Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Thực trạng và giải pháp về chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.49 KB, 77 trang )

Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của mỗi Quốc gia, mang trong
nó bản chất nhân văn sâu sắc, vì cuộc sống an lành hạnh phúc của mọi
người lao động. Chính sách bảo hiểm xã hội thể hiện trình độ văn minh,
tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi Quốc
gia. Việc tổ chức và thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội ( BHXH ) sẽ
là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong
quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong hệ thống BHXH, chế độ hưu trí đóng một vai trò rất quan trọng.
Đây là chế độ bảo hiểm dài hạn, bảo hiểm tuổi già cho người tham gia. Nó
chiếm phần quan trọng nhất cả về qui mô thực hiện, nội dung chuyên môn
và nhu cầu tham gia của người lao động trong xã hội. ở hầu hết các Quốc
gia trên thế giới đều coi trọng chế độ này và coi đó là một trong lĩnh vực có
ảnh hưởng tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế, xã hội của đất nước.
Chính vì thế, nó luôn được quan tâm để làm sao cho việc tổ chức, quản lý,
thực hiện có hiệu quả nhất.
Ở Việt Nam, qua 40 năm thực hiện, chế độ hưu trí luôn có vị trí quan
trọng đặc biệt đối với người tham gia BHXH. Chế độ hưu cùng với các chế
độ BHXH khác đã góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống của công
nhân viên chức, lực lượng vũ trang (CNVC, LLVT) và gia đình họ làm cho
họ yên tâm lao động sản xuât, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị
của đất nước trong thời kỳ vừa qua. Nhờ có chế độ hưu trí mà người lao
động sau khi hết tuổi lao động hoặc sau một số năm công tác nhất định đã
được nghỉ hưu và được nhận tiền hưu để ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, do
điều kiện lịch sử chế độ hưu trí thời kỳ bao cấp chưa thể hiện đúng bản chất
của mình mà thể hiện tính ưu đãi bao cấp của Nhà nước cho một bộ phận
dân cư là CNVC, LLVT. Nhưng trong thời kỳ đó chế độ hưu trí cũng đã
góp phần rất lớn vào việc ổn định đời sống cho người lao động. Đến nay,
khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường nhu cầu về BHXH đa dạng
ngày càng tăng, số lượng người về hưu cũng ngày càng tăng thì đời sống


của họ luôn luôn là mối quan tâm lơn của Đảng và Nhà nước ta. Do đó đặt
ra yêu cầu là thực hiện BHXH đối với người về hưu như thế nào để đạt
được hiệu quả cao nhât, đồng thời phù hợp với hoàn cảnh đất nước trong
thời kỳ đổi mới.. Để đáp ứng được yêu cầu này thì việc xây dựng và hoàn
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 1
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
thiện chế độ hưu trí cho phù hợp với cơ chế quản lý mới là hết sức cần
thiết.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này, cùng
với quá trình thực tập tốt nghiệp tại BHXH Việt Nam, được sự đính hướng
và hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Cao Thường , chú
Nguyễn Hùng Cường_phó phòng tổng hợp thuộc Ban quản lý chế độ chính
sách của BHXH Việt Nam, em chọn đề tài : “ Thực trạng và giải pháp về
chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí tại Việt Nam ”.
Mục tiêu chủ yếu của đề tài nhằm :
 Làm rõ nội dung của chế độ bảo hiểm hưu trí cũng như vai trò và
tác dụng của nó trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
 Tìm hiểu thực trạng của chế độ bảo hiểm hưu trí trong từng giai
đoạn phát triển vừa qua ở nước ta.
 Đưa ra kiến nghị và định hướng cho việc hoàn thiện và phát triển
chế độ bảo hiểm hưu trí ở Việt Nam.
Để làm rõ và giải quyết được những vấn đề nêu trên, đề tài được thể
hiện cụ thể trong ba chương.
 Chương I : Lý luận chung về chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí.
 Chương II : Thực trạng chế độ bảo hiểm hưu trí tại BHXH Việt
Nam.
 Chương III : Một sô kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ hưu trí ở
nước ta.
Đây là một đề tài tương đối khó, hơn nữa do thời gian và kinh nghiệp
thực tế có hạn nên bài viết khó có thể tránh khỏi sai sót. Vì vậy, em rất

mong được sự góp ý, xây dựng của thầy cô giáo và bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội , ngày 27 tháng 5 năm 2002
Sinh viên : Ngô Hoàng Hưng
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 2
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI
HƯU TRÍ
I - SỰ TẤT YẾU KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI
HƯU TRÍ
1 . Sự phát triển của bảo hiểm xã hội trên thế giới.
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng
lao động , mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập
trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ , góp phần
đảm bảo an toàn xã hội ”.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là sự phát triển của lực lượng
sản xuất trên thế giới, BHXH ngày càng trở thành nhu cầu thường xuyên, tự
nguyện và chính đáng của người lao động. Ngay từ thế kỷ XVI những người
nông dân ở vùng Anper đã nhận thấy để trợ cấp cho trường hợp một số người bị
ốm đau hay tai nạn. Họ đã thành lập hội tương hỗ với cách thức mỗi người đều
trích ra một phần thu nhập để đóng góp chung vào một quỹ, phòng khi có ai bị
đau ốm hay tai nạn thì dùng quỹ đó để giúp đỡ. Hình thức sơ khai này được
BHXH phát triển dần nên, phạm vi được mở rộng ra để có thêm nhiều người
tham gia, mở thêm các loại trợ cấp bổ sung.
Nguyên tắc chung trong hoạt động bảo hiểm này là gắn liền quyền lợi được
hưởng với nghĩa vụ đóng góp. Tuy vậy BHXH chỉ thực sự trở thành một lĩnh
vực hoạt động mang tính chất và ý nghĩa xã hội sâu sắc từ đầu thế kỷ XIX. Quá
trình đó gắn liền với sự phát triển sản xuất công nghiệp, của nền kinh tế thị
trường và thị trường sức lao động mà trong đó có quan hệ chủ thợ trong lao động

được trở nên phổ biến.
Một bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm trong lịch sử được hình thành ở
nước Anh vào năm 1819. Bộ luật này có tên là bộ luật nhà máy. Nội dung cơ
bản trong luật này là bảo hiểm cho lao động trong các xưởng thợ. Ở một nước
công nghiệp khác, nước Đức đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau vào năm 1883,
luật tai nạn lao động năm 1884 và luật bảo hiểm người già và người tàn tật do
lao động vào năm 1889. Sự ra đời các bộ luật chính thức đầu tiên đó phản ánh
một yêu cầu tất yếu khách quan của BHXH.
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 3
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
Sang thế kỷ 20, hầu hết các nước trên thế giới mà trước hết là các nước công
nghiệp phát triển ở một trình độ cao đều ban hành và thực hiện điều luật về
BHXH đối với người lao động. Với sự phát triển như vậy, BHXH đã trở thành
một lĩnh vực mang tính quốc tế rộng lớn. Hiện nay có hơn 160 quốc gio trên thế
giới thực hiện BHXH
2 . Cơ sở hình thành chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ BHXH :
Để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển, con người phải lao động để tạo ra
của cải vật chất. Nhưng cùng với thời gian, con người sẽ bị già đi, sức khoẻ của
họ bị giảm sút không còn khả năng lao động, không còn khả năng tự đáp ứng
nhu cầu cho cuộc sống.Lúc đó khoản thu nhập mà họ có thể sinh sống hoặc là do
tích góp trong quá trình lao động hoặc do con cháu nuôi dưỡng... Những nguồn
thu nhập này không thường xuyền và phụ thuộc vào điều kiện của từng người.
Để đảm bảo lợi ích cho người lao động khi họ hết tuổi lao động và giúp họ có
nguồn thu nhập thường xuyên, ổn định, nhà nước đã thực hiện chế độ BHXH
hưu trí.
Vậy bảo hiểm hưu trí là hình thức bảo đảm thu nhập cho người lao động
khi hết tuổi lao động. Người lao động tạo ra thu nhập để nuôi sống chính họ
trong quá trình lao động. Quá trình này diễn ra ngay trong các nhà máy, xí
nghiệp, đơn vị kinh tế, hành chính sư nghiệp trong lĩnh vực quốc doanh và ngoài
quốc doanh. Trong quá trình đó, họ cống hiến sức lao động để xây dựng đất

