung hơn” [64, tr. 290].
Xét về bản chất, tư duy là một quá trình sáng tạo. Tính sáng tạo là sự hình
thành tri thức mới mang tính qui luật chi phối sự phát triển của các sự vật.
Trong quá trình nhận thức chân lý, chủ thể tư duy phải biết đặt ra các vấn đề
mới và huy động sáng tạo vốn tri thức đã có, bao gồm cả kinh nghiệm sống,
kinh nghiệm nghề nghiệp, tri thức lý luận chung và sự am hiểu cần thiết để
giải quyết chúng bằng phương pháp thích hợp đem lại hiệu quả cao. Vốn tri
thức này có vai trò quan trọng trong quá trình nhận thức, thiếu nó chủ thể sẽ
không có tư duy sáng tạo. Ngoài ra, sự tham gia tích cực của tưởng tượng và
trực giác trong sự sáng tạo của tư duy ở trình độ tư duy lý luận khoa học cũng
thể hiện tính sáng tạo của tư duy.
Tư duy còn mang bản chất xã hội. Khi tư duy xem xét về giới tự nhiên, về
lịch sử xã hội đã đem lại cho con người sự hiểu biết phong phú, đa dạng, phức
tạp về sự vận động, biến đổi, phát sinh và tiêu vong của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan. Tư duy trừu tượng hướng vào việc tìm ra chân lý,
nắm bắt những mối liên hệ khách quan, bản chất, phát hiện ra tính qui luật chi
phối sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhờ tư duy trừu tượng mà
nhận thức của con người đi từ sự hiểu biết ngẫu nhiên, bề ngoài đến quan hệ
có tính tất nhiên, bản chất của các sự vật, hiện tượng. Tư duy giúp chúng ta
nhận thức sự vật trong chỉnh thể thống nhất chứ không dừng lại ở sự hiểu biết
riêng lẻ, tách rời các bộ phận của sự vật, hiện tượng. Hơn nữa, tư duy còn bị
quy định bởi tính chất và trình độ của phương thức sản xuất của mỗi dân tộc,
mỗi thời đại và là kết quả của cá nhân, cộng đồng, của tập thể lao động trong
xã hội loài người. Do vậy, nghiên cứu tư duy không thể xem nhẹ bản chất xã
hội của nó mà phải dựa trên cơ sở kinh tế, văn hoá đặc thù của chế độ xã hội.
Tư duy của con người có mối liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ. Tư duy và
ngôn ngữ có mối quan hệ mật thiết với nhau, kết quả và hình thức biểu đạt
22
của tư duy được ghi lại nhờ ngôn ngữ, nên ngôn ngữ là cái vỏ vật chất và hình

thức biểu hiện, phương tiện của tư duy. Đồng thời, ngôn ngữ là hiện thực trực
tiếp của tư tưởng, phương tiện giao tiếp, trao đổi thông tin giữa người với
người để thu nhận và lưu trữ những tri thức của tư duy, của các thế hệ nối tiếp
trong lịch sử. Tư duy phản ánh sự vật có chức năng khái quát, tạo dựng thông
tin, còn ngôn ngữ có chức năng biểu đạt sự vật và là công cụ chuyển tải thông
tin. Tư duy là nội dung, quyết định việc sử dụng ngôn ngữ, ngược lại ngôn
ngữ có tính độc lập tương đối tác động trở lại tư duy, ngôn ngữ đa dạng,
phong phú giúp tư duy linh hoạt, mềm dẻo, ngôn ngữ nghèo nàn làm cho tư
duy cứng nhắc và bị khúc xạ, méo mó, sai lệch nội dung của tư duy. Tư duy
hình thành, phát triển trong quá trình nhận thức và sự hoàn thiện của bộ não
người; cùng với sự phát triển của thực tiễn, tư duy cũng có quá trình phát triển
riêng của mình. Quá trình đó đi từ thấp đến cao theo các quy luật khách quan
của nhận thức, gắn liền với hai phương pháp tư duy đối lập đó là phương
pháp siêu hình và phương pháp biện chứng. Cuộc đấu tranh giữa phương
pháp biện chứng và phương pháp siêu hình diễn ra trong suốt quá trình phát
triển của tư duy triết học. Phương pháp tư duy siêu hình xem xét, nghiên cứu
sự vật trong trạng thái cô đọng, tĩnh tại, biệt lập, không vận động, không phát
triển với lối tư duy cứng nhắc “chỉ thấy sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy
mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những
sự vật mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của những sự vật ấy chỉ
thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy,
chỉ thấy cây mà không thấy rừng” [77, tr. 37]. Phương pháp tư duy siêu hình
chưa đáp ứng được những đòi hỏi của nhận thức, nó bị phương pháp tư duy
biện chứng phủ định và thay thế. Phương pháp tư duy biện chứng với lối tư
duy linh hoạt, mềm dẻo, nghiên cứu thế giới trong sự vận động, biến đổi, phát
triển và tiêu vong của sự vật, không chỉ thấy sự vật trong trạng thái tĩnh mà
còn thấy sự vật trong trạng thái động. Khẳng định tính đúng đắn của tư duy
23
biện chứng, Ph.Ăngghen đã nêu một cách vắn tắt cái cốt lõi trong quan điểm
biện chứng: “Phương pháp biện chứng là phương pháp, là điều căn bản, là nó

xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối
liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát
sinh và sự tiêu vong của chúng” [77, tr. 38].
Triết học Mác - Lênin phân biệt rõ biện chứng khách quan và biện chứng
chủ quan. Biện chứng khách quan là biện chứng tự thân vốn có của thế giới
khách quan, còn biện chứng chủ quan là tư duy biện chứng. Sở dĩ có tư duy
biện chứng vì tư duy phản ánh đúng biện chứng khách quan vốn có của sự
vật. Tư duy biện chứng được tạo thành bởi những quy luật biện chứng, lấy sự
vật làm cơ sở và vận dụng biện chứng của sự vật vào trong tư duy để nhận
thức đúng bản chất của nó.
Biện chứng chủ quan phản ánh và bị quy định bởi biện chứng khách quan.
Ph.Ăngghen viết: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ
giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì là
sự phản ánh, sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông
qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường
xuyên của chúng và sự chuyển hoá cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này
thành mặt đối lập kia hoặc lên những hình thức cao hơn đã quy định sự sống
của giới tự nhiên” [77, tr. 694].
Tư duy biện chứng là một phạm trù lịch sử luôn vận động, biến đổi, phát
triển, hoàn thiện cùng với sự phát triển sản xuất vật chất và sự tiến bộ của tư
duy con người. Quá trình hình thành, phát triển của tư duy biện chứng đã trải
qua ba hình thức: tư duy biện chứng tự phát cổ đại; tư duy biện chứng duy
tâm, tư duy biện chứng duy vật.
Tư duy biện chứng cổ đại là yếu tố biện chứng tự phát, dừng lại ở trình độ
thấp, cảm tính, thông qua quan sát, mô tả, lấy những yếu tố tự nhiên để giải
thích tự nhiên, chưa đi sâu vào việc mổ sẻ, phân tích, khái quát bản chất, quy
24
luật về thế giới khách quan. Ở phương đông có tư tưởng nhân quả của Phật
giáo, tư tưởng Âm - Dương, Ngũ hành, Đạo ở Trung Quốc cổ đại. Ở phương
tây tư tưởng biện chứng được thể hiện trong triết học Hy Lạp cổ đại như

Hêraclit, Xôcrat, Platon, Arixtốt Ph.Ăngghen nhận xét: “tư duy biện chứng
xuất hiện với tính chất thuần phát tự nhiên của nó” [5, tr. 55]. Tư duy siêu
hình bước sang thế kỷ XVII - XVIII khoa học tự nhiên đặc biệt là cơ học,
thiên văn học và toán học phát triển mạnh mẽ, khoa học thực nghiệm mới thật
sự bắt đầu phát triển, đặt ra yêu cầu phải đi sâu phân tích, chia giới tự nhiên
thành những bộ phận riêng biệt, cố định để nghiên cứu; nên triết học thời kỳ
này mang tính chất siêu hình, máy móc. Do vậy, khi đánh giá về tư duy siêu
hình Ph.Ăngghen nhận xét: “những người tư duy siêu hình nói có là có, không
là không; ngoài cái đó ra chỉ là trò xảo quyệt. Đối với họ thì sự vật hoặc là tồn
tại hoặc là không tồn tại; một sự vật không thể vừa là bản thân nó lại vừa là
một cái khác. Cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau;
nguyên nhân và kết quả cũng đối lập hẳn với nhau” [77, tr. 37]. Chính vì vậy,
tư duy siêu hình chỉ tồn tại trong một giới hạn lịch sử nhất định, nên bị tư duy
biện chứng duy tâm phủ định và thay thế. Sự thay thế đó là tất yếu khách
quan trong tiến trình nhận thức, khám phá thế giới hiện thực. Cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX khoa học tự nhiên chuyển từ giai đoạn sưu tập sang
giai đoạn chỉnh lý tài liệu, đến giai đoạn nghiên cứu quá trình phát sinh, phát
triển của các sự vật, phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp yêu
cầu nhận thức khoa học cần thay vào đó là phương pháp tư duy biện chứng
duy tâm. Tư duy biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ triết học
Cant, phát triển lên đỉnh cao trong phép biện chứng của Hêghen. Trong
“Chống Đuy rinh”, Ph.Ăngghen nhận xét: công lao lớn ở Hêghen là ở chỗ
“ông là người đầu tiên đã coi toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần
như một quá trình, nghĩa là luôn vận động, thay đổi, biến hoá và phát triển, và
trong đó ông đã cố tìm ra mối liên hệ nội tại của sự vận động và phát triển ấy”
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×