Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Luận Văn: Chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng tại Hoài An - Bình Định pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.78 KB, 82 trang )

1
PHẦN DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam liên tục phải đối mặt
với chiến tranh. Mỗi cuộc chiến qua đi để lại những hậu quả nặng nề mà nhân dân ta
phải gánh chịu và khắc phục. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở thế kỉ
XX, những tổn thất của nhân dân ta về người và của, về cơ hội để phát triển đất nước
là vô cùng to lớn. Nó không chỉ ảnh hưởng đến những con người của thời chiến,
những người đã trực tiếp tham gia và cả những người đã đóng góp công sức vào cuộc
kháng chiến “thần thánh” đó, mà những di chứng của nó vẫn gieo rắc lên các thế hệ
tương lai. Khó khăn lại càng chồng chất khó khăn. Điều đó đã tạo ra không ít thách
thức cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cho việc nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân.
Những người đang sống trong thời bình như chúng ta hiện nay, không thể không
thể hiện lòng biết ơn đối với thế hệ cha anh, nhất là những người lính đã trực tiếp ra
chiến trường và những người giúp đỡ cách mạng mà hiện tại đang phải gánh chịu
những nỗi đau cả về thể xác lẫn tâm hồn do chiến tranh để lại. “Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây” là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và để phát huy truyền thống ấy, mỗi
người trong chúng ta có một lúc nào đó trong cuộc sống đã tự hỏi: Chúng ta phải làm
gì để bù đắp và thể hiện lòng biết ơn đối với những người có công cách mạng – những
người mà sức khỏe và điều kiện sống của họ chắc chắn còn gặp nhiều khó khăn?
Chăm sóc sức khỏe và nâng cao đời sống cho người có công là một trong những
chính sách được Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng. Những chính sách cho người có
công cách mạng như: chính sách bảo hiểm y tế, chính sách chăm sóc sức khỏe, chính
sách ưu đãi về kinh tế, chính sách trợ cấp đã được ban hành và thực hiện. Hơn nữa,
được sự chung tay góp sức của toàn cộng đồng, những chính sách này trong nhiều năm
qua đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, công tác “Đền ơn đáp
nghĩa”, chăm sóc sức khỏe và nâng cao đời sống cho người có công cách mạng vẫn
còn gặp rất nhiều khó khăn. Chúng ta vẫn thiếu các nguồn lực để có thể thực hiện một
cách tốt nhất công việc này. Việt Nam là một nước nghèo. Thêm vào đó, những năm
qua do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, của thiên tai hạn hán, lũ lụt


thường xuyên nên điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước càng gặp nhiều
2
khó khăn. Vì thế, công tác “Đền ơn đáp nghĩa”, đặc biệt là vấn đề chăm sóc sức khỏe
cho người có công cách mạng vẫn chưa có điều kiện quan tâm, đầu tư đúng mức.
Như chúng ta đã biết, sức khỏe và chăm sóc sức khỏe có vai trò vô cùng quan
trọng đối với mỗi người. Đối với những người có công CM, nhất là những thương,
bệnh binh vấn đề này càng cấp thiết và cần quan tâm nhiều hơn hết. Tại Hội thảo Công
tác điều dưỡng, chăm sóc sức khoẻ người có công, được Cục người có công (Bộ Lao
động-TBXH) tổ chức ngày 15/4/2010, tại thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hoá đã khẳng
định “Công tác điều dưỡng và chăm sóc sức khỏe, được xem như là một yêu cầu bức
thiết vì rất nhiều đối tượng người có công đã bày tỏ nguyện vọng và mong muốn được
đi thăm quan, nghỉ ngơi điều dưỡng sức khoẻ dù chỉ là một lần”.
Trên thực tế, nhu cầu được điều dưỡng và chăm sóc sức khỏe của người có công
CM tại các cơ sở chăm sóc người có công là rất cao nhưng số lượng được đi điều
dưỡng hàng năm rất ít, còn lại đa số điều dưỡng tại nhà. Tình trạng này cũng là phổ
biến tại Huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Đây là một huyện thuộc căn cứ cách mạng cũ
nên số người có công cách mạng khá đông (2459 người trong đó thương, bệnh binh là
1567 người, chiếm phần đông là 3 xã Ân nghĩa:79 người, Ân Tường Tây: 75 người,
Ân Tường Đông là: 75 người) [12]. Trong những năm vừa qua, mỗi năm chỉ có
khoảng 60 người được đưa đi điều dưỡng tại Trung tâm chăm sóc người có công CM
tại thành phố Quy Nhơn. Để giải quyết vấn đề bất cập này, Sở LĐTB và XH tỉnh Bình
Định đã ra công văn số 225/LĐTBXH – NCC ngày 14/02/2011, nêu rõ “Đối với các
đối tượng thuộc diện điều dưỡng luân phiên 5 năm 1 lần đề nghị Ủy ban nhân dân các
xã, thị trấn phải căn cứ danh sách các năm trước để rà soát, đối chiếu, tránh trùng
lặp, nếu địa phương nào lập danh sách đối tượng chưa đủ 5 năm thì phải chịu trách
nhiệm bồi thường theo quy định”. Mặc dù vậy, công văn này cũng có mặt chưa thỏa
đáng và gây lúng túng cho nhiều địa phương trong quá trình thực hiện bởi ở một số địa
phương đối tượng đủ 5 năm thì thiếu chỉ tiêu, trong khi đó nhiều đối tượng chưa đủ 5
năm lại có nguyện vọng được đi điều dưỡng tiếp.
Những nhu cầu, nguyện vọng của người có công cách mạng về chăm sóc sức

khỏe nếu không được giải quyết tốt, trước hết sẽ trực tiếp tác động xấu đến sức khỏe
và cuộc sống của những người có công cách mạng, sau đó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến
3
chất lượng cuộc sống của gia đình họ cũng như ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế –
xã hội của Huyện và của đất nước nói chung.
Xuất phát từ mong muốn làm được một việc có ích và từ thực tế bất cập giữa nhu
cầu cần chăm sóc sức khỏe của người có công cách mạng và những khó khăn, tồn tại
trong quá trình thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng, nhất
là tại một huyện miền núi còn vô vàn khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội và
chăm lo đời sống của người dân như Hoài Ân, tác giả đã lựa chọn đề tài “Chăm sóc
sức khỏe người có công cách mạng: Thực trạng và giải pháp (điển cứu tại huyện
Hoài Ân, tỉnh Bình Định)” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề
Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta luôn phải đối mặt với những rủi ro, một
trong những rủi ro thường gặp là ốm đau, bệnh tật vì vậy mà vấn đề chăm sóc sức
khỏe gần như là mối quan tâm rất lớn của tất cả mọi người.
Trong những năm qua nước ta cũng nhận thức một cách đúng đắn đầy đủ về tầm
quan trọng của sức khỏe đối với mỗi cá nhân. Đảng và nhà nước đã rất chú ý quan tâm
đến vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người dân, gần đây Đảng, Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách chăm sóc sức khỏe cho toàn dân. Chẳng hạn, văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc có nêu rõ “thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe, đổi
mới cơ chế và chính sách viện phí, trong đó có chính sách trợ cấp và bảo hiểm cho
NCCCM tiến tới bảo hiểm y tế cho người dân”. Hay một loạt các văn kiện khác về vấn
đề này cũng được ban hành như chỉ thị số 16 của Ban bí thư trung ương về củng cố và
hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở.
Cho đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề chăm sóc sức khỏe cho
người dân, trong đó có thể kể đến một số đề tài : “Khảo sát về hệ thống chăm sóc sức
khỏe và kế hoạch hóa gia đình ở nông thôn miền núi, miền Trung” (năm 1992); “Thực
trạng hút thuốc lá tại Việt Nam” (Đại học Califonia tài trợ (năm 1999)), “Đánh giá 10
năm thi hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam” (Uỷ ban bảo vệ,