nước bằng cách tạo ra thu nhập cho xã hội và cho cả chính họ nữa. Do đó đến
khi họ không còn khả năng lao động nữa thì họ phải được sự quan tâm ngược lại
từ phía xã hội. Đó chính là khoản tiền trợ cấp hưu trí hàng tháng phù hợp với số
phí BHXH mà họ đã đóng góp trong suốt quá trình lao động. Nguồn trợ cấp này
tuy ít hơn so với lúc đang làm việc nhưng nó rất quan trọng và cần thiết giúp cho
người về hưu ổn định về mặt vật chất cũng như tinh thần trong cuộc sống, tạo
cho họ có thêm điều kiện để cống hiến cho xã hội những kinh nghiệm quý báu
trong quá trình lao động sản xuất mà họ đã tích luỹ được nhằm xây dựng đất
nước ngày càng phồn vinh hơn.
Bảo hiểm hưu trí bảo đảm quyền lợi cho người lao động giúp họ tự bảo vệ
mình khi hết tuổi lao động, tự lo cho chính mình một cách hợp lý nhất nhờ vào
việc họ đã cống hiến sức lao động của mình để tạo ra của cải vật chất cho xã hội
trước đó. Người lao động chỉ cần trích ra một tỷ lệ % tiền lương tương đối nhỏ
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 4
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
khi còn đang làm việc trong một thời gian nhất định. Đến khi hết tuổi lao động
phải nghỉ việc họ sẽ có được sự bảo đảm của xã hội làm giảm bớt phần nào khó
khăn về mặt tài chính do thu nhập thấp vì không còn lao động được nữa.
Như vậy bảo hiểm hưu trí là một chế độ mang tính xã hội hóa cao được thực
hiện một cách thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nói cách khác, chế độ bảo hiểm hưu trí lấy đóng góp của thế hệ sau chi trả cho
các thế hệ trước. Vì vậy, nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết giữa các thế hệ, làm
cho mọi người trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau hơn thể hiện mối quan
tâm sâu sắc giữa người với người trong xã hội .
3 . Vai trò của chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ BHXH
Trong một hệ thống BHXH thường bao gồm nhiều chế độ khác nhau. Số
lượng các chế độ BHXH được xây dựng và thực hiện phụ thuộc vào trình độ
phát triển và mục tiêu cụ thể của hệ thống BHXH trong từng thời kỳ của mỗi
nước. Tuy nhiên, trong bất cứ hệ thống BHXH nào cũng có những chế độ chính
thể hiện đặc trưng những mục tiêu chủ yếu của hệ thống bảo hiểm xã hội. Một

trong những chế độ đó là chế độ hưu trí hay chế độ bảo hiểm tuổi già cho người
lao động .
Có thể khẳng định rằng chế độ hưu trí là một trong những chế độ bảo hiểm
được thực hiện sớm nhất trong lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội. Theo quy
định của ILO thì chế độ này là một trong những chế độ bắt buộc, là chế độ chính
sách khi mỗi quốc gia muốn xây dựng cho mình một hệ thống bảo hiểm xã hội.
Theo thống kê của ILO, trong tổng số 163 nước trên thế giới có hệ thống BHXH
(1993) thì có tới 155 nước có thực hiện chế độ hưu trí chiếm tỷ lệ 95,1%. Điều
đó chứng tỏ chế độ hưu trí rất được các nước cũng như người lao động quan tâm
Trên thực tế, tất cả những người tham gia vào BHXH đều có mong muốn
tham gia vào chế độ hưu trí. Trong phần đóng góp phí BHXH nói chung thì phần
chủ yếu là đóng cho chế độ này. Đối với hệ thống BHXH thì hoạt động của
ngành này tập trung chủ yếu vào chế độ hưu trí cho người lao động. Điều này
được thể hiện cụ thể trong các hoạt động nghiệp vụ của bảo hiểm xã hội. Chẳng
hạn ở Việt Nam, chế độ hưu trí có vị trí đặc biệt quan trọng với người tham gia
bảo hiểm xã hội. Chế độ này được quy định và đưa vào thực hiện ngay từ khi hệ
thống BHXH mới được thành lập ( 1947). Theo các quy định hiện hành thì tỷ lệ
giành cho bảo hiểm hưu trí và các chế độ khác có liên quan tới người về hưu là
75% ( phí bảo hiểm là 20% tổng quỹ tiền lương thì giành tới 15% đóng cho hưu
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 5
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
trí ). Do đó thu cho chế độ hưu trí cũng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu
của bảo hiểm xã hội, khoảng từ 60-80%. Tương tự như vậy trong tổng chi của
BHXH thì việc chi cho chế độ này cũng rất lớn. Trong những năm gần đây tiền
chi cho chế độ hưu trí chiếm khoảng trên 70% tổng chi cho BHXH . Như vậy,
hoạt động thu chi của chế độ hưu trí có ảnh hưởng sống còn tới toàn bộ hoạt
động của hệ thống bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định của BHXH nói
riêng cũng như cả xã hội nói chung.
Một vấn đề nữa đặt ra là xu hướng già hoá của dân số thế giới dẫn đến số
lượng người nghỉ hưu ngày càng tăng. Điều đó cho thấy rõ vai trò ngày càng

quan trọng của chế độ hưu trí trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Hơn nữa, chế độ bảo hiểm hưu trí còn thể hiện được sự quan tâm chăm sóc của
Nhà nước, người sử dụng lao động đối với người lao động, và nó còn thể hiện
đạo lý của dân tộc đồng thời còn phản ánh trình độ văn minh của một chế độ xã
hội .
4. Tác dụng và đặc trưng của bảo hiểm hưu trí :
4.1 Tác dụng của bảo hiểm hưu trí :
Bảo hiểm hưu trí giúp đảm bảo đời sống cho người lao động khi họ về hưu do
đó giúp cho xã hội ổn định và gắn bó. Ngày nay, tỷ lệ người già trong dân số
càng tăng do đó ổn định đời sống cho bộ phận này là rất quan trọng. Mặt khác,
khi nghỉ hưu người lao động được sống thoải mái hơn và an nhàn hơn. Đối với
người có trình độ có khả năng họ lại tiếp tục cống hiến, truyền đạt kinh nghiệm
cho thế hệ sau.
Người lao động trong quá trình lao động họ có được sự bảo đảm chắc chắn về
phần thu nhập khi họ nghỉ hưu, làm cho họ yên tâm chú ý, không lo nghĩ về điều
kiện sống khi nghỉ hưu do đó có thể làm việc với năng suất và chất lượng cao
hơn.
Giúp người lao động tiết kiệm cho bản thân mình ngay trong quá trình lao
động để bảo đảm đời sống khi nghỉ hưu, giảm bớt phần nào gánh nặng cho người
thân, gia đình và xã hội .
4.2 Đặc trưng của chế độ bảo hiểm hưu trí :
Bảo hiểm hưu trí là một chế độ BHXH dài hạn nằm ngoài qúa trình lao động.
Đặc trưng này thể hiện cả trong quá trình đóng và hưởng bảo hiểm hưu trí.
Người lao động tham gia đóng phí BHXH trong một thời gian khá dài. Thời gian
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 6
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
đó liên tục đủ lớn theo quy định thì sẽ đủ một trong những điều kiện để được
hưởng bảo hiểm hưu trí. Khi đã đủ các điều kiện thì người lao động sẽ được
hưởng trợ cấp hưu trí trong khoảng thời gian tính từ lúc về hưu cho đến khi
người lao động chết. Quá trình hưởng này dài ngắn bao nhiêu tuỳ thuộc vào tuổi

