Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

LUẬN VĂN: CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ. potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.68 KB, 75 trang )














LUẬN VĂN

CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ





























chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


2

PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỦA CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM
HƯU TRÍ
1. Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội trên thế giới
Bảo hiểm xã hội đã hình thành một cách khách quan, do nhu cầu, nguyện
vọng chính đáng của người lao động và người chủ sử dụng lao động. Từ thế kỷ
XV đến thế kỷ XVII, một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời để bảo vệ nhau
trong hoạt động nghề nghiệp và họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ ( như ở

Anh năm 1473 đã thành lập hội “ Bằng hữu” ) nhằm giúp đỡ các hội viên khi bị
ốm đau, tai nạn…Đến năm 1883, Đức cũng đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau
đầu tiên trên thế giới, sau đó tiếp tục ban hành luật bảo hiểm tai nạn lao động và
luật bảo hiểm người già- người tàn tật do lao động vào năm 1884 và 1889. Sau
đó một số nước ở Châu Âu, Bắc Mỹ tiếp tục đưa ra luật bảo hiểm xã hội vào cuối
năm 1920. Sự ra đời các bộ luật chính thức đầu tiên đó phản ánh một yêu cầu tất
yếu khách quan của BHXH.
Qua thời gian thực hiện và tiếp tục hoàn thiện các chế độ bảo hiểm chúng ta
có thể hiểu được bản chất BHXH:
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng
lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập
trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần
đảm bảo an toàn xã hội”.
Nguyên tắc chung trong hoạt động bảo hiểm này là gắn liền quyền lợi được
hưởng với nghĩa vụ đóng góp. Tuy vậy BHXH chỉ thực sự trở thành một lĩnh
vực hoạt động mang tính chất và ý nghĩa xã hội sâu sắc từ đầu thế kỷ XIX. Quá
trình đó gắn liền với sự phát triển sản xuất công nghiệp, của nền kinh tế thị
trường và thị trường sức lao động mà trong đó có quan hệ chủ thợ trong lao động
được trở nên phổ biến.
Sang thế kỷ XX, hầu hết các nước trên thế giới mà trước hết là các nước công
nghiệp phát triển đều ban hành và thực hiện điều luật về BHXH đối với người
lao động. Đặc biệt vào tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, Tổ chức Lao động Quốc
tế (ILO) thông qua công ước số 102 với những quy phạm tối thiểu về BHXH,
trong đó có quy định hệ thống gồm 9 chế độ đó là: chăm sóc y tế, trợ cấp ốm
đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề
nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp sinh đẻ, trợ cấp khi tàn phế, trợ cấp cho người
còn sống. Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Với sự
phát triển như vậy, BHXH đã trở thành một lĩnh vực mang tính quốc tế rộng lớn.
Hiện nay có hơn 160 quốc gia trên thế giới thực hiện BHXH.

chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


3

2. Cơ sở hình thành chế độ bảo hiểm hưu trí trong hệ thống các chế độ
BHXH
Trong qúa trình lao động tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu của bản
thân. Nhưng cùng với thời gian tuổi tác và sức khỏe của họ bị giảm sút và đến
một lúc nào đó họ sẽ không còn khả năng lao động. Lúc đó khoản thu nhập mà
họ có thể sinh sống hoặc là do tích góp trong quá trình lao động hoặc do con
cháu nuôi dưỡng Những nguồn thu nhập này không thường xuyên và phụ
thuộc vào điều kiện của từng người. Để đảm bảo lợi ích cho người lao động khi
họ hết tuổi lao động và giúp họ có nguồn thu nhập thường xuyên, ổn định, nhà
nước đã thực hiện chế độ BHXH hưu trí.
Vậy Bảo hiểm hưu trí là hình thức bảo đảm thu nhập cho người lao động
khi hết tuổi lao động. Người lao động tạo ra thu nhập để nuôi sống chính họ
trong quá trình lao động. Quá trình này diễn ra ngay trong các nhà máy, xí
nghiệp, đơn vị kinh tế, hành chính sư nghiệp trong lĩnh vực quốc doanh và ngoài
quốc doanh. Trong quá trình đó, họ cống hiến sức lao động để xây dựng đất nước
bằng cách tạo ra thu nhập cho xã hội và cho cả chính họ nữa. Do đó đến khi họ
không còn khả năng lao động nữa thì họ phải được sự quan tâm ngược lại từ phía
xã hội. Đó chính là khoản tiền trợ cấp hưu trí hàng tháng phù hợp với số phí
BHXH mà họ đã đóng góp trong suốt quá trình lao động. Nguồn trợ cấp này tuy
ít hơn so với lúc đang làm việc nhưng nó rất quan trọng và cần thiết giúp cho
người về hưu ổn định về mặt vật chất cũng như tinh thần trong cuộc sống, tạo
cho họ có thêm điều kiện để cống hiến cho xã hội những kinh nghiệm quý báu

trong quá trình lao động sản xuất mà họ đã tích luỹ được nhằm xây dựng đất
nước ngày càng phồn vinh hơn.
Bảo hiểm hưu trí bảo đảm quyền lợi cho người lao động giúp họ tự bảo vệ
mình khi hết tuổi lao động, tự lo cho chính mình một cách hợp lý nhất nhờ vào
việc họ đã cống hiến sức lao động của mình để tạo ra của cải vật chất cho xã hội
trước đó. Người lao động chỉ cần trích ra một tỷ lệ % tiền lương tương đối nhỏ
khi còn đang làm việc trong một thời gian nhất định. Đến khi hết tuổi lao động
phải nghỉ việc họ sẽ có được sự bảo đảm của xã hội làm giảm bớt phần nào khó
khăn về mặt tài chính do không còn lao động được nữa.
Như vậy bảo hiểm hưu trí là một chế độ mang tính xã hội hóa cao được thực
hiện một cách thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nói cách khác, chế độ bảo hiểm hưu trí lấy đóng góp của thế hệ sau chi trả cho
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


4

các thế hệ trước. Vì vậy, nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết giữa các thế hệ, làm
cho mọi người trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau hơn thể hiện mối quan
tâm sâu sắc giữa người với người trong xã hội .

3. Vai trò của chế độ Bảo hiểm hưu trí trong hệ thống các chế độ BHXH
Trong hệ thống các chế độ BHXH thường bao gồm nhiều chế độ khác nhau (
chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, chế
độ hưu trí …). Tuy nhiên các chế độ BHXH được xây dựng và thực hiện phụ
thuộc vào trình độ phát triển và mục tiêu cụ thể của hệ thống BHXH trong từng
thời kỳ của mỗi nước. Và đặc biệt trong bất cứ hệ thống BHXH nào cũng có

những chế độ chính thể hiện đặc trưng những mục tiêu chủ yếu của hệ thống bảo
hiểm xã hội. Một trong những chế độ đó là chế độ hưu trí hay chế độ bảo hiểm
tuổi già cho người lao động.

Theo quy định của ILO thì chế độ này là một trong những chế độ bắt buộc, là
chế độ chính sách khi mỗi quốc gia muốn xây dựng cho mình một hệ thống bảo
hiểm xã hội. Theo thống kê của ILO, trong tổng số 163 nước trên thế giới có hệ
thống BHXH (1993) thì có tới 155 nước có thực hiện chế độ hưu trí chiếm tỷ lệ
95,1%. Điều đó chứng tỏ chế độ hưu trí rất được các nước cũng như người lao
động quan tâm.
Trên thực tế, tất cả những người tham gia vào BHXH đều có mong muốn
tham gia vào chế độ hưu trí. Trong phần đóng góp phí BHXH nói chung thì phần
chủ yếu là đóng cho chế độ này. Đối với hệ thống BHXH thì hoạt động của
ngành này tập trung chủ yếu vào chế độ hưu trí cho người lao động. Điều này
được thể hiện cụ thể trong các hoạt động nghiệp vụ của bảo hiểm xã hội. Chẳng
hạn ở Việt Nam, chế độ hưu trí có vị trí đặc biệt quan trọng với người tham gia
bảo hiểm xã hội. Chế độ này được quy định và đưa vào thực hiện ngay từ khi hệ
thống BHXH mới được thành lập ( 1947). Theo các quy định hiện hành thì tỷ lệ
giành cho bảo hiểm hưu trí và các chế độ khác có liên quan tới người về hưu là
75% ( phí bảo hiểm là 20% tổng quỹ tiền lương thì giành tới 15% đóng cho hưu
trí ). Do đó thu cho chế độ hưu trí cũng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu
của bảo hiểm xã hội, khoảng từ 60-80%. Tương tự như vậy trong tổng chi của
BHXH thì việc chi cho chế độ này cũng rất lớn. Trong những năm gần đây tiền
chi cho chế độ hưu trí chiếm khoảng trên 70% tổng chi cho BHXH . Như vậy,
hoạt động thu chi của chế độ hưu trí có ảnh hưởng sống còn tới toàn bộ hoạt
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B