chăm sóc trẻ em quản lý và tài trợ thực hiện năm 2001) . . . Trong đó đáng chú ý hơn
cả là đề tài “đánh giá tình hình chăm sóc sức khỏe cho người cao ở tuổi Việt Nam”
của nhóm tác giả: Đàm Viết Cương, Trần Thị Mai Oanh, Dương Huy Lương, Khương
Anh Tuấn, Nguyễn Thị Thắng và cộng sự. Đề tài này làm phong phú thêm nguồn tài
4
liệu cho đề tài “Chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng: thực trạng và giải
pháp (điển cứu tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định)”. Đề tài “Đánh giá tình hình
chăm sóc sức khỏe cho người cao ở tuổi Việt Nam” chỉ mới đi sâu vào việc nghiên cứu
thực trạng về bệnh tật, tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế của người cao tuổi; việc
chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi của gia đình; việc triển khai thực hiện các
chính sách chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi để cung cấp bằng chứng khoa học
cho việc xây dựng chính sách và chiến lược nhằm “ nâng cao chất lượng cuộc sống
người cao tuổi”. Nhưng đề tài này chưa đưa ra được những giải pháp để nâng cao
công tác chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi cũng như những giải pháp cho việc
xây dựng chính sách và chiến lược nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống người cao
tuổi như mục tiêu mà đề tài đã đưa ra.
Cho đến nay hầu như có rất ít đề tài nghiên cứu về NCCCM, mà đa số thực trạng
về cuộc sống của họ được thể hiện một phần qua các trang báo: dân trí, báo công an
nhân dân, báo quân đội nhân dân . . . trong đó bài viết “Người bệnh binh già trong căn
nhà xiêu vẹo” trên báo dân trí (thứ tư ngày 12/1/1011). Bài báo này viết về cuộc sống
gia đình người bệnh binh Nguyễn Anh Thập (xã Song Lộc – Can Lộc – Hà Tỉnh) vô
cùng khó khăn: bản thân ông bị bệnh tật hành hạ, vợ con gặp nạn, ốm đau liên miên,
nuôi con cái học hành, gia đình ông lại cưu mang hai cụ già không có con. Họ phải
sống trong một căn nhà xiêu vẹo đe đọa đến tính mạng bất cứ lúc nào. Qua đó phản
ánh thực trạng vẫn còn một số NCCCM chưa được quan tâm, chăm sóc đúng mức,
cuộc sống của họ còn chứa đựng vô vàng khó khăn, thách thức và ẩn hiện những nguy
cơ. Trong quá trình thực tập tác giả cũng đã thực hiện chuyên đề tốt nghiệp “thực
trạng thực hiện công tác điều dưỡng cho người có công cách mạng của phòng LĐ –
TB & XH huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định” . Đề tài này cũng đã phần nào phản ánh
được thực trạng về bệnh tật, thực hiện chế độ điều dưỡng cho NCCCM và đưa ra một

số giải pháp nhằm thực hiện công tác này tốt hơn, tuy nhiên gặp phải một số hạn chế
về thời gian nên đề tài mới phản ánh được một mặt của vấn đề chăm sóc sức khỏe và
chưa phản ánh được đầy đủ thực trạng chăm sóc sức khỏe cho NCCCM. Cho nên
những giải pháp đưa ra chưa mang tính tổng thể, toàn diện để giải quyết triệt và bền
vững vấn đề sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống cho NCCCM.
5
Trên cơ sở kế thừa thành quả của các nghiên cứu có trước, tác giả thực hiện đề
tài “Chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng: thực trạng và giải pháp (điển
cứu tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định)” với mong muốn làm rõ thực trạng về chăm
sóc sức khỏe cho NCCCM, cũng như góp phần đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe NCCCM.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nhằm mục tiêu tìm hiểu cơ sở lý luận về vấn đề chăm sóc sức khỏe cho
NCCCM, thực trạng vấn đề chăm sóc sức khỏe NCCCM ở huyện Hoài Ân đang diễn
ra như thế nào, đã đạt được những kết quả nào, còn những mặt tồn tại, yếu kém nào?
Những thuận lợi và những khó khăn mà công tác này gặp phải là gì? Trên cơ sở đó, đề
tài sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe
của người có công cách mạng đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được những mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, đề tài tập trung giải quyết
những nghiệm vụ sau:
Nghiên cứu lý luận về người có công cách mạng (chủ yếu tập trung vào đối
tượng thương binh và bệnh binh); sức khỏe và chăm sóc sức khỏe; chăm sóc sức khỏe
người có công cách mạng.
Tìm hiểu thực trạng chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng ở huyện Hoài
Ân, tỉnh Bình Định. Chủ yếu là những người đã tham gia cách mạng từ năm 1945 –
1975 họ thuộc nhóm người cao tuổi, độ tuổi đang gặp nhiều vấn đề về sức: Đây là lứa
tuổi có sự lão hóa và xuất hiện nhiều bệnh tật nhất trong các gia đoạn phát triển của
cuộc đời con người cộng thêm những vết thương, bệnh tật do chiến tranh gây ra, cho
nên họ rất cần đến sự can thiệp của hệ thống chăm sóc sức khỏe.

Trên cơ sở tìm hiểu rỏ thực trạng chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng,
tác giả đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đối với công
tác chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng tại địa phương.
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu và đối tượng khảo sát
Đối tượng nghiên cứu
6
Như tên đề tài đã chỉ rõ, đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Thực trạng và giải
pháp chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
Đối tượng khảo sát
Đề tài tiến hành khảo sát 130 thương, bệnh binh.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng huyện Hoài Ân – tỉnh
Bình Định.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
Người có công cách mạng bao gồm rất nhiều đối tượng, trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài, tác giả tập trung vào hai nhóm đối tượng chiếm số lượng rất đông tại
huyện là thương binh và bệnh binh và chỉ khảo sát nhóm đối tượng tham gia cách
mạng trong giai đoạn 1945 – 1975. Đồng thời, đề tài chỉ khảo sát tại 3 xã có số lượng
thương, bệnh binh đông nhất trong Huyện là: Ân Tường Tây, Ân Tường Đông, Ân
Nghĩa
6. Giả thuyết nghiên cứu
Hầu hết người có công cách mạng ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định đã và đang
được chăm sóc sức khỏe theo chính sách của Đảng và Nhà nước.
Người có công cách mạng ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định có nhu cầu cao về
chăm sóc sức khỏe nhưng chất lượng và hiệu quả của công tác này chưa cao do rất
nhiều khó khăn mang lại, nhất là thiếu thốn về tài chính, đội ngũ y, bác sĩ; cơ sở vật
chất nghèo nàn, lạc hậu…
Gia đình, chính quyền các cấp, các cơ sở y tế, đội ngũ y, bác sĩ và cả cộng đồng
có vai trò rất lớn trong công tác chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng. Chính