thọ của từng người và những người hưởng bảo hiểm hưu trí là những người đã
kết thúc quá trình làm việc của mình mà theo quy định được nghỉ ở nhà và
hưởng lương hưu.
Trong chế độ hưu trí có sự tách biệt giữa đóng và hưởng. Vì đây là một chế
độ nằm ngoài quá trình lao động, cho nên để được hưởng chế độ hưu trí khi về
hưu thì người lao động phải tham gia đóng phí ngày trong quá trình lao động.
Trong suốt quá trình lao động, số tiền người lao động đóng góp vào quỹ bảo
hiểm hưu trí dùng để chi trả lương hưu ( trợ cấp tuổi già ) cho thế hệ trước. Như
vậy có sự kế thừa giữa các thế hệ lao động trong việc hình thành quỹ bảo hiểm
hưu trí, qua đó thể hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít của bảo hiểm .
Phụ thuộc chặt chẽ vào quan hệ sử dụng lao động. Người lao động và người
sử dụng lao động có mối quan hệ với nhau. Người sử dụng lao động muốn ổn
định và phát triển sản xuất kinh doanh thì ngoài việc đầu tư cho thiết bị máy
móc hiện đại ,còn phải chăm lo tới đời sống người lao động mà mình đang sử
dụng, tạo cho họ việc làm, đảm bảo cuộc sống cho họ khi hết tuổi lao động bằng
việc đóng BHXH cho người lao động. Từ những tác dụng và đặc trưng trên, quỹ
bảo hiểm hưu trí chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong quỹ bảo hiểm hưu trí. Do đó
bộ phận quản lý quỹ có thể sử dụng phần quỹ bảo hiểm hưu trí nhàn rỗi để đầu
tư sinh lời nhằm ổn định, bảo đảm cân bằng và tăng trưởng quỹ. Từ đó góp phần
thúc đẩy đầu tư tăng trưởng vào nền kinh tế quốc dân, tạo ra nhiều việc làm cho
người lao động, góp phần hạn chế nạn thất nghiệp hiện nay.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ
Hưu trí là một chế độ nhằm bảo đảm thực hiện quyền lợi hợp pháp của công
dân sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động đối với xã hội. Chế độ này nhằm
bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động khi họ đã hết tuổi lao động
(không còn khả năng lao động ) về nghỉ hưu an dưỡng lúc tuổi già. Như vậy, chế
độ hưu trí là một chế độ có liên quan đến rất nhiều mặt trong quá trình tổ chức
thực hiện. Do vậy, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu để đi
đến xác lập một chế độ bảo hiểm hưu trí. Sau đây là một số nội dung cơ bản:
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 7

Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
1 . Điều kiện để hưởng bảo hiểm hưu trí.
Độ tuổi hưởng chế độ BHXH dài hạn nói chung và chế độ hưu trí nói riên
đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định chi phí của hệ thống chế độ.
Tuổi hưởng chế độ hưu trí có thể được ấn định theo một loạt các cân nhắc như:
- Khả năng làm việc tổng thể của người cao tuổi
- Vị thế của người cao tuổi trong thị trường lao động
- Khả năng kinh tế của chế độ hưu trí
Điều quan trọng là phải cân đối từ giác độ mức hưởng thoả mãn đóng và chi
phí liên quan đến tuổi thọ bình quân của người cao tuổi. Mặc khác, khi quy định
tuổi về hưu còn phải dựa vào quy luật sinh -lão - tử và điều kiện kinh tế xã hội
của mỗi nước.
Ngoài ra, tuổi nghỉ hưu còn được quy định hạ thấp so với độ tuổi bình quân đối
với những người làm những công việc trong điều kiện lao động và môi trường
nặng nhọc, nguy hiểm đã có ảnh hưởng nhất định làm suy giảm một phần khả
năng lao động so với bình thường hay những người có thể chất yếu không đủ sức
đảm đương công việc .
2 .Thời gian đóng bảo hiểm để được hưởng chế độ hưu trí
Thời gian đóng bảo hiểm hưu trí là tổng số đơn vị thời gian có đóng phí bảo
hiểm để được hưởng chế độ này. Việc quy định thời gian đóng phí BHXH nhằm
xác định sự cống hiến về mặt lao động của mỗi người với xã hội nói chung và
phần đóng góp và BHXH nói riêng. Thời gian đóng BHXH là một trong những
căn cứ để đãi ngộ ( chi trả ) đối với người lao động như theo luật định nhằm bảo
đảm sự công bằng, bình đẳng giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội, thực
hiện một trong những nguyên tắc cơ bản của BHXH .
Việc xác định thời gian đóng phí BHXH được dựa trên căn cứ: độ tuổi về
hưu, tỷ lệ đóng góp , tuổi thọ của những người về hưu, mức được hưởng... tóm
lại tuỳ thuộc vào khả năng tài chính về chế độ hưu trí nói riêng và BHXH nói
chung... Về nguyên tắc nếu xuất phát từ việc đóng BHXH để hình thành quỹ sử
dụng cho chế độ hưu trí thì phải tính đến tổng số thời gian đóng phí BHXH thực

tế. Còn trong trường hợp người lao động làm việc trong những trường hợp đặc
biệt như người lao động làm việc ở nơi độc hại, vùng sâu, vùng xa... được pháp
luật BHXH quy định số thời gian này được làm căn cứ để giảm tuổi đời khi nghỉ
hưu.
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 8
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
Trong các chế độ BHXH bắt buộc, đối với chế độ hưu trí hầu hết các nước
đều quy định điều kiện để được hưởng chế độ phụ thuộc hai yếu tố đó là độ tuổi
xác định và số năm đóng BHXH .
3 . Phí bảo hiểm hưu trí
Cũng như tất cả các chế độ bảo hiểm khác, chế độ hưu trí liên quan đến mức
phí thu cho chế độ này. Trong thực tế có mức thu cho chế độ này được xác định
riêng theo một tỷ lệ nào đó so với thu nhập hay tiền lương dùng để tính BHXH
và bảo hiểm hưu trí. Đối với người lao động làm công ăn lương thì thu nhập này
thường là tiền lương. Trong một số trường hợp mức thu cho chế độ hưu trí không
xác định riêng mà được gộp chung vào một mức thu gọi là thu BHXH nói chung.
Ở Việt Nam hiện nay thực hiện thu chung một mức phí BHXH cho tất cả các chế
độ BHXH đang được thực hiện mặc dù trong đó có định lượng phần giành cho
các chế độ bảo hiểm dài hạn bảo hiểm hưu trí.
Trong trường hợp như vậy phí hưu trí được xác lập riêng thì phí được xác
định theo công thức sau đây:
P = T * TBH * L
Trong đó : P : Mức phí đóng cho chế độ hưu trí
TBH : Tỷ lệ thu BHXH tính theo thu nhập hay tiền lương
L : Tiền lương hay thu nhập dùng để tính phí BHXH và chế
độ hưu trí
T : Tỷ lệ % đóng BHXH hưu trí nói chung
Việc xác định phí nộp cho chế độ hưu trí riêng ra hay gộp chung như nói ở
trên tuỳ thuộc điều kiện và mô hình hay phương thức tổ chức hoạt động ở từng
nước. Nếu phí cho chế độ hưu trí được xác định riêng thì sẽ tạo thuận lợi cho

việc tính toán và quản lý cho chế độ này, nhất là khi nó được mở rộng ra những
khu vực khác nhau mà người lao động ở đó có hình thức thu nhập không đồng
nhất như thu nhập bằng tiền. Tách riêng như vậy cũng tạo ra sự linh hoạt hơn
cho người tham gia chế độ này.
Tuy nhiên, nếu tách riêng như vậy cũng có nghĩa là các chế độ khác cũng
được tách riêng ra điều này làm cho hoạt động quản lý BHXH nói chung phải
phức tạp hơn. Còn trong trường hợp không xác định riêng mức thu phí cho từng
chế độ thì có thể công việc quản lý ít phức tạp hơn nhưng lại phức tạp khi phải
xác định phí đóng cho bảo hiểm khi áp dụng cho người lao động có các hình
thức thu nhập khác nhau.
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 9
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
4 . Mức hưởng hay tiền lương hưu
Mức hưởng là số tiền mà một người về hưu nhận được hàng tháng kể từ khi
nghỉ hưu. Hiện nay đang có những quan điểm khác nhau về mức hưởng. Về cơ
bản có hai quan điểmm chính. Quan điểm thứ nhất cho rằng tiền lương hưu là để
bảo đảm mức sống tối thiểu của người nghỉ hưu theo tiêu chuẩn sống của quốc
gia. Còn theo quan điểm thứ hai thì lại là tiền lương hưu phải có giá trị bảo đảm
cho người về hưu có mức sống cao, thậm chí trên mức trung bình của xã hội. Sự
khác nhau này tất nhiên sẽ dẫn đến mức đóng tương ứng trước khi được hưởng
cũng khác nhau.
Trong thực tế, khuynh hướng nào cũng có lý khi giải thích những nếu xét về
mức sống của người về hưu và đặt trong quan hệ với sự phát triển và ý nghĩa về
sự hấp dẫn của BHXH đối với người lao động thì khuynh hướng thứ hai có sức
thuyết phục hơn. Những dù là mức hưởng được xác định theo quan điểm nào thì
vẫn phải đảm bảo yêu cầu có tính nguyên tắc là tiền lương hưu phải thấp hơn
tiền lương khi làm việc.
Tiền lương được tính theo công thức sau: LH = T * L
Trong đó: LH : Tiền lương hưu được hưởng
T : Tỷ lệ % dùng để tính lương hưu