5

động của hệ thống bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định của BHXH nói
riêng cũng như cả xã hội nói chung.
Một vấn đề nữa đặt ra là xu hướng già hoá của dân số thế giới dẫn đến số
lượng người nghỉ hưu ngày càng tăng. Điều đó cho thấy rõ vai trò ngày càng
quan trọng của chế độ hưu trí trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Hơn nữa, chế độ bảo hiểm hưu trí còn thể hiện được sự quan tâm chăm sóc của
Nhà nước, người sử dụng lao động đối với người lao động, và nó còn thể hiện
đạo lý của dân tộc đồng thời còn phản ánh trình độ văn minh của một chế độ xã
hội .

4. Tác dụng và đặc trưng của Bảo hiểm hưu trí
4.1 Tác dụng của Bảo hiểm hưu trí
Bảo hiểm hưu trí giúp đảm bảo đời sống cho người lao động khi họ về hưu do
đó giúp cho xã hội ổn định và gắn bó. Ngày nay, tỷ lệ người già trong dân số
càng tăng do đó ổn định đời sống cho bộ phận này là rất quan trọng. Mặt khác,
khi nghỉ hưu người lao động được sống thoải mái hơn và an nhàn hơn. Đối với
người có trình độ có khả năng họ lại tiếp tục cống hiến, truyền đạt kinh nghiệm
cho thế hệ sau.
Người lao động trong quá trình lao động họ có được sự bảo đảm chắc chắn về
phần thu nhập khi họ nghỉ hưu, làm cho họ yên tâm chú ý, không lo nghĩ về điều
kiện sống khi nghỉ hưu do đó có thể làm việc với năng suất và chất lượng cao
hơn.
Giúp người lao động tiết kiệm cho bản thân mình ngay trong quá trình lao
động để bảo đảm đời sống khi nghỉ hưu, giảm bớt phần nào gánh nặng cho người
thân, gia đình và xã hội .

4.2 Đặc trưng của chế độ Bảo hiểm hưu trí

Bảo hiểm hưu trí là một chế độ BHXH dài hạn nằm ngoài qúa trình lao động.
Đặc trưng này thể hiện cả trong quá trình đóng và hưởng bảo hiểm hưu trí.
Người lao động tham gia đóng phí BHXH trong một thời gian khá dài. Thời gian
đó liên tục đủ lớn theo quy định thì sẽ đủ một trong những điều kiện để được
hưởng bảo hiểm hưu trí. Khi đã đủ các điều kiện thì người lao động sẽ được
hưởng trợ cấp hưu trí trong khoảng thời gian tính từ lúc về hưu cho đến khi
người lao động chết. Quá trình hưởng này dài, ngắn bao nhiêu tuỳ thuộc vào tuổi
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


6

thọ của từng người và những người hưởng bảo hiểm hưu trí là những người đã
kết thúc quá trình làm việc của mình mà theo quy định được nghỉ ở nhà và
hưởng lương hưu.
Trong chế độ hưu trí có sự tách biệt giữa đóng và hưởng. Vì đây là một chế
độ nằm ngoài quá trình lao động, cho nên để được hưởng chế độ hưu trí khi về
hưu thì người lao động phải tham gia đóng phí trong quá trình lao động. Trong
suốt quá trình lao động, số tiền người lao động đóng góp vào quỹ bảo hiểm hưu
trí dùng để chi trả lương hưu ( trợ cấp tuổi già ) cho thế hệ trước. Như vậy có sự
kế thừa giữa các thế hệ lao động trong việc hình thành quỹ bảo hiểm hưu trí, qua
đó thể hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít của bảo hiểm.
Ngoài ra còn có sự phụ thuộc chặt chẽ giữa người lao động và người sử dụng
lao động. Người sử dụng lao động muốn ổn định và phát triển sản xuất kinh
doanh thì ngoài việc đầu tư cho thiết bị máy móc hiện đại, còn phải chăm lo tới
đời sống người lao động mà mình đang sử dụng, tạo cho họ việc làm, đảm bảo
cuộc sống cho họ khi hết tuổi lao động bằng việc đóng BHXH cho người lao

động. Từ những tác dụng và đặc trưng trên, quỹ bảo hiểm hưu trí chiếm tỷ trọng
tương đối lớn trong quỹ bảo hiểm xã hội. Do đó bộ phận quản lý quỹ có thể sử
dụng phần quỹ bảo hiểm hưu trí nhàn rỗi để đầu tư sinh lời nhằm ổn định, bảo
đảm cân bằng và tăng trưởng quỹ. Từ đó góp phần thúc đẩy đầu tư tăng trưởng
vào nền kinh tế quốc dân, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, góp phần
hạn chế nạn thất nghiệp hiện nay.

II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ
Đối với mỗi người lao động niềm mong mỏi lớn nhất của họ sau khi kết thúc
quá trình làm việc là có một cuộc sống ổn định, vui vẻ. Với mong muốn đó chế
độ bảo hiểm hưu trí có ý nghĩa lớn lao là đã mang lại cho người lao động một
niềm tin trong lao động và trong cuộc sống.

Như vậy, chế độ hưu trí là một chế độ có liên quan đến rất nhiều mặt trong
quá trình tổ chức thực hiện. Do vậy, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
nghiên cứu để đi đến xác lập một chế độ bảo hiểm hưu trí. Sau đây là một số nội
dung cơ bản:

1. Điều kiện để hưởng bảo hiểm hưu trí
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


7

Độ tuổi hưởng chế độ BHXH dài hạn nói chung và chế độ hưu trí nói riêng
đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định chi phí của hệ thống chế độ.
Tuổi hưởng chế độ hưu trí có thể được ấn định theo một loạt các cân nhắc như :

- Khả năng làm việc tổng thể của người cao tuổi
- Vị thế của người cao tuổi trong thị trường lao động
- Khả năng kinh tế của chế độ hưu trí
Điều quan trọng là phải cân đối từ giác độ mức hưởng thoả mãn đóng và chi
phí liên quan đến tuổi thọ bình quân của người cao tuổi. Mặc khác, khi quy định
tuổi về hưu còn phải dựa vào quy luật sinh - lão- bệnh - tử và điều kiện kinh tế
xã hội của mỗi nước.
Ngoài ra, tuổi nghỉ hưu còn được quy định hạ thấp so với độ tuổi bình quân đối
với những người làm những công việc trong điều kiện lao động và môi trường
nặng nhọc, nguy hiểm đã có ảnh hưởng nhất định làm suy giảm một phần khả
năng lao động so với bình thường hay những người có thể chất yếu không đủ sức
đảm đương công việc.