họ sẽ góp phần không nhỏ vào việc cải thiện tình trạng sức khỏe cho người có công
cách mạng.
7. Phương pháp nghiên cứu và xử lý thông tin
7.1. Phương pháp nghiên cứu
7.1.1. Phương pháp chọn mẫu
Phương pháp này được tác giả lựa chọn sử dụng trong đề tài bởi người có công
cách mạng bao gồm nhiều đối tượng khác nhau và họ sống rải rác trên địa bàn huyện
7
nên rất khó khăn để điều tra tổng thể. Cụ thể của phương pháp này tác giả sử dụng
phương pháp chọn mẫu tỷ lệ, mẫu điều tra được tiến hành trên hai nhóm đối tượng là
thương binh, bệnh binh và được điều tra điển hình tại 3 xã nhiều thương, bệnh binh:
Ân Tường Tây, Ân Tường Đông Ân Nghĩa.
Số lượng mẫu nghiên cứu là 130 đối tượng, đủ đại diện cho thương, bệnh binh
cũng như người có công cách mạng của cả huyện Hoài Ân -tỉnh Bình Định.
Tác giả đã sử dụng phương pháp chọn mẫu tỉ lệ nhưng vẫn đảm bảo tính khoa
học, đảm bảo phản ánh đúng thực trạng công tác chăm sóc sức khỏe cho người có
công cách mạng trên địa bàn Huyện.
7.1.2. Phương pháp thu thập thông tin tư liệu
Thu thập các thông tin từ các nguồn như sách, báo, khóa luận, trên mạng internet,
tạp chí, các báo cáo liên quan đến vấn đề chăm sóc sức khỏe người có công cách
mạng.
Những thông tin thu thập được xử lí theo yêu cầu của khóa luận nhưng vẫn đảm
bảo tính khách quan.
7.1.3. Phương pháp trưng cầu ý kiến
Bảng trưng cầu ý kiến gồm tất cả 28 câu, trong đó có 14 câu hỏi đóng, 13 câu hỏi
vừa đóng vừa mở, 1 câu hỏi mở.
Tổng cộng có 130 phiếu được phát tại 3 xã: Ân Tường Tây, Ân Tường Đông và
xã Ân Nghĩa.
Mục đích của phương pháp này nhằm thăm dò ý kiến của người có công cách
mạng, cụ thể là thương binh và bệnh binh về vấn đề chăm sóc sức khỏe của họ.

7.1.4. Phương pháp phỏng vấn
Nhằm tìm hiểu sâu hơn vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người có công cách mạng,
tác giả tiến hành phỏng vấn sâu 45 đối tượng cụ thể tại xã Ân Tường Tây là 15 người,
xã Ân Tường Đông là 15, xã Ân Nghĩa là 15 người và một số vị lãnh đạo địa phương,
các ban nghành có liên quan như: phòng LĐTB và XH, những người thực hiện chính
sách người có công CM tại các xã, Bệnh viện huyện Hoài Ân, trạm y tế các xã


8
7.1.5. Phương pháp quan sát kèm theo ghi hình
Tác giả sử dụng phương pháp quan sát và ghi hình nhằm phối hợp với phương
pháp trưng cầu ý kiến và phương pháp phỏng vấn với mục đích tìm hiểu và đảm bảo
tính khách quan và độ chính xác của những thông tin thu được.
7.2. Phương pháp xử lý thông tin
7.2.1. Thông tin thu được từ các tài liệu
Tất cả những thông tin thu thập được, tác giả đã tổng thuật, lược thuật theo các
chủ đề, tổng quan tình hình nghiên cứu, xác lập một số lý thuyết, khái niệm làm cơ sở
lý luận, xây dựng giả thiết nghiên cứu, mô tả bối cảnh kinh tế – văn hóa – xã hội ở địa
phương.
7.2.2. Thông tin thu được qua phiếu trưng cầu ý kiến
Phiếu trưng cầu ý kiến chủ yếu được xử lý theo tỷ lệ % trong đó kết hợp với so
sánh tương quan giữa các biến quan trọng để có thể thấy rõ mối quan hệ trong các vấn
đề phân tích.
7.2.3. Thông tin thu được qua phỏng vấn
Những thông tin thu thập được từ các cuộc phỏng vấn sâu được tác ghi băng, ghi
chép sau đó phân loại, chọn lọc, dưới dạng trích dẫn từ các biên bản đã được xử lý và
sử dụng.
7.2.4. Thông tin thu được qua quan sát và hình ảnh
Tác giả tiến hành đối chiếu, so sánh thông tin từ việc quan sát, ghi chép cũng như
những hình ảnh thu được để hình thành câu trả lời và kiểm tra độ chính sát của thông

tin cho bảng hỏi cũng như phỏng vấn sâu.
8. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
8.1. Ý nghĩa lý luận
Những thông tin thu thập được từ nghiên cứu sẽ góp phần làm phong phú thêm
hệ thống cơ sở dữ liệu cho việc phân tích lý luận về người có công cách mạng, người
cao tuổi nói riêng và lý luận về chính sách xã hội nói chung.
9
Là nguồn tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này về lĩnh vực người có
công cách mạng, chính sách xã hội và chính sách chăm sóc sức khỏe cho người có
công cách mạng.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Như chúng ta đã biết, chăm sóc sức khỏe cho người có công cách mạng là một
việc làm vô cùng cần thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng thể hiện tinh thần nhân
văn sâu sắc. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, công tác này gặp rất nhiều khó khăn,
bất cập ở nhiều địa phương. Với kết quả nghiên cứu của đề tài, người thực hiện đề tài
mong muốn sẽ cung cấp những thông tin cụ thể về thực trạng công tác chăm sóc sức
khỏe người có công tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định; gợi mở một số giải pháp để
các cấp, chính quyền địa phương, gia đình, các bên liên quan và cả cộng đồng sẽ nhận
thức rõ và đầy đủ vai trò và trách nhiệm trong quá trình thực hiện công tác chăm sóc
sức khỏe cho người có công cách mạng. Đồng thời, cũng như là một thông điệp hướng
sự quan tâm và chung tay góp sức của cộng đồng, nhất là những người trẻ tuổi ở địa
phương để cùng thực hiện có hiệu quả hơn công tác chăm sóc sức khỏe cho người có
công cách mạng đặc biệt với đối tượng là thương, bệnh binh.
9. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận được cấu trúc làm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết
luận khuyến nghị. Trong đó phần nội dung được chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Thực trạng chăm sóc sức khỏe cho NCCCM huyện Hoài Ân, tỉnh
Bình Định
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc sức khỏe cho