L : Tiền lương hay thu nhập dùng để tính lương hưu
Ngoài ra, tuỳ theo luật pháp của từng nước về chế độ này mà người nghỉ hưu
được hưởng thêm các quyền lợi như trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, hay đối với
những người lao động nghỉ việc chưa đủ tuổi để hưởng chế độ hưu hàng tháng
cũng nhận được trợ cấp một lần và ngoài lương hưu hàng tháng, người nghỉ hưu
còn được bảo hiểm y tế do quỹ BHXH đài thọ , khi chết gia đình được hưởng
chế độ tử tuất.
5 . Thời gian hưởng chế độ hưu trí
Thời gian hưởng chế độ hưu trí được hiểu là thời gian kể từ khi nghỉ hưu cho
đến khi qua đời. Với mỗi người thì thời gian hưởng lương hưu thông thường là
có khác nhau vì tuổi nghỉ hưu và tuổi thọ không giống nhau. Và do một trong
những vấn đề có tính xã hội, tính bù trừ ... trong BHXH nên trong quản lý
thường lấy số bình quân chung thời gian hưởng tiền lương hưu của người nghỉ
hưu trong cùng một hệ thống BHXH để tính toán cho các chỉ tiêu khác.
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 10
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
Thời gian hưởng tiền hưu phải ngắn hơn thời gian đóng BHXH cho chế độ
hưu trí. Tuy vậy, thời gian nghỉ hưu để hưởng tiền lương hưu có thể khác nhau
trong khi thực hiện chế độ bảo hiểm này.Điều đó phụ thuộc vào các yếu tố như
tuổi đời khi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật, tuổi thọ bình quân của người
nghỉ hưu. Những yếu tố này lại phụ thuộc vào chính sách lao động và BHXH
trong từng giai đoạn, vào mức sống và điều kiện sống của dân cư.
Trong thực tế, tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật thường ổn định
trong một thời gian dài và nếu có thay đổi thì cũng ở trong khoảng từ 55 đến 60
tuổi đối với người lao động bình thường trong xã hội. Trong trường hợp đặc biệt
có thể có những điều chỉnh nhưng cũng dựa trên những độ tuổi đó. Khi tuổi thọ
bình quân ngày càng tăng lên thì thời gian hưởng chế độ hưu trí cũng có xu
hướng tăng lên. Vấn đề có tính quy luật này buộc các nhà nghiên cứu các chế độ
chính sách về lao động và BHXH phải tính đến để điều chỉnh tuổi về hưu cho
phù hợp.

6 . Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của chế độ hưu trí .
BHXH nói chung cũng như chế độ hưu trí nói riêng là những phạm trù kinh tế
tổng hợp, phản ánh rất nhiều mặt trong đời sống xã hội. Do vậy, việc hình thanh
hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả là hoàn toàn không đơn giản vì khó có
thể có được một hệ thống chỉ tiêu phản ánh đầy đủ tất cả các khía cạnh của lĩnh
vực này.
Tuy nhiên việc xây dựng các chỉ tiêu này thực sự cần thiết và đó là cơ sở cho
việc đánh giá trình độ phát triển và kết quả của BHXH trong đời sống xã hội.
Thông thường việc đánh giá kết quả hay hiệu quả của mỗi hoạt động nào đó
chúng ta phải so sánh với định hướng, mục tiêu đề ra. Tính hiệu quả do vậy phản
ánh trong mức độ đạt được so với các mục tiêu đặt ra đó
Trong BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng , mục tiêu cao nhất là đạt
được sự phát triển của ngành BHXH và bảo đảm đời sống người về hưi trên cơ
sở của tiền lương hưu trí ( còn gọi là thu nhập thay thế ) mà người lao động nhận
được từ quỹ bảo hiểm xã hội. Góp phần bảo đảm an sinh và ổn định xã hội. Các
chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cũng phải xoay quanh mục tiêu này. Trong chế độ hưu
trí, do tính phức tạp của chế độ này mà hệ thống các chỉ tiêu phải bao gồmất cả
các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng
Theo quan điểm về hiệu quả như trên ta thấy có thể có ba nhóm chỉ tiêu hiệu
quả của hoạt động BHXH đó là :
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 11
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
Nhóm 1: Các chỉ tiêu hiệu quả của hoạt động bảo hiểm hưu trí
Nhóm 2 : Các chỉ tiêu đánh giá về sự phát triển của bảo hiểm hưu trí
Nhóm 3 : Các chỉ tiêu đảm bảo lợi ích về kinh tế xã hội của người về hưu
Sau đây là sự xác định cụ thể trong từng nhóm chỉ tiêu
6.1. Các chỉ tiêu hiệu quả trong hoạt động của bảo hiểm hưu trí
BHXH tập trung vào ba hoạt động chính đó là thu BHXH, quản lý quỹ
BHXH và chi trả BHXH. Trong mỗi hoạt động đó có các chỉ tiêu cụ thể để đánh
giá mức độ hiệu quả cụ thể:

 Thu bảo hiểm hưu trí
Thu bảo hiểm hưu trí là một chỉ tiêu tổng hợp và hiệu quả của nó được đánh
giá trên các mặt chủ yếu sau:
- Tỉ lệ về số người đóng BHXH
Số người đóng
Tỉ lệ % người đóng = * 100
Số người phải đóng.
Thực chất là thực hiện thu đúng và đủ số người đóng bảo hiểm hưu trí. Thu
đúng ở đây chủ yếu là thu đúng đối tượng phải thu. Số đối tượng phải thu hiện
nay là số người lao động thuộc diện đóng BHXH bắt buộc, đăng kí tham gia
đóng bảo hiểm hưu trí. Họ phải đóng BHXH trong đó có chế độ hưu trí. Số
người này thường thay đổi do có sự thay đổi của các doanh nghiệp trong quá
trình kinh doanhà nước, nhất là số người lao động làm việc ở khu vực ngoài quốc
doanh. Việc thu đúng thu đủ là rất cần thiết để BHXH vừa đảm bảo lợi ích cho
người lao động, vừa đảm bảo có những tác dụng tích cực với các hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp cũng như với nền kinh tế nói chung. Mục tiêu thu ở
đây là đảm bảo thu 100% đối tượng thuộc diện phải đóng BHXH và hưu trí.
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 12
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
Chỉ tiêu này có thể áp dụng mở rộng ra cho tất cả số người lao động có nhu
cầu tham gia bảo hiểm hưu trí, và rộng hơn nữa là toàn bộ số người lao động
trong xã hội.
- Thu đủ số tiền theo quy định cho chế độ hưu trí.
Số tiền thu được
Tỷ lệ % tiền thu được = * 100
Số tiền phải thu
Số tiền thu được này phụ thuộc vào mức thu theo luật định và số lượng người
mà các cơ quan BHXH đã thu được, hay số người trực tiếp đóng bảo hiểm xã
hội. Thu đủ là rất quan trọng không chỉ vì như đã đề cập ở trên mà đó còn là bảo
đảm một sự chủ động về nguồn tài chính, làm cho nguồn quỹ BHXH được ổn