2. Thời gian đóng bảo hiểm
Thời gian đóng bảo hiểm hưu trí là tổng số đơn vị thời gian có đóng phí bảo
hiểm để được hưởng chế độ này. Việc quy định thời gian đóng phí BHXH nhằm
xác định sự cống hiến về mặt lao động của mỗi người với xã hội nói chung và
phần đóng góp vào BHXH nói riêng. Thời gian đóng BHXH là một trong những
căn cứ để đãi ngộ ( chi trả ) đối với người lao động như theo luật định nhằm bảo
đảm sự công bằng, bình đẳng giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội, thực
hiện một trong những nguyên tắc cơ bản của BHXH .
Việc xác định thời gian đóng phí BHXH được dựa trên căn cứ: độ tuổi về
hưu, tỷ lệ đóng góp , tuổi thọ của những người về hưu, mức được hưởng tóm
lại tuỳ thuộc vào khả năng tài chính về chế độ hưu trí nói riêng và BHXH nói
chung Về nguyên tắc nếu xuất phát từ việc đóng BHXH để hình thành quỹ sử
dụng cho chế độ hưu trí thì phải tính đến tổng số thời gian đóng phí BHXH thực
tế. Còn trong trường hợp người lao động làm việc trong những trường hợp đặc
biệt như người lao động làm việc ở nơi độc hại, vùng sâu, vùng xa được điều lệ
BHXH quy định số thời gian này được làm căn cứ để giảm tuổi đời khi nghỉ hưu.
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD



Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


8

Trong các chế độ BHXH bắt buộc, đối với chế độ hưu trí hầu hết các nước
đều quy định điều kiện để được hưởng chế độ phụ thuộc hai yếu tố đó là độ tuổi
xác định và số năm đóng BHXH .

3. Mức phí
Cũng như tất cả các chế độ bảo hiểm khác, chế độ hưu trí liên quan đến mức
phí thu cho chế độ này. Trong thực tế mức thu cho chế độ này được xác định
riêng theo một tỷ lệ nào đó so với thu nhập hay tiền lương dùng để tính BHXH
và bảo hiểm hưu trí. Đối với người lao động làm công ăn lương thì thu nhập này
thường là tiền lương. Trong một số trường hợp mức thu cho chế độ hưu trí không
xác định riêng mà được gộp chung vào một mức thu gọi là thu BHXH nói chung.
Ở Việt Nam hiện nay thực hiện thu chung một mức phí BHXH cho tất cả các chế
độ BHXH đang được thực hiện mặc dù trong đó có định lượng phần giành cho
các chế độ bảo hiểm dài hạn như bảo hiểm hưu trí.
Trong trường hợp như vậy phí hưu trí được xác lập riêng và được xác định
theo công thức sau đây:
P = T * TBH * L
Trong đó : P : Mức phí đóng cho chế độ hưu trí
TBH : Tỷ lệ thu BHXH tính theo thu nhập hay tiền lương
L : Tiền lương hay thu nhập dùng để tính phí BHXH và chế
độ hưu trí
T : Tỷ lệ % đóng BHXH hưu trí nói chung
Việc xác định phí nộp cho chế độ hưu trí riêng ra hay gộp chung như nói ở

trên tuỳ thuộc điều kiện và mô hình hay phương thức tổ chức hoạt động ở từng
nước. Nếu phí cho chế độ hưu trí được xác định riêng thì sẽ tạo thuận lợi cho
việc tính toán và quản lý cho chế độ này, nhất là khi nó được mở rộng ra những
khu vực khác nhau mà người lao động ở đó có hình thức thu nhập không đồng
nhất như thu nhập bằng tiền. Tách riêng như vậy cũng tạo ra sự linh hoạt hơn cho
người tham gia chế độ này.
Tuy nhiên, nếu tách riêng như vậy cũng có nghĩa là các chế độ khác cũng
được tách riêng ra điều này làm cho hoạt động quản lý BHXH nói chung phải
phức tạp hơn. Còn trong trường hợp không xác định riêng mức thu phí cho từng
chế độ thì có thể công việc quản lý ít phức tạp hơn nhưng lại phức tạp khi phải
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


9

xác định phí đóng cho bảo hiểm khi áp dụng cho người lao động có các hình
thức thu nhập khác nhau.

4. Mức hưởng
Mức hưởng là số tiền mà một người về hưu nhận được hàng tháng kể từ khi
nghỉ hưu. Hiện nay đang có những quan điểm khác nhau về mức hưởng. Về cơ
bản có hai quan điểm chính. Quan điểm thứ nhất cho rằng tiền lương hưu là để
bảo đảm mức sống tối thiểu của người nghỉ hưu theo tiêu chuẩn sống của quốc
gia. Còn theo quan điểm thứ hai thì cho rằng tiền lương hưu phải có giá trị bảo
đảm cho người về hưu có mức sống cao, thậm chí trên mức trung bình của xã
hội. Sự khác nhau này tất nhiên sẽ dẫn đến mức đóng tương ứng trước khi được
hưởng cũng khác nhau.

Trong thực tế, khuynh hướng nào cũng có lý khi giải thích nhưng nếu xét về
mức sống của người về hưu và đặt trong quan hệ với sự phát triển và ý nghĩa về
sự hấp dẫn của BHXH đối với người lao động thì khuynh hướng thứ hai có sức
thuyết phục hơn. Những dù là mức hưởng được xác định theo quan điểm nào thì
vẫn phải đảm bảo yêu cầu có tính nguyên tắc là tiền lương hưu phải thấp hơn tiền
lương khi làm việc.
Tiền lương được tính theo công thức sau: LH = T * L
Trong đó: LH : Tiền lương hưu được hưởng
T : Tỷ lệ % dùng để tính lương hưu
L : Tiền lương hay thu nhập dùng để tính lương hưu
Ngoài ra, tuỳ theo luật pháp của từng nước về chế độ này mà người nghỉ hưu
được hưởng thêm các quyền lợi như trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, hay đối với
những người lao động nghỉ việc chưa đủ tuổi để hưởng chế độ hưu hàng tháng
cũng nhận được trợ cấp một lần và ngoài lương hưu hàng tháng, người nghỉ hưu
còn được bảo hiểm y tế do quỹ BHXH đài thọ , khi chết gia đình được hưởng
chế độ tử tuất.

5. Thời gian hưởng chế độ hưu trí
Thời gian hưởng chế độ hưu trí được hiểu là thời gian kể từ khi nghỉ hưu cho
đến khi qua đời. Với mỗi người thì thời gian hưởng lương hưu thông thường là
có khác nhau vì tuổi nghỉ hưu và tuổi thọ không giống nhau. Và do một trong
những vấn đề có tính xã hội, tính bù trừ trong BHXH nên trong quản lý
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


10
thường lấy số bình quân chung thời gian hưởng tiền lương hưu của người nghỉ

hưu trong cùng một hệ thống BHXH để tính toán cho các chỉ tiêu khác.
Thời gian hưởng tiền hưu phải ngắn hơn thời gian đóng BHXH cho chế độ
hưu trí. Tuy vậy, thời gian nghỉ hưu để hưởng tiền lương hưu có thể khác nhau
trong khi thực hiện chế độ bảo hiểm này. Điều đó phụ thuộc vào các yếu tố như
tuổi đời khi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật, tuổi thọ bình quân của người
nghỉ hưu. Những yếu tố này lại phụ thuộc vào chính sách lao động và BHXH
trong từng giai đoạn, vào mức sống và điều kiện sống của dân cư.
Trong thực tế, tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật thường ổn định
trong một thời gian dài và nếu có thay đổi thì cũng ở trong khoảng từ 55 đến 60
tuổi đối với người lao động bình thường trong xã hội. Trong trường hợp đặc biệt
có thể có những điều chỉnh nhưng cũng dựa trên những độ tuổi đó. Khi tuổi thọ
bình quân ngày càng tăng lên thì thời gian hưởng chế độ hưu trí cũng có xu
hướng tăng lên. Vấn đề có tính quy luật này buộc các nhà nghiên cứu các chế độ
chính sách về lao động và BHXH phải tính đến để điều chỉnh tuổi về hưu cho
phù hợp.