NCCCM huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định

10
PHẦN 2. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.Chính sách xã hội
Chính sách xã hội là những quy định bằng văn bản nhằm để hỗ trợ cho nhóm đối
tượng trong xã hội. Nó thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước và toàn dân
ta đối với họ, góp phần tạo ra sự công bằng, bình đẳng, ổn định, phát triển và tiến bộ
xã hội. Chính sách xã hội bao gồm một số nội dung cơ bản sau:
Chính sách xã hội có những đặc trưng riêng, nhờ vậy, mà người ta có thể phân
biệt nó với các chính sách khác như: chính sách chính sách chính trị, chính sách kinh
tế, tư tưởng. . . xét trên phương diện quản lý những đặc trưng đó là:
Chính sách xã hội bao giờ cũng liên quan đến con người, bao trùm mọi mặt của
cuộc sống con người, lấy con người và các nhóm người làm đối tượng tác động để
hoàn thiện và phát triển con người, hình thành các chuẩn mực và giá trị xã hội.
Chính sách xã hội mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc, bởi vì mục tiêu cơ bản
của nó là hiệu quả xã hội. Công bằng xã hội là nội dung cơ bản của chính sách xã hội.
Nhà nước sử dụng chính sách xã hội như một công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội,
định hướng các giá trị mới, hướng vào cái thiện, cái tốt, hạn chế và đẩy lùi cái xấu, cái
ác.
Chính sách xã hội của nhà nước thể hiện trách nhiệm xã hội cao, tạo những điều
kiện, cơ hội như nhau để mọi người phát triển và hòa nhập cộng đồng.
Hiệu quả chính sách xã hội là ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống,
đảm bảo công bằng xã hội.
Chính sách xã hội còn mang tính kế thừa lịch sử, nó có sự thay đổi theo thời gian
và tùy thuộc vào đặc điểm của từng quốc gia, dân tộc.
Bất kỳ một khoa học nào cũng có đối tượng nhiên cứu của mình, đối tượng
nghiên cứu của khoa học chính sách nói chung và chính sách xã hội nói riêng là hệ
thống chính sách cũng như quy trình chính sách trên thực tiễn (hoạch định, thực thi,

đánh giá chính sách).
Với đối tượng nghiên cứu như trên, chính sách xã hội có những chức năng cơ bản:

11
Chức năng nhận thức: Chính sách xã hội phát hiện ra tính quy luật của xã hội
(phản ánh đời sống văn hóa và các quan hệ văn hóa xã hội), tính quy luật của chính trị
và sự vận động của hệ thống chính trị trong xã hội. Tất cả các quy luật này đều phản
ánh nội dung của chính sách và đóng vai trò quy định nội dung, phương hướng của
chính sách xã hội, nên việc nhận thức nó là hết sức quan trọng của chính sách xã hội.
Chức năng phân tích, dự báo, đề xuất biện pháp cho công tác quản lý xã hội:
một chính sách xã hội khoa học gắn liền với thực tiễn xã hội sẽ giúp cho các nhà quản
lý, lãnh đạo phân tích, dự báo những vấn đề xã hội trong tương lai gần hoặc xa, làm cơ
sở để lượng giá và đề xuất chính sách xã hội.
Chức năng thực tiễn: chính sách xã hội phản ánh đúng thực tiễn, đi vào thực tiễn
một cách thích hợp, nó sẽ làm cho xã hội luôn ở trạng thái ổn định, góp phần hoàn
chỉnh cơ cấu xã hội, đẩy mạnh tính tích cực của các thành viên trong xã hội, sử dụng
tốt tiềm năng lao động của đất nước. Sự hoàn thiện chính sách xã hội phụ thuộc vào sự
tăng trưởng và phát triển xã hội, nhưng chính sách xã hội không hoàn toàn phụ thuộc
một cách máy móc mà có tính độc lập tương đối.
Mục tiêu của khoa học chính sách xã hội là thông qua việc nghiên cứu thực tiễn
các chính sách để tìm ra những giải pháp để cải tiến hệ thống chính sách, nâng cao
chất lượng hoạch định và thực thi chính sách của nhà nước hướng đến mục tiêu cuối
cùng là công bằng, an sinh và tiến bộ xã hội.
Do mục tiêu và chức năng của mình, chính sách xã hội đã trở thành một lĩnh vực
rất rộng lớn, hoặc có thể xem là nó thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội.
Có thể phân chia chính sách xã hội theo nhiều khía cạnh để tìm hiểu hoặc quản lý. Có
thể nói chính sách xã hội ở cấp độ nhà nước, khu vực, nơi làm việc, cộng đồng. Chính
sách xã hội có thể phân chia theo các nhóm xã hội được tác động: nhóm nghề nghiệp,
giới, tuổi, tộc người. Thông thường, người ta nói đến những lĩnh vực chủ chốt sau đây:
chính sách bảo đảm thu nhập trong trường hợp bình thường hoặc gặp rủi ro, chính sách

thị trường lao động, chính sách xã hội doanh nghiệp, chính sách nhà ở, chính sách gia
đình, phụ nữ và trẻ em, chính sách xã hội trong giáo dục, chính sách xã hội trong y tế,
chính sách giúp đỡ thanh niên, chính sách người cao tuổi, trợ giúp xã hội. . . [8; 9 – 11]
Do hoàn cảnh đất nước ta có lịch sử phát triển khác với các nước khác cho nên
chính sách xã hội được nhận thức và thực hiện cũng mang đặc điểm riêng biệt.

12
Trước thời kỳ đổi mới (năm 1986) ở nước ta chính sách xã hội chưa được nhận
thức đầy đủ. Còn tồn tại quan niệm chính sách xã hội chỉ là những chính sách dành
cho những đối tượng xã hội đặc biệt thiếu khả năng lao động hoặc cần ưu đãi. Nhiều
người coi chính sách xã hội là chính sách cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội và bảo hiểm xã
hội. Nhiều vấn đề ở tầm vĩ mô như dân số, việc làm, thiết kế, những phương án phát
triển chưa tính toán đầy đủ đến những vấn đề xã hội và môi trường xã hội cần thiết cho
con người. Đôi khi chính sách kinh tế tách rời chính sách xã hội, còn chính sách xã hội
đôi khi vượt quá trình độ phát triển của nền kinh tế. Chủ nghĩa bình quân không chỉ
trong phân phối thu nhập nói chung, mà cả trong việc thực hiện chính sách xã hội.
Nhiều nhu cầu xã hội của cá nhân đáng được thỏa mãn nhưng lại đồng hóa trong tập
thể, cộng đồng. Những đặc điểm khác biệt của cá nhân ít được quan tâm. Chính sách
xã hội chưa được nhận thức và thực hiện đầy đủ với tất cả những yêu cầu của nó.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với đường lối đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm và thực hiện ngày càng tốt chính sách xã hội. Vấn đề xã hội
được tính đến nhiều hơn trong các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội.
Chính sách xã hội được nhận thức một cách toàn diện trên cả tầm vĩ mô và vi mô.
Nhân tố con người và những điểm khác biệt của cá nhân đã được chú trọng.
Thực hiện chính sách xã hội được xem là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của
tất cả các lực lượng xã hội chứ không còn là nhiệm vụ của riêng nhà nước như giai
đoạn trước đây. Chủ nghĩa bình quân cũng được khắc phục. Với chính sách mở cửa
tạo điều kiện để chúng ta huy động tiềm lực quốc tế cho việc giải quyết nhiều vấn đề
xã hội do các cuộc chiến trong lịch sữ để lại cũng như những vấn đề mới xuất hiện do
ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường [8; 55].

1.2. Chính sách xã hội cho người có công CM
Chính sách xã hội cho người có công cách mạng thể hiện truyền thống tốt
đẹp của chúng ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, nó thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng
và nhà nước ta với thế hệ đã “sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ
quốc”. Trong đó có rất nhiều chính sách cụ thể: chính sách trợ cấp, chính sách bảo
hiểm, chính sách điều dưỡng, chính sách chăm sóc sức khỏe, chính sách ưu đãi trong
kinh tế… cho người có công. Trong đề này tác giả thực hiện nghiên cứu về chính sách
chăm sóc sức khỏe cho người có công.