định, giúp duy trì các hoạt động bình thường và ngày cáng phát triển của chế độ
hưu trí
- Thu đúng thời gian :
Đó là thời gian mà các đơn vị và cá nhân phải đóng BHXH theo quy định của
pháp luật hiện hành. Nếu không thu đúng thời gian sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch
tài chính trực tiếp của chế độ hưu trí. Nhất là trong điều kiện chế độ hưu trí áp
dụng theo cơ chế thu của người đóng trả cho người hưởng. Còn trong chế độ hưu
trí theo cơ chế của đầu tư ứng trước thì thu kịp thời là một điều kiện quan trọng
để ổn định và phát triển quỹ hưu trí trong tương lai trên cơ sở các kế hoạch sử
dụng quỹ để đầu tư sinh lời .
 Chi trả BHXH
Trong hoạt động chi trả, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cũng tập trung vào các
nội dung chủ yếu sau đây:
- Chi trả đúng đối tượng
Đảm bảo tiền hưu phải đến đúng người được hưởng.Đó phải là những người
hội đủ được điều kiện ràng buộc để được hưởng chế độ hưu trí. Điều này có liên
quan đến công tác quản lý đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Khác với người lao
động khi tham gia đóng bảo hiểm xã hội, sự di chuyển hay thay đổi nơi ở của
từng người về hưu phụ thuộc vào khả năng và điều kiện sống mà họ lựa chọn.
Khi đó công tác quản lý phải có sự linh hoạt tốt để không chỉ quản lý tốt mà còn
được thực hiện chi trả thuận lợi đúng đối tượng được hưởng chế độ này.
- Chi trả đủ về số lượng
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 13
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
Chỉ tiêu chi trả đủ về số lượng phản ánh về số tiền chi trả đủ cho mọi đối
tượng được hưởng hưu trí theo quy định. Đây là yêu cầu pháp lý, được luật định
thành các mức tiền hưu được hưởng. Chi trả đủ cho người về hưu phải được đảm
bảo trên cơ sở số tiền mà quỹ hưu trí có được dùn để thanh toán và sự an toàn
của số tiền này trong quá trình chi trả cho các đối tượng được hưởng chế độ hưu
trí

- Chi trả kịp thời gian
Chi trả kịp thời gian chính là việc bảo đảm người về hưu phải được nhận
lương hưu đúng theo thời gian quy định. Đây là điều rất quan trọng vì tiền hưu là
một loại thu nhập thường xuyên của người về hưu. Đối với các đối tượng này
việc nhận lương hưu đúng hạn sẽ giúp cho họ có thể ổn định được đời sống. Đối
với các cơ quan bảo hiểm điều này có ý nghĩa rất lớn trong quản lý nói chung và
thanh quyết toán cho chế độ hưu trí nói riêng.
Các chỉ tiêu rất quan trọng trong quản lý quá trình thực hiện BHXH ở Việt
Nam trong điều kiện hiện nay khi mà BHXH đang còn có nhiều thay đổi cho phù
hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế xã hội ở nước ta.
 Quản lý quỹ hưu trí
Chỉ tiêu của hoạt động này phản ánh qua quản lý số lượng tiền hay quy mô
quỹ bảo hiểm hưu trí nhằm bảo toàn giá trị của quỹ hưu trí cả về giá trị danh
nghĩa và giá trị thực tế. Đồng thời đó còn là việc sử dụng quỹ này vào các hoạt
động khác nhau, làm phát triển không ngừng và nâng cao khả năng thanh toán
của quỹ hưu trí. Đó chính là sự tăng cường nguồn lực tài chính của chế độ hưu
trí. Ở đây có nhiều chỉ tiêu cụ thể:
- Bảo toàn giá trị của quỹ bảo hiểm hưu trí
Chỉ tiêu về bảo toàn giá trị của quỹ bảo hiểm hưu trí là bảo toàn giá trị thực tế
của quỹ hưu trí trong các thời kỳ quyết toán tránh được những tác động làm cho
giá trị của quỹ này giảm đi. Trong quá trình quản lý quỹ, có thể có các trường
hợp làm cho quỹ hưu trí giảm đi như:
+ Tiền quỹ bị tổn thất, mất mát
+ Tiền quỹ bị mất giá do lạm phát
+ Tiền quỹ đầu tư không thu hồi được
+ Tiền quỹ không thu hồi được ( nợ, nộp chậm... )
+ Các thất thoát khác...
- Mức và tỷ lệ tăng của quỹ hưu trí qua các thời kỳ
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 14
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp

Mức và tỷ lệ tăng của quỹ hưu trí qua các thời ký là một trong những chỉ tiêu
quan trọng nhất trong quản lý quỹ bảo hiểm hưu trí hiện nay. Để bảo đảm cho
một tiềm lực tài chính ổn định và vững mạnh, quỹ hưu trí phải tăng lên không
ngừng. Sự tăng lên này chủ yếu từ hai nguồn là :
+ Tăng thêm số người tham gia vào chế độ hưu trí
+ Sử dụng quỹ hưu trí đầu tư vào các hoạt động mang lại lợi nhuận một
cách an toàn
Tốc độ tăng thực tế của quỹ hưu trí như vậy phải cao hơn tốc độ tăng của số
người tham gia vào chế độ hưu trí và tất nhiên phải tăng với tốc độ cao hơn tốc
độ tăng của chi trả cho chế độ này. Có như vậy mới tạo được sự vững chắc, ổn
định và phát triển không ngừng của chế độ hưu trí

- Khả năng cân đối thu chi của quỹ BHXH
Chỉ tiêu khả năng cân đối thu chi quỹ bảo hiểm hưu trí phản ánh độ an toàn
của quỹ hưu trí nói riêng và sự tồn tại chế độ hưu trí nói chung. Để bảo đảm
tránh những rủi ro, thì quỹ tiền hưu phải đủ đảm bảo chi trả các khoản chi của
chế độ này chủ yếu bao gồm chi tiền lương hưu cho người nghỉ hưu và chi cho
hoạt động quản lý. Đây là điều kiện cần thiết bất kể áp dụng phương pháp cụ thể
nào để tạo lập quỹ
Tổng thu và tổng chi trong biểu thức điều kiện trên được xác định và so sánh
tại một thời điểm tính toán. Tổng thu và tổng chi có thể được xác định khác nhau
tuỳ theo phương pháp tạo quỹ được áp dụng trong hệ thống hưu trí. Vì theo các
phương pháp khác nhau có thể cơ cấu thu và chi cũng sẽ khác nhau
6.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của chế độ hưu trí
 Mở rộng phạm vi đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí
Chỉ tiêu mở rộng phạm vi đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí được
tính qua tỷ lệ người lao động trong xã hội thực hiện vào chế độ hưu trí trong
tổng số lao động nói chung. Đây là chi tiêu phản ánh kết quả thực hiện mục tiêu
mở rộng phạm vi hoạt động của chế độ hưu trí. Trong điều kiện ở các nước có
nền kinh tế kém phát triển, số người tham gia vào chế độ hưu trí không nhiều thì

Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 15
Tổng thu thực tế > Tổng chi
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá quy mô và sự phát triển của chế độ hưu trí
qua các thời kỳ.
Theo đuổi mục tiêu mọi người đều có quyền và được tham gia vào BHXH để
hưởng chế độ hưu trí nên trong quá trình phát triển và mở rộng phạm vi hoạt
động số người tham gia vào chế độ này phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng nguồn
lao động xã hội. Tỷ lệ tăng số lượng người tham gia chế độ hưu trí được xác định
trên cơ sở mục tiêu mở rộng của chế độ này. Ở đây có thể lượng hoá chỉ tiêu này
qua tỷ lệ phần trăm số người tham gia vào chế độ bảo hiểm hưu trí và tốc độ tăng
của tỷ lệ này qua các năm. Ngoài ra, cũng có thể tính thêm chỉ tiêu tỷ lệ tăng
tương đối so với tỷ lệ tăng lao động xã hội .
 Mở rộng các hình thức tham gia chế độ hưu trí
Mở rộng các hình thức tham gia chế độ hưu trí là chỉ tiêu chủ yếu phản ánh
sự tăng thêm các hình thức mới trong việc đóng phí bảo hiểm và hưởng chế độ
hưu. Chỉ tiêu này phản ánh sự phát triển về tổ chức hệ thống và các hoạt động
của chế độ hưu trí, qua đó tăng cơ hội và khả năng để mọi người có thể tham gia
vào chế độ này. Hiện nay ở Việt Nam chúng ta mới áp dụng một hình thức đóng
để hưởng chế độ hưu trí trong đó dựa chủ yếu vào thời gian đóng và tuổi đời khi
nghỉ hưu.
Tuy nhiên sự khống chế về số năm đóng tối thiểu như luật định hiện nay là 15
năm kèm với điều kiện tuổi đời chỉ thích hợp với người có công việc làm và thu
nhập ổn định để đóng bảo hiểm xã hội, nhất là lao động làm việc trong các doanh
nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước Việc linh hoạt về thời gian đóng BHXH làm cho
nhiều người có nhu cầu có thêm cơ hội để tham gia vào chế độ này .
Xét trên một góc độ khác, mức đóng cố định chỉ phụ thuộc vào mức thu nhập
hay tiền lương để tính BHXH cũng sẽ làm giảm sức hấp dẫn của chế độ này khi
nhiều người muốn đóng thêm trên mức bình thường để sau đó được hưởng mức
tiền cao hơn .

6.3. Các chỉ tiêu bảo đảm quyền lợi kinh tế và xã hội của người về hưu
Quyền lợi về kinh tế xã hội cho người về hưu phải được phản ánh trong thực
tế đời sống kinh tế xã hội . Có thể dùng các chỉ tiêu sau đây để đánh giá :
 Mức bảo đảm các tiêu chuẩn sống của người về hưu
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 16
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
Chỉ tiêu này phản ánh qua mức lương của người về hưu nhận được và mức
bảo đảm thực tế cho cuộc sống của người về hưu qua tiền hưu. Khi tính toán cụ
thể , mức bảo đảm của tiền lương hưu phải được tính đến các mặt như :
- Mức tiền lương : mức tiền lương phải bảo đảm đầy đủ duy trì cuộc sống của
người hưởng lương hưu. Ở đây vừa phải bảo đảm giá trị tiền lương danh nghĩa
vừa bảo đảm cả giá trị thực tế là sức mua của tiền lương. Nghĩa là khi có những
tác động làm mất giá trị của tiền lương hưu như tác động của lạm phát thì cần
phải được điều chỉnh kịp thời .
- Tiền lương hưu hợp lý:
Tiền lương hưu hợp lý muốn nói đến tương quan so sánh giữa lương hưa với
các loại lương khác trong xã hội. Về nguyên tắc thì tiền lương hưu không thể cao
hơn tiền của người về hưu khi đang còn làm việc, trừ trường hợp người về hưu
tham gia thêm hình thức bảo hiểm tuổi già khác ngoài các hình thức và chế độ
hưu trí thông thường. Nhưng tiền lương hưu không thể thấp hơn tiên lương tối
thiểu. Sự so sánh đó nhằm đánh giá tương quan về mức sống giữa những người
về hưu với các tầng lớp khác trong xã hội .
 Đảm bảo sự công bằng xã hội giữa những người nghỉ hưu
Đảm bảo sự công bằng xã hội giữa những người nghỉ hưu phải được so sánh
đánh giá giữa đóng góp và hưởng thụ, theo nguyên tắc đóng nhiều hưởng nhiều,
đóng ít hưởng ít. Khác với các chế độ bảo hiểm ngắn hạn, điều này rất cần đối
với chế độ hưu trí vì việc đóng phí và hưởng trong chế độ hưu trí liên quan đến
những khoản tiền rất lớn trong thu và chi trả. Và có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc
sống của các đối tượng tham gia cả trong khi đóng và hưởng theo chế độ này. Sự
công bằng cũng có nghĩa tham gia chế độ hưu trí như nhau thì quyền lợi được

hưởng cũng phải như nhau .
 Tăng sự tác động tích cực của chế độ hưu trí đến phát triển kinh tế và sử
dụng có hiệu quả lực lượng lao động xã hội
Sự tác động tích cực của chế độ bảo hiểm hưu trí đến sự phát triển kinh tế và
ổn định xã hội là một chỉ tiêu mang tính định tính khó lượng hoá. Nhưng đây là
một chỉ tiêu rất quan trọng vì có tác dụng trực tiếp đến không chỉ người về hưu
mà bản thân người lao động đang làm việc đã và có thể sẽ tham gia vào chế độ
hưu trí. Chế độ hưu trí phải góp phần ổn định kinh tế xã hội thông qua việc sử
dụng có hiệu quả lực lượng lao động đang làm việc trong xã hội. Chẳng hạn một
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 17
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
chế độ hưu trí tốt làm cho lao động trong xã hội được điều hoà hợp lý, cân đối
hơn giữa các khu vực và thành phần kinh tế, qua đó nguồn lực lao động được
khai thác và huy động đúng mục đích. Việc sử dụng lực lượng lao động sẽ hiệu
quả hơn. Đảm bảo tái sản xuất sức lao động xã hội, an toàn xã hội ...
III - KINH NGHIỆM XÂY DỰNG CÁC CHẾ ĐỘ BHXH ĐỐI VỚI NGƯỜI
NGHỈ HƯU.
1. Về điều kiện tuổi đời
Ở các nước khác nhau, tuỳ theo các nhân tố dân số và kinh tế xã hội mà có sự
quy định tuỏi đời khác nhau giữa các nhóm nước và khác nhau giữa nam và nữ
trong cùng một nước. Có thể có một số nước quy định độ tuổi nam và nữ như
nhau nhưng có một số nước khác lại quy định tuổi nghỉ hưu của nữ thấp hơn
nam. Xác định tuổi nghỉ hưu phụ thuộc rất nhiều yếu tố kể cả phụ thuộc vào
nước có dân số già hay trẻ. Đối với nước có dân dố già, số người nghỉ hưu lớn,
vì vậy họ phai nâng tuổi nghỉ hưu thường cao hơn so với các nước đang phát
triển. Theo số liệu của văn phòng lao động quốc tế trong 24 nước thuộc tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế và trong 40 nước đang phát triển thì tuổi nghỉ hưu
đối với nam nữ như sau :

Bảng 1: Cơ cấu tuổi nghỉ hưu ở một số nước

Độ tuổi
nghỉ hưu
OCDE Nước dang phát triển
Số nước % Số nước %
50 0 - 1 2,5
55 1 4,2 13 32,5
57 0 - 1 2,5
60 3 12,5 18 45
65 16 66,7 7 17,5
67 4 16,6 0 -
Tổng 24 100 40 100
( Nguồn: BHXH Việt Nam )
Ngoài ra các nước còn quy định hạ tuổi nghỉ hưu so với tuỏi nghỉ hưu bình
thường đối những người làm những ngành nghề công việc trong điều kiện lao
động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm...

Điều kiện về tuổi đời ở một số nước được thể hiện :
- Nhóm Tây Âu và Bắc Mỹ.
+ Mỹ, Canada : 65 tuổi ( chung cho cả hai giới ).
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 18
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
+ Anh : 65 tuổi (nam) và 60 tuổi (nữ).
+ Pháp : 60 tuổi ( tối đa là 65 tuổi).
+ Đức : 65 tuổi (nam) và 63 tuổi (nữ).
- Nhóm các nước Châu Á ( Ngoài ASEAN ).
+ Trung Quốc : 60 tuổi (nam) và 55 tuổi (nữ).
+ Nhật Bản : 60 tuổi(nam) và 55 tuổi (nữ)
+ Ấn độ : 55 tuổi(chung cho cả hai giới).
- Nhóm các nước ASEAN.
+ Indonesia: 55 tuổi (cho cả hai giới).