6. Một số chỉ tiêu đánh giá hoạt động của chế độ hưu trí
BHXH nói chung cũng như chế độ hưu trí nói riêng là những phạm trù kinh tế
tổng hợp, phản ánh rất nhiều mặt trong đời sống xã hội. Do vậy, việc hình thành
hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả là hoàn toàn không đơn giản vì khó có
thể có được một hệ thống chỉ tiêu phản ánh đầy đủ tất cả các khía cạnh của lĩnh
vực này. Tuy nhiên việc xây dựng các chỉ tiêu này thực sự cần thiết và đó là cơ
sở cho việc đánh giá trình độ phát triển và kết quả của BHXH trong đời sống xã
hội. Thông thường việc đánh giá kết quả hay hiệu quả của mỗi hoạt động nào đó
chúng ta phải so sánh với định hướng, mục tiêu đề ra. Tính hiệu quả do vậy phản
ánh trong mức độ đạt được so với các mục tiêu đặt ra đó.
Trong BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng , mục tiêu cao nhất là đạt
được sự phát triển của BHXH và bảo đảm đời sống người về hưu trên cơ sở của
tiền lương hưu ( còn gọi là thu nhập thay thế ) mà người lao động nhận được từ

quỹ bảo hiểm xã hội. Góp phần bảo đảm an sinh và ổn định xã hội. Các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả cũng phải xoay quanh mục tiêu này. Trong chế độ hưu trí, do
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


11
tính phức tạp của chế độ này mà hệ thống các chỉ tiêu phải bao gồm tất cả các
chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng.
Theo quan điểm về hiệu quả như trên ta thấy có thể có ba nhóm chỉ tiêu hiệu
quả của hoạt động BHXH đó là :
Nhóm 1: Các chỉ tiêu hiệu quả của hoạt động bảo hiểm hưu trí
Nhóm 2 : Các chỉ tiêu đánh giá về sự phát triển của bảo hiểm hưu trí
Nhóm 3 : Các chỉ tiêu đảm bảo lợi ích về kinh tế xã hội của người về hưu
Sau đây là sự xác định cụ thể trong từng nhóm chỉ tiêu
6.1. Các chỉ tiêu hiệu quả của hoạt động bảo hiểm hưu trí
BHXH tập trung vào ba hoạt động chính đó là thu BHXH, quản lý quỹ
BHXH và chi trả BHXH. Trong mỗi hoạt động đó có các chỉ tiêu cụ thể để đánh
giá mức độ hiệu quả :

 Thu bảo hiểm hưu trí
Thu bảo hiểm hưu trí là một chỉ tiêu tổng hợp và hiệu quả của nó được đánh
giá trên các mặt chủ yếu sau:
- Tỉ lệ về số người đóng BHXH
Số người đóng
Tỉ lệ % người đóng = * 100
Số người phải đóng.
Thực chất là thực hiện thu đúng và đủ số người đóng bảo hiểm hưu trí. Thu

đúng ở đây chủ yếu là thu đúng đối tượng phải thu. Số đối tượng phải thu hiện
nay là số người lao động thuộc diện đóng BHXH bắt buộc, đăng kí tham gia
đóng bảo hiểm hưu trí. Họ phải đóng BHXH trong đó có chế độ hưu trí. Số
người này thường thay đổi do có sự thay đổi của các doanh nghiệp trong quá
trình kinh doanh, nhất là số người lao động làm việc ở khu vực ngoài quốc
doanh. Việc thu đúng thu đủ là rất cần thiết để BHXH vừa đảm bảo lợi ích cho
người lao động, vừa đảm bảo có những tác dụng tích cực với các hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp cũng như với nền kinh tế nói chung. Mục tiêu thu ở
đây là đảm bảo thu 100% đối tượng thuộc diện phải đóng BHXH và hưu trí.
Chỉ tiêu này có thể áp dụng mở rộng ra cho tất cả số người lao động có nhu
cầu tham gia bảo hiểm hưu trí, và rộng hơn nữa là toàn bộ số người lao động
trong xã hội.
- Thu đủ số tiền theo quy định cho chế độ hưu trí.
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


12
Số tiền thu được
Tỷ lệ % tiền thu được = * 100
Số tiền phải thu
Số tiền thu được này phụ thuộc vào mức thu theo luật định và số lượng người
mà các cơ quan BHXH đã thu được, hay số người trực tiếp đóng bảo hiểm xã
hội. Thu đủ là rất quan trọng không chỉ vì như đã đề cập ở trên mà đó còn là bảo
đảm một sự chủ động về nguồn tài chính, làm cho nguồn quỹ BHXH được ổn
định, giúp duy trì các hoạt động bình thường và ngày cáng phát triển của chế độ
hưu trí.
- Thu đúng thời gian :

Đó là thời gian mà các đơn vị và cá nhân phải đóng BHXH theo quy định của
pháp luật hiện hành. Nếu không thu đúng thời gian sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch
tài chính trực tiếp của chế độ hưu trí. Nhất là trong điều kiện chế độ hưu trí áp
dụng theo cơ chế thu của người đóng trả cho người hưởng. Còn trong chế độ hưu
trí theo cơ chế của đầu tư ứng trước thì thu kịp thời là một điều kiện quan trọng
để ổn định và phát triển quỹ hưu trí trong tương lai trên cơ sở các kế hoạch sử
dụng quỹ để đầu tư sinh lời .

 Chi trả BHXH
Trong hoạt động chi trả, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cũng tập trung vào các
nội dung chủ yếu sau đây:
- Chi trả đúng đối tượng
Đảm bảo tiền hưu phải đến đúng người được hưởng. Đó phải là những
người hội đủ được điều kiện ràng buộc để được hưởng chế độ hưu trí. Điều này
có liên quan đến công tác quản lý đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Khác với
người lao động khi tham gia đóng bảo hiểm xã hội, sự di chuyển hay thay đổi nơi
ở của từng người về hưu phụ thuộc vào khả năng và điều kiện sống mà họ lựa
chọn. Khi đó công tác quản lý phải có sự linh hoạt tốt để không chỉ quản lý tốt
mà còn được thực hiện chi trả thuận lợi đúng đối tượng được hưởng chế độ này.
- Chi trả đủ về số lượng
Chỉ tiêu chi trả đủ về số lượng phản ánh về số tiền chi trả đủ cho mọi đối
tượng được hưởng hưu trí theo quy định. Đây là yêu cầu pháp lý, được luật quy
định thành các mức tiền hưu được hưởng. Chi trả đủ cho người về hưu phải được
đảm bảo trên cơ sở số tiền mà quỹ hưu trí có được dùng để thanh toán và sự an
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B



13
toàn của số tiền này trong quá trình chi trả cho các đối tượng được hưởng chế độ
hưu trí.
- Chi trả kịp thời gian
Chi trả kịp thời gian chính là việc bảo đảm người về hưu phải được nhận
lương hưu đúng theo thời gian quy định. Đây là điều rất quan trọng vì tiền hưu là
một loại thu nhập thường xuyên của người về hưu. Đối với các đối tượng này
việc nhận lương hưu đúng hạn sẽ giúp cho họ có thể ổn định được đời sống. Đối
với các cơ quan bảo hiểm điều này có ý nghĩa rất lớn trong quản lý nói chung và
thanh quyết toán cho chế độ hưu trí nói riêng.
Các chỉ tiêu rất quan trọng trong quản lý quá trình thực hiện BHXH ở Việt
Nam trong điều kiện hiện nay khi mà BHXH đang còn có nhiều thay đổi cho phù
hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế xã hội ở nước ta.

 Quản lý quỹ hưu trí
Chỉ tiêu của hoạt động này phản ánh qua quản lý số lượng tiền hay quy mô
quỹ bảo hiểm hưu trí nhằm bảo toàn giá trị của quỹ hưu trí cả về giá trị danh
nghĩa và giá trị thực tế. Đồng thời đó còn là việc sử dụng quỹ này vào các hoạt
động khác nhau, làm phát triển không ngừng và nâng cao khả năng thanh toán
của quỹ hưu trí. Đó chính là sự tăng cường nguồn lực tài chính của chế độ hưu
trí. Ở đây có nhiều chỉ tiêu cụ thể:
- Bảo toàn giá trị của quỹ bảo hiểm hưu trí
Chỉ tiêu về bảo toàn giá trị của quỹ bảo hiểm hưu trí là bảo toàn giá trị thực tế
của quỹ hưu trí trong các thời kỳ quyết toán tránh được những tác động làm cho
giá trị của quỹ này giảm đi. Trong quá trình quản lý quỹ, có thể có các trường
hợp làm cho quỹ hưu trí giảm đi như:
+ Tiền quỹ bị tổn thất, mất mát
+ Tiền quỹ bị mất giá do lạm phát
+ Tiền quỹ đầu tư không thu hồi được
+ Tiền quỹ không thu hồi được ( nợ, nộp chậm )