13
Chính sách chăm sóc sức khỏe cho người có công, người có công CM đặc
biệt là nhóm đối tượng thương binh, bệnh binh là những người rất cần đến chế độ
chăm sóc nhất là vấn đề chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống, cụ thể
người có công cách mạng được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe được quy định trong
Thông tư liên tịch số 17/2006/TTLT-BLĐTBXH-BTC-BYT ngày 21 tháng 11 năm
2006 của liên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội – Bộ Tài chính – Bộ Y tế, theo
thông tư chế độ chăm sóc sức khỏe đối với NCCCM cụ thể như sau:
Chế độ bảo hiểm và quyền lợi về bảo hiểm y tế của người có công CM
Những đối tượng có công cách mạng được hưởng bảo hiểm y tế bao gồm: người
có công với cách mạng và thân nhân của họ được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo quy định
của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng và pháp luật về bảo hiểm y tế.
Người có công với cách mạng và thân nhân của họ được hưởng quyền lợi về
chăm sóc sức khỏe theo quy định của Luật bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14
tháng 11 năm 2008 của Quốc hội khóa XII và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Chế độ điều dưỡng
Là một trong những chế độ rất tốt và đạt hiệu quả cao, có tầm quan trọng góp
phần nâng cao sức khỏe người có công cách mạng và nó nhiệt liệt được hưởng ứng.
Nó được chia ra làm hai phương thức điều dưỡng đó là:
Điều dưỡng mỗi năm một lần, bao gồm những đối tượng như sau: người hoạt
động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; người hoạt động cách mạng từ

ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945; bà
mẹ Việt Nam anh hùng; thương binh, người hưởng chính sách như thương binh,
thương binh loại B (gọi chung là thương binh), bệnh binh có tỷ lệ suy giảm khả năng
lao động do thương tật, bệnh tật từ 81% trở lên đang sống tại gia đình; người có công
giúp đỡ cách mạng được Nhà nước tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc
Bằng “Có công với nước”; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học
suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Điều dưỡng luân phiên 5 năm một lần, gồm những đối tượng sau: cha đẻ, mẹ đẻ,
vợ hoặc chồng của liệt sĩ, người có công nuôi dưỡng liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân, Anh hùng lao động trong kháng chiến; người có công giúp đỡ cách
mạng trong kháng chiến; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy

14
giảm khả năng lao động dưới 81%; thương binh, bệnh binh có tỷ lệ suy giảm khả năng
lao động do thương tật, bệnh tật dưới 81% đang sống tại gia đình; người hoạt động
cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày.
Trong đó có những quy định về kinh phí và nơi điều dưỡng cụ thể:
Điều dưỡng tại các cơ sở điều dưỡng
Thời gian điều dưỡng tối đa là 10 ngày (không kể thời gian đi và về).
Mức chi điều dưỡng: 1.500.000 đồng/người/lần, bao gồm:
Tiền ăn sáng và 2 bữa chính: 1.100.000 đồng.
Thuốc bổ và thuốc chữa bệnh thông thường: 100.000 đồng.
Quà tặng đối tượng: 100.000 đồng.
Chi khác (khăn mặt, xà phòng, bàn chải, thuốc đánh răng, nghe chuyện thời sự,
tham quan, chụp ảnh, phục hồi chức năng,…): 200.000 đồng.
Điều dưỡng tại gia đình
Mức chi điều dưỡng là 800.000 đồng/người/lần. [5]
Chế độ chăm sóc sức khỏe cho thương binh
Theo điều 20, 21, 22 của Pháp lệnh ưu đãi người có công cách mạng thì thương
binh được hưởng các chế độ chăm sóc sức khỏe như sau:

Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ suy giảm khả năng
lao động và loại thương binh.
Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng lao động; cấp
phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào thương tật của từng người và khả
năng của Nhà nước; thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên được Nhà
nước mua bảo hiểm y tế cho con từ mười tám tuổi trở xuống hoặc trên mười tám tuổi
nếu còn tiếp tục đi học hoặc bị bệnh, tật nặng từ nhỏ khi hết thời hạn hưởng bảo hiểm
y tế vẫn bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên an dưỡng ở gia đình thì
người phục vụ được Nhà nước mua bảo hiểm y tế và trợ cấp hàng tháng.
Cơ sở sản xuất, kinh doanh dành cho thương binh, bệnh binh được Nhà nước hỗ
trợ cơ sở vật chất ban đầu, bao gồm nhà xưởng, trường, lớp, trang bị, thiết bị, được
miễn hoặc giảm thuế, vay vốn ưu đãi theo quy định của pháp luật.


15
Chế độ chăm sóc sức khỏe đối với bệnh binh
Theo điều 23, 24, 25 của Pháp lệnh ưu đãi người có công cách mạng thì bệnh
binh được hưởng các chế độ chăm sóc như sau:
Trợ cấp hàng tháng theo tỷ lệ mất sức lao động.
Bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khoẻ, phục hồi chức năng lao động; cấp
phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào tình trạng bệnh tật của từng người
và khả năng của Nhà nước.
Bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên được Nhà nước mua bảo
hiểm y tế cho con từ mười tám tuổi trở xuống hoặc trên mười tám tuổi nếu còn tiếp tục
đi học hoặc bị bệnh, tật nặng từ nhỏ khi hết thời hạn hưởng bảo hiểm y tế vẫn bị suy
giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên an dưỡng ở gia đình thì
người phục vụ được Nhà nước mua bảo hiểm y tế và trợ cấp hàng tháng.
Tổ chức thực hiện và những yêu cầu thực hiện chế độ chăm sóc sức

khỏe cho người có công CM
Tổ chức thực hiện
Căn cứ vào những quy định trên các tổ chức, cá nhân ban ngành có liên quan: Bộ
LĐ – TB&XH, Bộ tài chính, Bộ y tế, phòng LĐ – TB&XH ở địa phương, các trung
tâm chăm sóc người có công … tổ chức thực hiện, cụ thể là:
Hàng năm, căn cứ dự toán chi ưu đãi người có công và số lượng thực tế các đối
tượng thuộc diện điều dưỡng của từng địa phương, Bộ lao động – thương binh và xã
hội phối hợp với Bộ tài chính phân bổ kinh phí ngay từ đầu năm cho Sở lao động –
thương binh và xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ đó triển khai
xuống các Phòng lao động – thương binh và xã hội triển khai thực hiện đúng theo quy
định.
Sở lao động – thương binh và xã hội lập danh sách đối tượng được điều dưỡng
trong năm và ra quyết định điều dưỡng người có công.
Sở lao động – thương binh và xã hội lập kế hoạch chi tiết phân bổ xuống Phòng
lao động – thương binh và xã hội, phòng LĐ – TB&XH, hai bên phối hợp tổ chức thực
hiện đưa đối tượng đi điều dưỡng tại các cơ sở điều dưỡng hoặc điều dưỡng tại gia

16
đình theo quy định. Sở lao động – thương binh và xã hội phối hợp với Sở Y tế thực
hiện thăm khám sức khỏe cho đối tượng điều dưỡng tại gia đình.
Kinh phí chi tiền điện, nước sinh hoạt, văn nghệ, báo chí được giao dự toán trực
tiếp cho các cơ sở điều dưỡng người có công với cách mạng do Ngành lao động –
thương binh và xã hội quản lý theo quy định tại Điều 5 của Thông tư liên tịch số
47/2009/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 11/3/2009.
Những yêu cầu đặt ra khi thực hiện
Đòi hỏi cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, đặc biệt là ngành LĐ –
TB&XH và ngành y tế, các tổ chức đoàn thể, người được điều dưỡng.
Đòi hỏi khi thực hiện đảm bảo thực hiện đúng quy định của các chính sách.
Trong thời gian điều dưỡng tập trung nếu bị ốm đau đột xuất thì được giới thiệu
đi điều trị tại bệnh viện gần nhất theo chế độ bảo hiểm y tế hiện hành.