+ Malaysia : 55 tuổi(cho cả hai giới).
+ Xingapo : 55 tuổi (cho cả hai giới).
+ Philipin : 60 tuổi (cho cả hai giới).
Như vậy có thể thấy tuổi nghỉ hưu của các nước giao động trong khoảng từ 55
đến 65 tuổi và có phân biệt giới tính. Qua thống kê cho thấy chỉ có 34.62% số
nước có quy định tuổi nghỉ hưu ở cả nam và nữ là như nhau. Đa số các nước
ASEAN quy định tuổi nghỉ hưu chung cả nam và nữ là 55 tuổi.
2 . Về việc xác định số năm đóng góp BHXH
Số năm dóng góp BHXH có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công việc xác
lập chế độ hưu trí. Vì vậy số thời gian đóng BHXH là một trong các điều kiện để
được hưởng trợ cấp hưu. Ở nhiều nước có quy định phải có một số năm đóng tối
thiểu. Qua thống kê cho thấy số năm đóng BHXH dao động từ 15 đến 45 năm.
Một nguyên tắc đặt ra trong chế độ hưu là độ tuổi được hưởng chế độ hưu xác
định cao thì đòi hỏi số năm bắt buộc phải đóng BHXH phải cao. Số năm đóng
BHXH thấp (nhưng không được thấp hơn số năm tối thiểu) thì mức trợ cấp thấp
hơn.
Quy định thời gian đóng BHXH (tối thiểu) của một số nước như sau :
- Mỹ, Anh : Đóng góp 52 tuần liên tục cộng với 9/10 tổng số năm làm việc.
- Pháp : người tham gia BHXH phải đóng góp 150 tháng liên tục .
- Đức : 15 năm đến 35 năm.
- Liên Xô : Nam(20 năm), Nữ(20 năm).
- Ba Lan : Nam(20 năm), Nữ(15 năm).
- Hungari : 20 năm(cho cả hai giới)
- Ấn độ : 15 năm.
- Trung quốc : 10 năm liên tục.
- Nhật : 20 năm.
- Philipin : 120 tháng liên tục.
Ở một số nước ở Đông Nam Á không quy định cụ thể thời gian đóng phí
BHXH.
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 19

Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
3 . Về mức trợ cấp hưu trí.
Có rất nhiều cách xác định mức trợ cấp hưu trí. Một số nước xác định mức
đồng đều, coi là mức tối thiểu thích hợp với mặt bằng chung của quốc gia. Nhiều
nước xác định mức trợ cấp theo thu nhập đã từng có của người lao động khi nghỉ
hưu. Một số nhóm nước khác kết hợp cả hai cách.
Trong phần trợ cấp có phần nền(cơ bản) là một mức đồng nhất cộng thêm
phần tỷ lệ thu nhập. Tuy nhiên xu hướng chung là trợ cấp theo mức thu nhập đã
từng có của người lao động trước khi nghỉ hưu, phù hợp với đa ssố trường hợp là
đóng góp BHXH theo thu nhập.
Mức trợ cấp hưu của một số nước:
- Mỹ : Mức trợ cấp hưu đồng nhất, tối đa là 11280USD/tháng, tính trên
thu nhập được bảo hiểm cho tới khi nghỉ hưu.
- Anh : 32,85 Bảng/tuần cộng 12% thu nhập được bảo hiểm trong nước.
- Pháp : 50% thu nhập bình quân trong vòng 10 năm cao nhất. Lương được
tính theo các lần thay đổi lương.
- Đức : 1,5% “lương ước tính” là tỷ lệ giữa thu nhập của người lao động so
với múc lương trung bình của cả nước nhân với “cơ sở tính toán
chung” hiện thời.
- Ba lan : 100% thu nhập bình quân của mức dưới 3000 ZLOTY một tháng
của 12 tháng gần nhất cộng với 55% của phần còn lại và tăng 4%
trợ cấp tính theo trợ cấp cơ bản cho mỗi năm công tác trên 20
năm.
- Trung quốc : 60 đến 90% thu nhập trong tháng cuối, phụ thuộc vào thời
gian công tác.
- Ấn độ: Trả một lần tương ứng với số đóng góp của chủ và thợ đã trả cộng
với 7,58 % lãi.
- Indonexia : Người nghỉ hưu được nhận một khoản trợ cấp một lần tương
đương với mức mà người sử dụng lao động và người lao động
đã đóng góp trong suốt quá trình tham gia BHXH, cộng với

khoản tiền lãi tăng thêm.
- Malaysia : Tương tự như INDONEXIA.
- Philipines : 1,5% lương bình quân của 120 tháng cuối cộng với từ 42 đến
102% của tiền lương bình quân của 10 tháng lương.
4 . Về mức đóng góp
Mức đóng góp cho chế độ hưu cũng có sự khác nhau giữa các nhóm nước.
Tuy nhiên ở hầu hết các nước đều có sự phân chia đóng góp giữa giới chủ và
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 20
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
giới thợ và đóng riêng cho chế độ hưu chứ không gộp vào các chế độ khác chẳng
hạn:
- Mỹ: Người lao động đóng 6,2% tiền lương ( nếu là lao động độc lập phải
đóng 12,4% ), người sử dụng lao động đóng 6.2 % tổng quỹ lương.
Tiền lương cao nhất được dùng làm căn cứ để đóng BHXH là 57000
USD/ năm .
- Anh : Người lao động đóng 2 % của 54 Bảng / tuần đầu tiên cộng thêm 9%
lương tuần của tiền lương từ 54 đến 405 Bảng. Người sử dụng lao
động đóng từ 4,6 % đến 10,4 % .
- Pháp : Người lao động đóng 6,54 % trong thu nhập được tính BHXH của
mình, người sử dụng lao động đóng 8,2 % tiền lương tối đa để đóng
BHXH là 12360 FRANCS một tháng .
- Đức : Người lao động đóng 8,75 % tiền lương, nếu người lao động có thu
nhập dưới 610 DM / tháng thì không phải đóng BHXH. Người lao
động độc lập phải đóng 15,7%. Người sử dụng lao động đóng 8,75
% quỹ lương và đóng 7,5% nếu trong doanh nghiệp có người lao
động có thu nhập thấp hơn 610 DM / tháng .
5. Một số kinh nghiệm rút ra từ việc thực hiện chế độ hưu trí ở một số
nước trên thế giới.
Qua nghiên cứu về quá trình tổ chức và thực hiện hệ thống hưu trí của một số
nước trên thế giới có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

- Trong tất cả nước, vai trò của nhà nước của chính phủ trong hệ thống hưu trí
là rất quan trọng. Nhà nước với tư cách là người đề ra định hướng cho sự hoạt
động hưu trí và là một sự bảo trợ rất quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của
hệ thống này. Đặc biệt là bảo trợ về tài chính ở các mức độ và hình thức khác
nhau .
- Xu hướng đa dạng hoá về tổ chức thực hiện, về nội dung và phương thức tiến
hành trong chế độ hưu trí là phổ biến. Mặc dù vai trò của nhà nước là rất quan
trọng như đã nêu ở trên nhưng tham gia hoạt động trong hệ thống hưu trí không
chỉ có các tổ chức của nhà nước, các tổ chức khác ngoài khu vực nhà nước cũng
có thể tham gia với điều kiện tuân thủ đúng những quy định trong luật BHXH và
hưu trí. Đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất để mọi thành viên
trong xã hội có nhu cầu đều có thể tham gia vào chế độ hưu trí .
- BHXH cũng như bảo hiểm hưu trí là vấn đề của con người nói chung và đều
tuân thủ những nguyên tắc phổ biến của lĩnh vực này. Tuy nhiên mỗi nước có
những đặc trưng riêng về tình hình phát triển kinh tế xã hội, tình hình dân số và
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 21
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
lao động mà có những vận dụng cụ thể vào xây dựng cho mình một hệ thống hưu
trí phù hợp về nội dung và hình thức thực hiện. Các yếu tố quan trọng để xác lập
chế độ hưu trí ở các nước khác nhau cũng khác nhau chẳng hạn tuổi đời, mức
sống, mức đóng góp... Trong đó phải đảm bảo được lợi ích chính đáng của người
tham gia chế độ hưu trí và duy trì sự ổn định, đảm bảo cho hệ thống hưu trí phát
triển .
- Trong tất cả các nước, hệ thống hưu trí là cốt lõi của hệ thống BHXH nói
chung. Trong khi các hệ thống BHXH khác có thể thực hiện bởi các tổ chức bảo
hiểm khác nhau, (như bảo hiểm thương mại về con người ) thì bảo hiểm hưu trí
chỉ có thể được thực hiện trong hệ thống BHXH. Cải cách hệ thống BHXH chủ
yếu và thực chất là cải cách chế độ hưu trí.
- Hệ thống hưu trí theo phương pháp PAYGO (thu phí của người tham gia hiện
tại chi trả cho người đang hưởng chế độ ) đã từng được thực hiện trên hầu hết