+ Các thất thoát khác
- Mức và tỷ lệ tăng của quỹ hưu trí qua các thời kỳ
Mức và tỷ lệ tăng của quỹ hưu trí qua các thời kỳ là một trong những chỉ tiêu
quan trọng nhất trong quản lý quỹ bảo hiểm hưu trí hiện nay. Để bảo đảm cho
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


14
một tiềm lực tài chính ổn định và vững mạnh, quỹ hưu trí phải tăng lên không
ngừng. Sự tăng lên này chủ yếu từ hai nguồn là :
+ Tăng thêm số người tham gia vào chế độ hưu trí
+ Sử dụng quỹ hưu trí đầu tư vào các hoạt động mang lại lợi nhuận một
cách an toàn
Tốc độ tăng thực tế của quỹ hưu trí như vậy phải cao hơn tốc độ tăng của số
người tham gia vào chế độ hưu trí và tất nhiên phải tăng với tốc độ cao hơn tốc
độ tăng của chi trả cho chế độ này. Có như vậy mới tạo được sự vững chắc, ổn
định và phát triển không ngừng của chế độ hưu trí.
- Khả năng cân đối thu chi của quỹ BHXH
Chỉ tiêu khả năng cân đối thu chi quỹ bảo hiểm hưu trí phản ánh độ an toàn
của quỹ hưu trí nói riêng và sự tồn tại chế độ hưu trí nói chung. Để bảo đảm
tránh những rủi ro, thì quỹ tiền hưu phải đủ đảm bảo chi trả các khoản chi của
chế độ này chủ yếu bao gồm chi tiền lương hưu cho người nghỉ hưu và chi cho
hoạt động quản lý. Đây là điều kiện cần thiết bất kể áp dụng phương pháp cụ thể
nào để tạo lập quỹ


Tổng thu và tổng chi trong biểu thức điều kiện trên được xác định và so sánh

tại một thời điểm tính toán. Tổng thu và tổng chi có thể được xác định khác nhau
tuỳ theo phương pháp tạo quỹ được áp dụng trong hệ thống hưu trí. Vì theo các
phương pháp khác nhau có thể cơ cấu thu và chi cũng sẽ khác nhau

6.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của chế độ hưu trí
 Mở rộng phạm vi đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí
Chỉ tiêu mở rộng phạm vi đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí được
tính qua tỷ lệ người lao động trong xã hội thực hiện vào chế độ hưu trí trong
tổng số lao động nói chung. Đây là chi tiêu phản ánh kết quả thực hiện mục tiêu
mở rộng phạm vi hoạt động của chế độ hưu trí. Trong điều kiện ở các nước có
nền kinh tế kém phát triển, số người tham gia vào chế độ hưu trí không nhiều thì
chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá quy mô và sự phát triển của chế độ hưu trí
qua các thời kỳ.
Theo đuổi mục tiêu mọi người đều có quyền và được tham gia vào BHXH để
hưởng chế độ hưu trí nên trong quá trình phát triển và mở rộng phạm vi hoạt
Tổng thu thực tế > Tổng chi
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


15
động số người tham gia vào chế độ này phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng nguồn
lao động xã hội. Tỷ lệ tăng số lượng người tham gia chế độ hưu trí được xác định
trên cơ sở mục tiêu mở rộng của chế độ này. Ở đây có thể lượng hoá chỉ tiêu này
qua tỷ lệ phần trăm số người tham gia vào chế độ bảo hiểm hưu trí và tốc độ tăng
của tỷ lệ này qua các năm. Ngoài ra, cũng có thể tính thêm chỉ tiêu tỷ lệ tăng
tương đối so với tỷ lệ tăng lao động xã hội
 Mở rộng các hình thức tham gia chế độ hưu trí

Mở rộng các hình thức tham gia chế độ hưu trí là chỉ tiêu chủ yếu phản ánh sự
tăng thêm các hình thức mới trong việc đóng phí bảo hiểm và hưởng chế độ hưu.
Chỉ tiêu này phản ánh sự phát triển về tổ chức hệ thống và các hoạt động của chế
độ hưu trí, qua đó tăng cơ hội và khả năng để mọi người có thể tham gia vào chế
độ này. Hiện nay ở Việt Nam chúng ta mới áp dụng một hình thức đóng để
hưởng chế độ hưu trí trong đó dựa chủ yếu vào thời gian đóng và tuổi đời khi
nghỉ hưu.
Tuy nhiên sự khống chế về số năm đóng tối thiểu như luật định hiện nay là 15
năm kèm với điều kiện tuổi đời chỉ thích hợp với người có công việc làm và thu
nhập ổn định để đóng bảo hiểm xã hội, nhất là lao động làm việc trong các doanh
nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước. Việc linh hoạt về thời gian đóng BHXH làm cho
nhiều người có nhu cầu, có thêm cơ hội để tham gia vào chế độ này.
Xét trên một góc độ khác, mức đóng cố định chỉ phụ thuộc vào mức thu nhập
hay tiền lương để tính BHXH cũng sẽ làm giảm sức hấp dẫn của chế độ này khi
nhiều người muốn đóng thêm trên mức bình thường để sau đó được hưởng mức
tiền cao hơn .

6.3. Các chỉ tiêu bảo đảm quyền lợi kinh tế và xã hội của người về hưu
Quyền lợi về kinh tế xã hội cho người về hưu phải được phản ánh trong thực
tế đời sống kinh tế xã hội . Có thể dùng các chỉ tiêu sau đây để đánh giá :
 Mức bảo đảm các tiêu chuẩn sống của người về hưu
Chỉ tiêu này phản ánh qua mức lương của người về hưu nhận được và mức
bảo đảm thực tế cho cuộc sống của người về hưu qua tiền hưu. Khi tính toán cụ
thể, mức bảo đảm của tiền lương hưu phải được tính đến các mặt như :
- Mức tiền lương : mức tiền lương phải bảo đảm đầy đủ duy trì cuộc sống của
người hưởng lương hưu. Ở đây vừa phải bảo đảm giá trị tiền lương danh nghĩa
vừa bảo đảm cả giá trị thực tế là sức mua của tiền lương. Nghĩa là khi có những
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD



Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


16
tác động làm mất giá trị của tiền lương hưu như tác động của lạm phát thì cần
phải được điều chỉnh kịp thời.
- Tiền lương hưu hợp lý:
Tiền lương hưu hợp lý muốn nói đến tương quan so sánh giữa lương hưu với
các loại lương khác trong xã hội. Về nguyên tắc thì tiền lương hưu không thể cao
hơn tiền lương của người về hưu khi đang còn làm việc, trừ trường hợp người về
hưu tham gia thêm hình thức bảo hiểm tuổi già khác ngoài các hình thức và chế
độ hưu trí thông thường. Nhưng tiền lương hưu không thể thấp hơn tiên lương tối
thiểu. Sự so sánh đó nhằm đánh giá tương quan về mức sống giữa những người
về hưu với các tầng lớp khác trong xã hội.
 Đảm bảo sự công bằng xã hội giữa những người nghỉ hưu
Đảm bảo sự công bằng xã hội giữa những người nghỉ hưu phải được so sánh
đánh giá giữa đóng góp và hưởng thụ, theo nguyên tắc đóng nhiều hưởng nhiều,
đóng ít hưởng ít. Khác với các chế độ bảo hiểm ngắn hạn, điều này rất cần đối
với chế độ hưu trí vì việc đóng phí và hưởng trong chế độ hưu trí liên quan đến
những khoản tiền rất lớn trong thu và chi trả. Và có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc
sống của các đối tượng tham gia cả trong khi đóng và hưởng theo chế độ này. Sự
công bằng cũng có nghĩa tham gia chế độ hưu trí như nhau thì quyền lợi được
hưởng cũng phải như nhau.
 Tăng sự tác động tích cực của chế độ hưu trí đến phát triển kinh tế và sử
dụng có hiệu quả lực lượng lao động xã hội
Sự tác động tích cực của chế độ bảo hiểm hưu trí đến sự phát triển kinh tế và
ổn định xã hội là một chỉ tiêu mang tính định tính khó lượng hoá. Nhưng đây là
một chỉ tiêu rất quan trọng vì có tác dụng trực tiếp đến không chỉ người về hưu
mà bản thân người lao động đang làm việc đã và có thể sẽ tham gia vào chế độ
hưu trí. Chế độ hưu trí phải góp phần ổn định kinh tế xã hội thông qua việc sử

dụng có hiệu quả lực lượng lao động đang làm việc trong xã hội. Chẳng hạn một
chế độ hưu trí tốt làm cho lao động trong xã hội được điều hoà hợp lý, cân đối
hơn giữa các khu vực và thành phần kinh tế, qua đó nguồn lực lao động được
khai thác và huy động đúng mục đích. Việc sử dụng lực lượng lao động sẽ hiệu
quả hơn. Đảm bảo tái sản xuất sức lao động xã hội, an toàn xã hội