Trường hợp đối tượng đi điều dưỡng tập trung, nếu không ở hết thời gian của đợt
điều dưỡng thì không được thanh toán lại tiền. Số kinh phí còn lại do Sở lao động –
thương binh và xã hội quản lý để tăng số đối tượng hưởng chế độ điều dưỡng hàng
năm [5].
1.3. Các khái niệm liên quan
1.3.1. Chính sách xã hội
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách xã hội trong đó định nghĩa của
PGS.TS. Lê Trung Nguyệt được xem là đầy đủ chính xác, nó chỉ rõ chủ thể xây dựng
chính sách và đề ra nhiệm vụ cụ thể của chính sách xã hội.
“Chính sách xã hội là loại chính sách được thể hiện bằng pháp luật của nhà
nước thành một hệ thống quan điểm, chủ trương phương hướng và biện pháp để giải
quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề liên quan đến công
bằng xã hội, và phát triển an sinh xã hội, nhằm góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ
xã hội” [8; 7].
1.3.2. Quan niệm về người có công cách mạng
Cho đến nay, hầu như chưa có một định nghĩa cụ thể về người có công cách
mạng. Theo Pháp lệnh ưu đãi dành cho người có công cách mạng, ban hành theo quyết
định năm 2005 “Người có công cách mạng" là những người:

17
Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945.
Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng khởi
nghĩa 19 tháng Tám năm 1945.
Liệt sĩ.
Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động.
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh.
Bệnh binh.
Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học.
Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày.

Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa
vụ quốc tế.
Người có công giúp đỡ CM.
Thân nhân của những người có công cách mạng.
Trong đó được khái niệm một cách rõ ràng về từng loại đối tượng cụ thể:
Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 là người
được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đã tham gia tổ chức cách mạng trước
ngày 01 tháng 01 năm 1945.
Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước
Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945 là người được cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền công nhận đứng đầu một tổ chức quần chúng cách mạng cấp xã hoặc thoát ly
hoạt động cách mạng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19
tháng Tám năm 1945.
Liệt sĩ là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của nhân dân được Nhà
nước truy tặng Bằng "Tổ quốc ghi công" thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; trực tiếp đấu tranh chính trị, đấu tranh
binh vận có tổ chức với địch; hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt,
tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh hoặc thực hiện chủ trương
vượt tù, vượt ngục mà hy sinh; làm nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh chống tội phạm; dũng
cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh; dũng cảm

18
cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân; do ốm đau, tai nạn khi đang làm
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn.
Bà mẹ Việt Nam anh hùng là những bà mẹ có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hay có thể hiểu bà
mẹ Việt Nam anh hùng là người đã sinh ra và nuôi dưỡng những đưa con liệt sĩ, theo
quy định ít nhất là 2 người con.

Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh
Thương binh là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy giảm khả năng
lao động từ 21% trở lên, được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp "Giấy chứng nhận
thương binh" và "Huy hiệu thương binh" thuộc một trong các trường hợp sau đây:
chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất
phục, kiên quyết đấu tranh, để lại thương tích thực thể; làm nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh
chống tội phạm; dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc
phòng, an ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân; làm
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn. Trong đó được chia ra làm 4 loại: thương binh loại 1 (trên 81% ), thương binh
loại 2 (từ 61% - 80% ), thương binh hạng 3 (từ 41% - 60% ), thương binh loại 4 (từ
21% - 40% ).
Người hưởng chính sách như thương binh là người không phải là quân nhân,
công an nhân dân, bị thương làm suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên thuộc
một trong các trường hợp tại Điều 19 (quy định về thương binh) được cơ quan có thẩm
quyền cấp "Giấy chứng nhận người hưởng chính sách như thương binh".
Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh được gọi chung là
thương binh.
Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao
động từ 61% trở lên khi xuất ngũ về gia đình được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp
"Giấy chứng nhận bệnh binh" thuộc một trong các trường hợp sau đây: chiến đấu hoặc
trực tiếp phục vụ chiến đấu; hoạt động ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn từ 3 năm trở lên; hoạt động ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn chưa đủ 3 năm nhưng đã có đủ 10 năm trở lên công tác trong Quân đội nhân

19
dân, Công an nhân dân; đã công tác trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đủ 10
năm nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí; làm nghĩa vụ quốc tế; dũng cảm
thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh.
Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao

động từ 41% đến 60% đã được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền công nhận trước ngày
31 tháng 12 năm 1994.
Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là người được cơ
quan có thẩm quyền công nhận đã tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại
các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hoá học, bị mắc bệnh làm suy giảm khả
năng lao động, sinh con dị dạng, dị tật hoặc vô sinh do hậu quả của chất độc hoá học.
Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù,
đày là người được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền công nhận trong thời gian
bị tù, đày không khai báo có hại cho cách mạng, cho kháng chiến, không làm tay sai
cho địch.
Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế được hưởng các chế độ ưu đãi quy định tại Điều 31 của
Pháp lệnh ưu đãi người có công cách mạng (về trợ cấp, bảo hiểm) là người
tham gia kháng chiến được Nhà nước tặng “Huân chương kháng chiến”, “Huy
chương kháng chiến”.
Người có công giúp đỡ cách mạng là người đã có thành tích giúp đỡ cách mạng
trong lúc khó khăn, nguy hiểm, bao gồm: Người được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc
ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước"; người trong gia đình được tặng Kỷ niệm
chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước" trước cách mạng tháng
Tám năm 1945; người được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng
chiến; người trong gia đình được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương
kháng chiến [17].
Chúng ta có thể nhận thấy rằng người có công CM bao gồm rất nhiều đối tượng
nhưng trong đề tài này tác giả chỉ tìm hiểu về chăm sóc sức khỏe thương, bệnh binh
hơn ai hết họ là những người rất cần đến hệ thống chăm sóc sức khỏe. Ở đối tượng
thương, bệnh binh được chia ra làm nhiều loại đối tượng khác nhau và trong khóa luận
này tác giả tìm hiểu những người thương, bệnh binh chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ

20
chiến đấu; bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh, để lại

thương tích thực thể hoặc bệnh tật trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
và cuộc chiến chống Mỹ (1954 - 1975).
1.3.3. Sức khỏe và chăm sóc sức khỏe
Sức khỏe
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về sức khỏe, theo Tổ chức Y tế thế giới WHO
đã đưa ra định nghĩa “Sức khỏe là một trạng thái sản khoái đầy đủ về thể chất, tinh
thần và các quan hệ xã hội, nó không chỉ bó hẹp vào nghĩa là không có thương tật hay
bệnh tật xã hội” [18; 55].
Như vậy có thể hiểu một người hoàn toàn khỏe mạnh phải là một người có đầy
đủ sức khỏe về thể chất, tinh thần và có các mối quan hệ xã hội tốt đẹp. Cụ thể: Một
người được xem là có sức khỏe thể chất không những không có thương tật, bệnh tật
mà các hoạt động về thể lực cũng như tất cả các hoạt động sống đều ở trạng thái tốt
nhất và phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh, lứa tuổi . . .; sức khỏe tâm thần là một
trạng thái không chỉ không có rối loạn hay dị tật tâm thần mà còn là một trạng thái tâm
thần hoàn toàn thoải mái, bình an trong tâm hồn và biết chấp nhận những căng thẳng
trong cuộc sống cũng như cần phải có chất lượng nuôi sống tốt, có được sự cân bằng
và hòa hợp giữa cá nhân, những người xung quanh và môi trường; để đạt được trạng
thái hoàn toàn thoải mái về mặt xã hội tức là phải có thu nhập đủ sống, an sinh xã hội
được đảm bảo, thiết lập và duy trì các mối quan hệ tốt đẹp, thuận lợi với người thân
trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm, rộng hơn là cộng đồng và xã hội . . .
kết hợp hài hòa giữa lợi ích các nhân với lợi ích của người khác đồng thời được cống
hiến cho cộng đồng, xã hội và được mọi người thừa nhận.
Có được một cơ thể khỏe mạnh là mơ ước - mục tiêu - mục đích mà mọi người
hướng đến và cố gắng thực hiện mọi biện pháp để đạt đến cái ngưỡng đó. Tất cả
những yếu tố về sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần, quan hệ xã hội được kết hợp
một cách hài hòa và đảm bảo sẽ làm nên vẻ đẹp sáng ngời của một con người, như cha
ông ta đã từng khẳng định “Bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành
cơm”. Các yếu tố này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại, ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nhau, nếu thiếu một trong các thành tố trên sẽ không làm nên sức khỏe
con người. Vì vậy, mỗi chúng ta cần có sự chăm lo phát triển một cách hợp lý, hài hòa


21
cân đối giữa các yếu tố để đạt đến một trạng thái sức khỏe tốt và có cuộc sống lý tưởng
nhất.
Định nghĩa trên đã chỉ cho chúng ta thấy rõ trạng thái sức khỏe cần đạt được để
từ đó mỗi cá nhân hướng đến và vạch ra mục tiêu, phương pháp để đạt được. Tuy
nhiên, định nghĩa trên cũng gặp phải hạn chế là chưa đưa ra được mục tiêu, phương
pháp, kế hoạch thực hiện cho các lực lượng tham gia vào quá trình chăm sóc sức khỏe.
Quan điểm về chăm sóc sức khỏe
Việc chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ trước hết phải do chính bản thân mỗi cá nhân
thực hiện. Tục ngữ cũng đã dạy: “Tiền bạc là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là
quá khứ, sức khoẻ là của chính mình”.
Đầu tư chăm sóc sức khoẻ là phải đầu tư chăm sóc ngay khi còn đang khoẻ
mạnh, khi chưa thành bệnh mới là đầu tư chăm sóc có ý nghĩa và hiệu quả kinh tế cao
nhất.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên có thể hiểu:
chăm sóc sức khỏe là những hoạt động nhằm nâng cao sức khỏe của con người. Theo
WHO thì nâng cao sức khỏe chính là sự hổ trợ mà trong đó quan trọng nhất là tạo khả
năng cho người dân kiểm soát và nâng cao sức khỏe của mình. Chi tiết hơn, nguyên lý
thực hiện nâng cao sức khỏe thể hiện ở 3 hoạt động chính đó là:
Xây dựng chính sách là hoạt động nhằm thúc đẩy sự hoàn thành các chính sách
mang lại sức khỏe cho người dân.
Tạo khả năng là hoạt động nhiều mặt bao gồm môi trường thuận lợi, cung cấp
thông tin, hướng dẫn kỹ năng sống và tạo ra các cơ hội giúp người dân có khả năng
chọn lựa những điều kiện có lợi cho sức khỏe.
Phối hợp liên ngành là tạo điều kiện phối hợp các ban ngành, đoàn thể, tổ chức
xã hội, tập thể nhằm tăng cường phối hợp để tạo được hiệu quả tốt cho sức khỏe người
dân đến mức cao nhất.
Ba hoạt động trên nói lên cơ chế nâng cao sức khỏe là: “môi trường lành mạnh”,
“tự chăm sóc”, và “trợ giúp lẫn nhau”.

Có rất nhiều ý kiến, cách thức và những yêu cầu đặt ra cho mỗi cá nhân cũng như
cộng đồng trong việc chăm sóc bảo vệ và nâng cao sức khỏe. Tuy nhiên có thể thấy
chăm sóc sức khỏe thường tập trung vào 3 lĩnh vực như sau:

22
Chăm sóc sức khỏe thể chất
Trước tiên một yêu cầu chung và vô cùng quan trọng đặt ra cho mỗi cá nhân là
cần phải chăm sóc sức khỏe của mình một cách tích cực chủ động, thay vì đợi bị
bệnh và đi chữa bệnh. Để có sức khỏe thể chất tốt cần phải khám sức khỏe tổng quát;
không nên hút thuốc lá; uống rượu bia có chừng mực; cần phải chú ý đến cân nặng của
cơ thể; cần chú ý đến lượng cholesteron trong máu; chú ý đến việc cung cấp dinh
dưỡng cho cơ thể; cần sắp xếp một chương trình vận động cho cơ thể (thời khóa biểu);
phải luôn lượng khả năng và giới hạn sức khỏe của bản thân.
Chăm sóc sức khỏe tinh thần
Để có được sức khỏe tinh thần tốt nhất có các yêu cầu đặt ra đối với mỗi cá thể
đó là học cách tự đánh giá bản thân một cách lành mạnh; biết cho và nhận; tạo dựng
mối quan hệ gia đình tích cực; biết đề ra những ưu tiên cho bản thân mình phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh; cần dành thời gian để nghỉ ngơi và đi du lịch tham quan; cần phải
trang bị cho bản thân những cách quản lý và đối phó với stress hiệu quả nhất; phải
luôn luôn sống lạc quan, yêu đời; hãy học cách ứng phó với những thay đổi có thể ảnh
hưởng đến bản thân (tăng cường khả năng thích ứng) biết cách điều chỉnh và ứng phó
cảm xúc của bản thân, đặc biệt là những xúc cảm tiêu cực, hướng vào bản thân.
Quan hệ xã hội
Đây cũng là một lĩnh vực ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của mỗi cá thể, mỗi
người cần tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội thể dục thể thao, văn hóa, tham
gia các tổ chức, đoàn thể xã hội, tạo lập và duy trì các mối quan hệ với bạn bè, đồng
nghiệp.
Như chúng ta đã biết sức khỏe con người là tổng hòa các yếu tố về sức khỏe thể
chất, sức khỏe tinh thần và các quan hệ xã hội và để có được sức khỏe tốt ta cần giải
quyết hài hòa các yếu tố trên một cách tối ưu. Đồng thời sức khỏe của mỗi người

không phải chỉ dựa vào sự cố gắng của bản thân là đạt được mà còn chịu sự tác động
của rất nhiều yếu tố khách quan. Vào đầu thế kỷ XX cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học và công nghệ, sức khỏe con người có nhiều vấn đề cần đề cập đến với
những căn bệnh không thuốc chữa. Từ đó con người luôn tích cực tìm kiếm những
phương pháp để có được sức khỏe tốt, trong quá trình tìm kiếm đó các nhà khoa học
đã xây dựng nên mô hình các yếu tố quyết định sức khỏe của con người thế kỷ XXI .