III. KINH NGHIỆM THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ Ở MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
1. Nội dung của chế độ Bảo hiểm hưu trí ở một số nước trên thế giới
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


17
1.1. Về điều kiện tuổi đời
Ở các nước khác nhau, tuỳ theo các nhân tố dân số và kinh tế xã hội mà có sự
quy định tuổi đời khác nhau giữa các nhóm nước và khác nhau giữa nam và nữ
trong cùng một nước. Có thể có một số nước quy định độ tuổi nam và nữ như
nhau nhưng có một số nước khác lại quy định tuổi nghỉ hưu của nữ thấp hơn
nam. Xác định tuổi nghỉ hưu phụ thuộc rất nhiều yếu tố kể cả phụ thuộc vào
nước có dân số già hay trẻ. Đối với nước có dân số già, số người nghỉ hưu lớn, vì
vậy họ phải nâng tuổi nghỉ hưu thường cao hơn so với các nước đang phát triển.
Theo số liệu của văn phòng lao động quốc tế trong 24 nước thuộc tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế ( OCDE ) và trong 40 nước đang phát triển thì tuổi nghỉ
hưu cao nhất chung đối với nam và nữ như sau :

Bảng 1: Cơ cấu tuổi nghỉ hưu ở một số nước


Độ tuổi
nghỉ hưu
chung cho cả
nam- nữ
OCDE Nước đang phát triển
Số nước % Số nước %
50 0

-

1

2,5

55 1

4,2

13

32,5

57 0

-

1

2,5


60 3

12,5

18

45

65 16

66,7

7

17,5

67 4

16,6

0

-

Tổng 24

100

40


100

( Nguồn: BHXH Việt Nam )
Ngoài ra, các nước còn quy định hạ tuổi nghỉ hưu so với tuổi nghỉ hưu bình
thường đối với những người làm những ngành nghề công việc trong điều kiện
lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
Điều kiện về tuổi đời nghỉ hưu ở một số nước được thể hiện :
- Nhóm Bắc Mỹ.
+ Mỹ, Canada : 65 tuổi ( chung cho cả hai giới ).
- Nhóm Châu Âu.
+ Anh : 65 tuổi (nam) và 60 tuổi (nữ).
+ Pháp : 60 tuổi ( tối đa là 65 tuổi).
+ Đức : 65 tuổi (nam) và 63 tuổi (nữ).
- Nhóm các nước Châu Á ( Ngoài ASEAN ).
+ Trung Quốc : 60 tuổi (nam) và 55 tuổi (nữ).
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


18
+ Nhật Bản : 60 tuổi(nam) và 55 tuổi (nữ)
+ Ấn độ : 55 tuổi(chung cho cả hai giới).
- Nhóm các nước ASEAN.
+ Indonesia: 55 tuổi (cho cả hai giới).
+ Malaysia : 55 tuổi(cho cả hai giới).
+ Xingapo : 55 tuổi (cho cả hai giới).
+ Philipin : 60 tuổi (cho cả hai giới).
Như vậy có thể thấy tuổi nghỉ hưu của các nước giao động trong khoảng từ 55

đến 65 tuổi và có phân biệt giới tính. Qua thống kê cho thấy chỉ có 34.62% số
nước có quy định tuổi nghỉ hưu ở cả nam và nữ là như nhau. Đa số các nước
ASEAN quy định tuổi nghỉ hưu chung cả nam và nữ là 55 tuổi.

1.2. Về việc xác định số năm đóng BHXH
Số năm đóng góp BHXH có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công việc xác
lập chế độ hưu trí. Vì vậy, số thời gian đóng BHXH là một trong các điều kiện
để được hưởng trợ cấp hưu. Ở nhiều nước có quy định phải có một số năm đóng
tối thiểu. Qua thống kê cho thấy số năm đóng BHXH dao động từ 15 đến 45
năm. Một nguyên tắc đặt ra trong chế độ hưu là độ tuổi được hưởng chế độ hưu
xác định cao thì đòi hỏi số năm bắt buộc phải đóng BHXH phải cao. Số năm
đóng BHXH thấp (nhưng không được thấp hơn số năm tối thiểu) thì mức trợ cấp
thấp hơn.
Quy định thời gian đóng BHXH (tối thiểu) của một số nước như sau :
- Mỹ, Anh : Đóng góp 52 tuần liên tục cộng với 9/10 tổng số năm làm việc.
- Pháp : Người tham gia BHXH phải đóng góp 150 tháng liên tục .
- Đức : 15 năm đến 35 năm.
- Nga : Nam(20 năm), Nữ(20 năm).
- Ba Lan : Nam(20 năm), Nữ(15 năm).
- Hungari : 20 năm(cho cả hai giới)
- Ấn độ : 15 năm.
- Trung quốc : 10 năm liên tục.
- Nhật : 20 năm.
- Philipin : 120 tháng liên tục.
Ở một số nước ở Đông Nam Á không quy định cụ thể thời gian đóng phí
BHXH.

1.3. Về mức trợ cấp hưu trí
Có rất nhiều cách xác định mức trợ cấp hưu trí. Một số nước xác định mức
đồng đều, coi là mức tối thiểu thích hợp với mặt bằng chung của quốc gia. Nhiều

chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


19
nước xác định mức trợ cấp theo thu nhập đã từng có của người lao động khi nghỉ
hưu. Một số nhóm nước khác kết hợp cả hai cách.
Trong phần trợ cấp có phần nền(cơ bản) là một mức đồng nhất cộng thêm
phần tỷ lệ thu nhập. Tuy nhiên xu hướng chung là trợ cấp theo mức thu nhập đã
từng có của người lao động trước khi nghỉ hưu, phù hợp với đa số trường hợp là
đóng góp BHXH theo thu nhập.
Mức trợ cấp hưu của một số nước:
- Mỹ : Mức trợ cấp hưu đồng nhất, tối đa là 11280USD/tháng, tính trên
thu nhập được bảo hiểm cho tới khi nghỉ hưu.
- Anh : 32,85 Bảng/tuần cộng 12% thu nhập được bảo hiểm trong nước.
- Pháp : 50% thu nhập bình quân trong vòng 10 năm cao nhất. Lương được
tính theo các lần thay đổi lương.
- Đức : 1,5% “lương ước tính” là tỷ lệ giữa thu nhập của người lao động so
với múc lương trung bình của cả nước nhân với “cơ sở tính toán
chung” hiện thời.
- Ba lan : 100% thu nhập bình quân của mức dưới 3000 ZLOTY một tháng
của 12 tháng gần nhất cộng với 55% của phần còn lại và tăng 4%
trợ cấp tính theo trợ cấp cơ bản cho mỗi năm công tác trên 20
năm.
- Trung quốc : 60 đến 90% thu nhập trong tháng cuối, phụ thuộc vào thời
gian công tác.
- Ấn độ: Trả một lần tương ứng với số đóng góp của chủ và thợ đã trả cộng
với 7,58 % lãi.

- Indonexia : Người nghỉ hưu được nhận một khoản trợ cấp một lần tương
đương với mức mà người sử dụng lao động và người lao động đã
đóng góp trong suốt quá trình tham gia BHXH, cộng với khoản tiền
lãi tăng thêm.
- Malaysia : Tương tự như Indonexia
- Philipines : 1,5% lương bình quân của 120 tháng cuối cộng với từ 42 đến
102% của tiền lương bình quân của 10 tháng lương.

1.4. Về mức đóng góp
Mức đóng góp cho chế độ hưu cũng có sự khác nhau giữa các nhóm nước.
Tuy nhiên ở hầu hết các nước đều có sự phân chia đóng góp giữa giới chủ và
giới thợ và đóng riêng cho chế độ hưu chứ không gộp vào các chế độ khác chẳng
hạn:
- Mỹ: Người lao động đóng 6,2% tiền lương ( nếu là lao động độc lập phải
đóng 12,4% ), người sử dụng lao động đóng 6.2 % tổng quỹ lương.
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


20
Tiền lương cao nhất được dùng làm căn cứ để đóng BHXH là 57000
USD/ năm .
- Anh : Người lao động đóng 2 % của 54 Bảng/ tuần đầu tiên cộng thêm 9%
lương tuần của tiền lương từ 54 đến 405 Bảng. Người sử dụng lao
động đóng từ 4,6 % đến 10,4 % .
- Pháp : Người lao động đóng 6,54 % trong thu nhập được tính BHXH của
mình, người sử dụng lao động đóng 8,2 % tiền lương tối đa để đóng
BHXH là 12360 FRANCS một tháng .

- Đức : Người lao động đóng 8,75 % tiền lương, nếu người lao động có thu
nhập dưới 610 DM / tháng thì không phải đóng BHXH. Người lao
động độc lập phải đóng 15,7%. Người sử dụng lao động đóng 8,75
% quỹ lương và đóng 7,5% nếu trong doanh nghiệp có người lao
động có thu nhập thấp hơn 610 DM / tháng .

2. Một số kinh nghiệm rút ra từ việc thực hiện chế độ hưu trí ở một số nước
trên thế giới
Qua nghiên cứu về quá trình tổ chức và thực hiện hệ thống hưu trí của một số
nước trên thế giới có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Ở hầu hết các nước vai trò của Nhà nước, Chính phủ trong hệ thống hưu trí là
rất quan trọng. Nhà nước với tư cách là người đề ra định hướng cho sự hoạt động
hưu trí và là một sự bảo trợ rất quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của hệ
thống này. Đặc biệt là bảo trợ về tài chính ở các mức độ và hình thức khác nhau.
- Xu hướng đa dạng hoá về tổ chức thực hiện, về nội dung và phương thức tiến
hành trong chế độ hưu trí là phổ biến. Mặc dù vai trò của nhà nước là rất quan
trọng như đã nêu ở trên nhưng tham gia hoạt động trong hệ thống hưu trí không
chỉ có các tổ chức của nhà nước, các tổ chức khác ngoài khu vực nhà nước cũng
có thể tham gia với điều kiện tuân thủ đúng những quy định trong luật BHXH và
hưu trí. Đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất để mọi thành viên
trong xã hội có nhu cầu đều có thể tham gia vào chế độ hưu trí .
- BHXH nói chung cũng như bảo hiểm hưu trí nói riêng đối với mỗi nước có
những đặc trưng riêng về tình hình phát triển kinh tế xã hội, tình hình dân số và
lao động mà có những vận dụng cụ thể vào xây dựng cho mình một hệ thống hưu
trí phù hợp về nội dung và hình thức thực hiện. Các yếu tố quan trọng để xác lập
chế độ hưu trí ở các nước khác nhau cũng khác nhau chẳng hạn tuổi đời, mức
sống, mức đóng góp Trong đó phải đảm bảo được lợi ích chính đáng của người
tham gia chế độ hưu trí và duy trì sự ổn định, đảm bảo cho hệ thống hưu trí phát
triển.
- Trong tất cả các nước, hệ thống chế độ hưu trí là cốt lõi của hệ thống các chế

độ BHXH nói chung. Trong khi các hệ thống BHXH khác có thể thực hiện bởi
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


21
các tổ chức bảo hiểm khác nhau, (như bảo hiểm thương mại về con người ) thì
bảo hiểm hưu trí chỉ có thể được thực hiện trong hệ thống BHXH. Cải cách hệ
thống BHXH chủ yếu và thực chất là cải cách chế độ hưu trí.
- Hệ thống chế độ hưu trí theo phương pháp PAYGO (thu phí của người tham
gia hiện tại chi trả cho người đang hưởng chế độ) đã từng được thực hiện trên
hầu hết các nước có hệ thống BHXH nhưng đến nay hệ thống này bộc lộ nhiều
nhược điểm và cần phải được thay thế bằng hệ thống khác. Hệ thống mới là các
nước thực hiện theo phương pháp đầu tư ứng trước. Nhưng đó là quá trình
chuyển đổi trong một thời gian dài.
Như vậy có thể nói BHXH và chế độ hưu trí đang là một trong những vấn đề
xã hội quan tâm rất lớn, có ý nghĩa kinh tế và chính trị rất quan trọng. Nhận thức
đúng về bản chất chức năng của BHXH và chế độ hưu trí đang còn là cả một quá
trình. Chế độ hưu trí đã được thực hiện từ rất lâu và có vai trò ngày càng quan
trọng trong xã hội nhưng quá trình phát triển cũng là quá trình tiếp tục nghiên
cứu và đổi mới, hoàn thiện không ngừng.






















chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


22


PHẦN II : THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ
TẠI BHXH Ở VIỆT NAM

I. CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM

Trong hệ thống BHXH ở mỗi quốc gia trên thế giới, vai trò và ảnh hưởng của
chế độ bảo hiểm hưu trí là rất lớn, bởi lẽ chế độ hưu trí có ảnh hưởng lớn nhất

đến cuộc đời những người tham gia BHXH. Chế độ hưu trí cũng là một phương
tiện có thể ổn định được phần nào đời sống người về hưu, đặc biệt là với những
người cô đơn không nơi nương tựa hoặc những người đã có những đóng góp đặc
biệt cho xã hội. Thực hiện tốt chế độ hưu trí trong hệ thống chế độ BHXH sẽ góp
phần nâng cao đời sống xã hội giảm bớt khó khăn cho người về hưu cũng như
khó khăn chung cho bộ phận dân cư khác, nâng cao uy tín của BHXH và các chế
độ khác. Có thể nói trong hệ thống các chế độ BHXH, chế độ hưu trí là chế độ
quan trọng hàng đầu. Nó đã, đang và sẽ là một chế độ BHXH có quy mô hoạt
động to lớn về cả số lượng và chất lượng.
Chính sách BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng khi áp dụng ở nước
ta đã có vai trò rất to lớn tuy nhiên cũng còn bộc lộ một số nhược điểm mà ta có
thể thấy qua các thời kỳ thực hiện sau :

1. Giai đoạn trước năm 1995
 Điều lệ tạm thời về BHXH năm 1961
Ngay sau cách mạng tháng tám năm 1945, Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, lúc đó là Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thực hiện
các chế độ BHXH cho công nhân viên chức. Điều đó được thể hiện qua việc ban
hành sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 thực hiện bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm tai
nạn lao động và bảo hiểm hưu trí .Cùng với sắc lệnh 29/SL, một số sắc lệnh khác
như sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 và sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 cũng được
ban hành sau đó, nhằm thực hiện tốt hơn các chế độ cho người tham gia bảo
hiểm xã hội.
Các chế độ này được thực hiện đối với những người làm việc trong các cơ
quan của chính phủ và chính quyền các cấp trong thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945-1954). Song các chế độ này vẫn còn nhiều hạn chế, một
phần do thực hiện trong thời kỳ kháng chiến, điều kiện kinh tế còn khó khăn
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD



Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


23
thiếu thốn, tất cả mọi người chưa quan tâm đến việc hưởng chế độ, tất cả phải lo
cho tình hình kháng chiến.
Sau khi hoà bình lập lại trên miền Bắc, các chế độ đó mới chỉ đáp ứng cục bộ
những đòi hỏi trong từng giai đoạn và từng ngành hoạt động, chỉ nhằm giải quyết
các nhu cầu trước mắt nên chưa đồng bộ, toàn diện và lâu dài .
Trước tình hình kinh tế, chính trị có những bước phát triển nhất định cùng với
việc thay đổi lại chế độ tiền lương. Quán triệt dần nguyên tắc “phân phối theo lao
động” Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961
về “ Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH thống nhất trong cả nước. Các
chế độ này được chính thức thi hành từ ngày 1/1/1962 trên cơ sở hình thành và
sử dụng quỹ BHXH tập trung, do sự đóng góp của các nhà máy, xí nghiệp và các
cơ quan Nhà nước. Quỹ BHXH được quản lý và sử dụng vì lợi ích của công
nhân viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước. Việc quản lý BHXH do hai cơ
quan quản lý đó là: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý 3 chế độ ngắn hạn
là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, còn Bộ Lao động -
Thương binh - Xã hội quản lý 3 chế độ dài hạn là hưu trí, tử tuất, mất sức lao
động. Điều lệ này thực hiện 6 chế độ BHXH cho người lao động trong đó có quy
định cụ thể về chế độ hưu trí.
Trong điều lệ, từ điều 42 đến điều 53 có quy định cụ thể về chế độ hưu trí như
quy định về thời gian công tác, tuổi đời và điều kiện lao động của công nhân viên
chức Nhà nước. Cụ thể :
- Quy định tuổi nghỉ hưu đối với nam là 60 tuổi và nữ là 55 tuổi. Số năm
công tác quy định chung là 25 năm, đối với những người lao động làm việc
ở những ngành nghề độc hại nguy hiểm thì giảm 5 năm so với quy định .
- Những người làm việc trong điều kiện làm việc đặc biệt, hoặc ở trong
quân ngũ thì thời gian công tác của họ được quy đổi theo hệ số.

Chế độ hưu trí trong giai đoạn này chỉ được thực hiện cho cán bộ công nhân
viên chức làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước và quân nhân trong lực
lượng vũ trang.
Qua đó ta có thể thấy : việc ban hành Nghị định 218/CP kèm theo điều lệ tạm
thời về BHXH là một bước ngoặc lớn trong sự nghiệp BHXH ở nước ta. Lần đầu
tiên quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động được quy định cụ thể trong chế độ
hưu trí. Từ đây, bảo hiểm hưu trí được thống nhất và có đầy đủ tính pháp lý.
Điều lệ đã giải quyết được vấn đề tính toán thời gian của người lao động cho phù
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


24
hợp với tình hình thực tế. Từ đó đánh giá đúng mức đóng góp của người lao
động cho xã hội và đưa ra các mức lương tương ứng.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số điểm tồn tại:
- Thời gian công tác nói chung là tất cả thời gian mà người công nhân viên
chức làm việc lấy lương hay sinh hoạt phí. Nếu thời gian công tác nói
chung đối với nam là 25 năm và với nữ là 20 năm mà không có thời gian
công tác liên tục trong 5 năm thì họ không được trợ cấp hưu trí. Như vậy
thì rất thiệt thòi cho người lao động. Đối với lao động nữ khi đủ 5 năm
công tác liên tục và có thời gian công tác nói chung nhiều hơn 25 năm
nhưng họ cũng chỉ được hưởng 45% lương chính. Ngoài ra, do việc quy
đổi hệ số thời gian công tác nên đã dẫn đến tình trạng số người về hưu có
độ tuổi về hưu thực tế thấp hơn nhiều so với quy định. Thậm chí có người
số năm công tác quy đổi gần bằng tuổi đời.
- Điều lệ này vẫn còn nhiều hạn chế trong chính sách BHXH nói chung và
chế độ hưu trí nói riêng. Như trong quy định về thu chi thì điều lệ không

gắn thu với chi. Thu chi đều do quy ước không có quỹ BHXH riêng mà
chỉ có quỹ BHXH “ độc lập ” trong ngân sách. Trên thực tế khi bắt đầu
thực hiện điều lệ này, cơ quan chủ quản về BHXH đã phải tiến hành chi
ngay cho chế độ hưu trí đối với nhiều người từ trước năm 1962. Do đó
ngân sách dành cho chi lại càng cao. Chính vì vậy, điều lệ năm 1961 cần
được sửa đổi, bổ sung tiếp.



Nghị định 236/HĐBT và chế độ hưu trí đối với người lao động
Trải qua thời gian thực hiện các chế độ, chính sách BHXH trên cơ sở điều lệ
tạm thời về BHXH lại ở thời kỳ đất nước đang trong giai đoạn chuyển đổi kinh
tế gặp rất nhiều khó khăn nên việc thực hiện còn nhiều hạn chế.
Trước tình hình thực tế đó, trên cơ sở kế thừa các ưu việt trong điều lệ tạm
thời về BHXH ban hành kèm theo NĐ 218/CP, Nhà nước đã ban hành NĐ
236/HĐBT ngày 18/9/1985 với nội dung như sau :
- Về tuổi đời: Nghị định quy định nam công nhân viên chức đủ 60 tuổi( nếu
là quân nhân thì đủ 55 tuổi ) và có đủ 30 năm quy đổi, nữ công nhân viên
chức có đủ 55 tuổi ( nếu là quân nhân thì đủ 50 tuổi ) và có đủ 25 năm
công tác quy đổi thì được hưởng chế độ hưu trí. Tuỳ theo điều kiện lao
động, chiến đấu, thời gian công tác mà có hệ số quy đổi khác nhau, người
về hưu được hưởng hai khoản là: trợ cấp một lần và tiền hưu hàng tháng.
chuyên đề thực tập tốt nghệp ĐHKTQD


Nguyễn Tiến Linh Lớp Bảo Hiểm 41B


25
- Cơ sở để tính lương hưu hàng tháng là lương chính và phụ cấp thâm niên(

nếu có ) ở tháng cuối cùng trước khi nghỉ hưu. Trong trường hợp sức khoẻ
giảm sút hoặc do yêu cầu công tác phải chuyển sang công tác khác hoặc
hưởng lương thấp hơn mức cũ thì lấy mức lương cao nhất trong 10 năm
trước khi nghỉ hưu.
- Về mức trợ cấp một lần trước khi nghỉ hưu tính trên tiền lương chính cộng
với tất cả các khoản trợ cấp đang hưởng của công nhân viên chức và quân
nhân sau thời gian nghỉ nguyên lương. Cụ thể là :
+ Có đủ 25 năm công tác được hưởng trợ cấp 2 tháng lương
+ Có đủ 30 năm công tác được hưởng trợ cấp 3 tháng lương
+ Có đủ 35 năm công tác được hưởng trợ cấp 4 tháng lương
Lương hưu hàng tháng đối với nam có đủ 30 năm công tác, nữ có đủ 25 năm
công tác thì được tính bằng 75% lương chính và phụ cấp thâm niên (nếu có)
ngoài ra cứ thêm 1 năm công tác được tính thêm 1% nhưng tối đa không quá
95% lương chính và phụ cấp thâm niên.
Như vậy, việc thực hiện chế độ hưu trí theo Nghị định này về cơ bản cũng
giống như giai đoạn trước đó là còn nhiều hạn chế về tuổi đời, hệ số, phạm vi
thực hiện. Cụ thể là :
- Phương pháp tính thời gian quy đổi tuy có nhiều điểm chặt chẽ song đã
gây ra một số vướng mắc cho người lao động trong việc dò tìm hồ sơ khi
về nghỉ hưu. Việc tính thời gian quy đổi đôi khi gây ra sự mất cân đối.
- Trong thực tế, tuổi nghỉ hưu trung bình vẫn còn thấp do được cộng cả hệ
số ưu đãi xã hội về thời gian và năm làm việc thực tế thành số năm được
nhận lương hưu. Mặt khác lại còn chế độ ưu đãi với những đối tượng có
sức khoẻ giảm sút từ 18% trở lên.
- Phạm vi thực hiện chế độ vẫn còn hạn hẹp, chỉ áp dụng đối với công nhân
viên chức Nhà nước, chiếm xấp xỉ 12% tổng số lao động của cả nước
nhưng lại rất tràn lan. Chế độ bị lẫn lộn giữa bảo hiểm và ưu đãi. Cơ quan
quản lý không thống nhất bao gồm cả Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội, tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và Bộ Y tế phụ trách việc giám
định khả năng lao động. Còn xét một cách tổng hợp để cho công nhân viên

chức về nghỉ mất sức lao động hoặc về hưu, do các cơ quan xí nghiệp, các
bộ ngành, các đoàn thể các cơ quan đảng đoàn thể chính quyền và các cấp
ra quyết định cơ quan phụ trách theo dõi lại không ký quyết định cho nghỉ

×