23
Đây là một mô hình vô cùng hữu ích đối với mỗi chúng ta. Bởi vì thông qua nó giúp
cho chúng ta biết được các mức độ phòng bệnh, chữa bệnh cũng như các yếu tố có vai
trò tác động đến sức khỏe để từ đó tự tìm ra giải pháp làm thay đổi các yếu tố đó theo
hướng có lợi cho sức khỏe.

Sơ đồ 1 : Mô hình các yếu tố quyết định sức khỏe thế kỷ XXI (Robert Evans) [16; 68]
Cụ thể mô hình này thể hiện sức khỏe con người chịu sự tác động của các yếu tố
tổng quát: môi trường cá nhân và gia đình, môi trường vật chất, môi trường xã hội và
cộng đồng. Nó chia ra làm 3 cấp độ dự phòng: dự phòng cấp I tức là cơ thể hoàn toàn
khỏe mạnh, ta tự tìm ra những phương pháp chăm sóc sức khỏe tốt, ngăn ngừa bệnh tật
và các yếu tố ảnh hưởng như giáo dục, thu nhập, các yếu tố nguy cơ (tức là những
nguy cơ bệnh tật nào đang rình rập), từ đó tìm ra các biện pháp hạn chế, khắc phục,
SỨC KHỎE VÀ
TRẠNG THÁI KHỎE
MẠNH
Môi trường vật
ch
ất

Môi trường cá
nhân và gia


đình

Môi trường xã
h
ội v
à

cộng đồng

Yếu tố nguy
cơ/ tình trạng
dễ bị tổn
thương
Giáo dục
Thu nhập
Bệnh tật và chấn
thương

Hệ thống chăm
sóc sức khỏe
Tử vong Tàn phế Hồi phục
Yếu tố tổng
quát

Dự phòng
c
ấp I

Dự phòng
c

ấp II

Dự phòng
c
ấp III


24
loại bỏ nguy cơ bệnh tật. Dự phòng cấp II tức là một khi cơ thể con người đã có dấu
hiệu bệnh tật thì cần phải can thiệp sớm, thông qua các tác động của hệ thống chăm
sóc sức khỏe tìm ra phương pháp chữa trị sớm nhất, kịp thời và hiệu quả nhất để cải
thiện chữa trị bệnh tật và chấn thương. Dự phòng cấp III tức là khi chúng ta đã mắc
bệnh cần phải tìm cho mình dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất, có thể phục hồi để trở
lại trạng thái khỏe mạnh ban đầu hay trở nên tàn phế, tử vong phụ thuộc phần lớn vào
hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Mô hình này có ý nghĩa quan trọng với đề tài này, nó làm cơ sở lý luận hỗ trợ tác
giả trong quá trình tìm kiếm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
cho NCCCM. Tác giả cũng có thể đưa ra các giải pháp tập trung vào việc cải thiện,
tăng cường sự tác động của các yếu tố: vai trò của cá nhân, gia đình, vật chất, xã hội
theo hướng tích cực.
1.2.4. Phúc lợi xã hội
Thuật ngữ phúc lợi xã hội đã được Việt Nam sử dụng từ vài chục năm qua với
những phạm vi khác nhau. Phúc lợi xã hội được xem như là một hệ thống hay một
thiết chế mà chức năng xã hội của nó là đảm bảo những nhu cầu xã hội thiết yếu của
các tầng lớp dân cư theo những điều kiện của cấu trúc xã hội. Đồng thời việc xác định
những nhu cầu này do xã hội quy định. Thông thường, phạm vi các nhu cầu cơ bản
này liên quan đến nhu cầu về lương thực thực phẩm, việc làm, thu nhập.
Nhìn từ góc độ cơ cấu xã hội, hệ thống phúc lợi xã hội tác động vào các điều kiện
an sinh xã hội của các nhóm xã hội theo hướng đảm bảo công bằng xã hội, đặc biệt
chú trọng các nhóm xã hội yếu thế. Trong ý nghĩa đó, phúc lợi xã hội cho người có

công cách mạng là một trong những vấn đề cần quan tâm. Chăm lo phúc lợi người có
công cách mạng giúp họ đảm nhận những vai trò xã hội mới là công việc có ý nghĩa to
lớn đối với phát triển xã hội.Hiện nay, người có công cách mạng có vai trò và ý nghĩa
to lớn đối với gia đình và xã hội: trong truyền đạt kho tri thức, kinh nghiệm sản xuất,
lịch sử, các di sản văn hóa (chủ trì những lễ nghi) tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi
theo, là người hòa giải những bất hòa trong gia đình, tranh chấp ngoài cộng đồng xã
hội … chứ không phải là gánh nặng như trong suy nghĩ của chúng ta.
Hoạt động trợ giúp trong mạng lưới xã hội cũng được xem là một dạng của phúc
lợi xã hội. Giữa phúc lợi xã hội và mạng lưới xã hội có quan hệ qua lại với nhau.

25
Trong khóa luận, khảo sát hoạt động trợ giúp từ mạng lưới xã hội người có công cách
mạng về vấn đề chăm sóc sức khỏe [dẫn nhập 7; 28].
1.2.5. Bảo hiểm và bảo hiểm y tế
Bảo hiểm
Có thể hiểu “Bảo hiểm là một hoạt động mà qua đó một cá nhân có quyền được
hưởng trợ cấp nhờ vào khoảng đóng góp cho mình hoặc cho người thứ ba trong
trường hợp xãy ra rủi ro và toàn bộ trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có
trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo phương pháp thống kê”
[1]
Bảo hiểm y tế
“Là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không
vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và đối tượng có trách nhiệm
theo quy định của luật bảo hiểm y tế” [1].
Trong quá trình đăng ký khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế, có quy định cơ sở
khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu tức là cơ sở khám, chữa bệnh đầu tiên theo
đăng ký của người tham gia bảo hiểm y tế và được ghi trong thẻ bảo hiểm y tế.
1.2.6. Người cao tuổi
Người cao tuổi hay người già là một thuật ngữ dùng để chỉ những người nhìn
chung đã có nhiều tuổi . Lâu nay ta vẫn quen dung khái niệm “người già”.Theo từ

điển Việt Nam , già tức là “ở vào tuổi có những hiện tượng sinh lý suy yếu dần trong
gia đoạn cuối của quá trình sống tự nhiên” .Như vậy về mặc thuật ngữ, “người già”
hay “người cao tuổi” cũng chỉ là hai cách nói khác nhau mang cùng một nội dung chỉ
“người đã rất nhiều tuổi so với tuổi đời trung bình”, trong khóa luận này tác giã sữ
dụng tuật ngữ “người cao tuổi”. Theo quy định hành chính quốc tế, người từ 60 tuổi
trở lên được gọi là người cao tuổi [dẫn nhập 7; 29]
Những khó khăn mà người cao tuổi gặp phải
Đa số NCCCM trong mẫu nghiên cứu này thuộc nhóm người cao tuổi và họ cũng
không thể tránh khỏi quy luật khách quan (tuổi cao dẫn đến thay đổi về hoạt động
chức năng tâm, sinh lý, thay đổi về lao động và thu nhập, thay đổi về phạm vi, mức độ

×