các nước có hệ thông BHXH nhưng đến nay hệ thống này bộc lộ nhiều nhược
điểm và cần phải được thay thế bằng hệ thống khác. Hệ thống mới là các nước
thực hiện nay đang chuyển sang thực hiện là hệ thống hưu trí thực hiện theo
phương pháp đầu tư ứng trước. Nhưng đó là quá trình chuyển đổi trong một thời
gian dài.
- Trước khi hệ thống cũ được thay thế hoàn toàn bằng hệ thống mới thì có tồn
tại sự song song hoạt động của hai hệ thống trong thời kỳ quá độ.
Như vậy có thể nói BHXH và chế độ hưu trí đang là một trong những vấn đề
xã hội quan tâm rất lớn, có ý nghĩa kinh tế và chính trị rất quan trọng. Nhận thức
đúng về bản chất chức năng của BHXH và chế độ hưu trí đang còn là một quá
trình. Chế độ hưu trí đã được thực hiện từ rất lâu và có vai trò ngày càng quan
trọng trong xã hội nhưng quá trình phát triển cũng là quá trình tiếp tục nghiên
cứu và đổi mới, hoàn thiện không ngừng .
Để có được một chế độ hưu trí thì nhận thức đúng bản chất của chế dộ này là
điều rất quan trọng . Cùng với đó phải hiểu và vận dụng đúng những nguyên tắc
của chế độ này trong quá trình thiết kế những nội dung của chế độ và tổ chức hệ
thống hoạt động . Trong đó có các yếu tố cơ bản như mức phí đóng bảo hiểm,
thời gian đóng cần thiết, tuổi đời khi nghỉ hưu, các mức lương... phải được
nghiên cứu có căn cứ khoa học mới có thể đảm bảo cho chế độ này phát triển
được. Một hệ thống hưu trí phát triển phải đảm bảo lợi ích của các bên tham gia
trước hết là người lao động với tư cách là đối tượng tham gia và hưởng bảo hiểm
hưu trí, sau đó là các tổ chức, các doanh nghiệp và toàn xã hội trong đó có Nhà
nước.
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 22
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ TẠI
BHXH VIỆT NAM
I . THỰC TRẠNG VỀ CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM HƯU TRÍ
Chế độ hưu trí là một chế độ có vai trò to lớn trong hệ thống BHXH của mỗi
quốc gia , bởi lẽ chế độ hưu trí có ảnh hưởng lớn nhất đến cuộc đời những người

tham gia BHXH . Chế độ hưu trí cũng là một phương tiện có thể ổn định được
phần nào đời sống người về hưu , đặc biệt trong số đó là hưu cô đơn không nơi
lương tựa hoặc những người đã có những đóng góp đặc biệt cho xã hội. Thực
hiện tốt chế độ hưu trí trong hệ thống BHXH sẽ góp phần nâng cao đời sống xã
hội giảm bớt khó khăn cho người về hưu cũng như khó khăn chung cho bộ phận
dân cư khác, nâng cao uy tín của BHXH và các chế độ khác. Có thể nói trong hệ
thống các chế độ BHXH, chế độ hưu trí là chế độ quan trọng hàng đầu. Nó đã,
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 23
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
đang và sẽ là một chế độ BHXH có quy mô hoạt động to lớn về cả số lượng và
chất lượng.
Chính sách BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng khi áp dụng ở nước
ta đã có vai trò rất to lớn nhưng cũng bộc lộ một số nhược điểm qua các thời kỳ.
1. Giai đoạn trước năm 1995.
 Điều lệ tạm thời về BHXH năm 1961
Ngay sau cách mạng tháng tám năm 1945 , nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, lúc đó là nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thực hiện các
chế độ BHXH cho công nhân viên chức. Điều đó được thể hiện qua việc ban
hành sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 thực hiện bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm tai
nạn lao động và bảo hiểm hưu trí .Cùng với sắc lệnh 29/SL, một số sắc lệnh khác
như sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 và sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 cũng
được ban hành sau đó, nhằm thực hiện tốt hơn các chế độ cho người tham gia
bảo hiểm xã hội.
Các chế độ này được thực hiện đối với những người làm việc trong các cơ
quan của chính phủ và chính quyền các cấp trong thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945-1954). Song các chế độ này vãn còn nhiều hạn chế , một
phần do thực hiện trong thời kỳ kháng chiến , điều kiện kinh tế còn khó khăn
thiếu thốn , tất cả mọi người chưa quan tam đến việc hưởng chế độ , ttất cả phải
lo cho tình hình kháng chiến .
Sau này khi hoà bình lập lại trên miền Bắc, các chế độ đó mới chỉ đáp ứng

cục bộ những đòi hỏi trong từng giai đoạn và từng ngành hoạt động , chỉ nhằm
giải quyết các nhu cầu trước mắt nên chưa đồng bộ , toàn diện và lâu dài .
Trước tình hình kinh tế , chính trị có những bước phát triển nhất định cùng
với việc thay đổi lại chế độ tiền lương . Quán triệt dần nguyên tắc “ phân phối
theo lao động ” Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 218/CP ngày
27/12/1961 về “ Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH thống nhất trong
cả nước ” . Các chế độ này được chính thức thi hành từ ngày 1/1/1962 trên cơ sở
hình thành và sử dụng quỹ BHXH tập trung, do sự đóng góp của các nhà máy, xí
nghiệp và các cơ quan Nhà nước. Quỹ BHXH được quản lý và sử dụng vì lợi ích
của công nhân viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước. Việc quản lý BHXH
do hai cơ quan quản lý đó là: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý 3 chế
độ ngắn hạn là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, còn Bộ
Lao động - Thương binh - Xã hội quản lý 3 chế độ dài hạn là hưu trí, tử tuất, mất
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 24
Đại học kinh tế quốc dân Luận văn tốt nghiệp
sức lao động. Điều lệ này thực hiện 6 chế độ BHXH cho người lao động trong đó
có quy định cụ thể về chế độ hưu trí .
Trong điều lệ, từ điều 42 đến điều 53 có quy định cụ thể về chế độ hưu trí như
quy định về thời gian công tác, tuổi đời và điều kiện lao động của công nhân
viên chức Nhà nước. Cụ thể :
- Quy định tuổi nghỉ hưu đối với nam là 60 tuổi và nữ là 55 tuổi. Số năm công
tác quy định chung là 25 năm, đối với những người lao động làm việc ở
những ngành nghề độc hại nguy hiểm thì giảm 5 năm so với quy định .
- Những người làm việc trong điều kiện làm việc đặc biệt, hoặc ở trong quân
ngũ thì thời gian công tác của họ được quy đổi theo hệ số.
Chế độ hưu trí trong giai đoạn này chỉ được thực hiện cho cán bộ công nhân
viên chức làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước và quân nhân trong lực
lượng vũ trang.
Qua đó ta có thể thấy : việc ban hành nghị định 218/CP kèm theo điều lệ tạm
thời về BHXH là một bước ngoặc lớn trong sự nghiệp BHXH ở nước ta. Lần đầu

tiên quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động được quy định cụ thể trong chế
độ hưu trí. Từ đây, bảo hiểm hưu trí được thống nhất và có đầy đủ tính pháp lý.
Điều lệ đã giải quyết được vấn đề tính toán thời gian của người lao động cho phù
hợp với tình hình thực tế. Từ đó đánh giá đúng mức đóng góp của người lao
động cho xã hội và đưa ra các mức lương tương ứng.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số điểm tồn tại:
- Thời gian công tác nói chung là tất cả thời gian mà người công nhân viên
chức làm việc lấy lương hay sinh hoạt phí. Nếu thời gian công tác nói
chung đối với nam là 25 năm và với nữ là 20 năm mà không có thời gian
công tác liên tục trong 5 năm thì họ không được hưu trí trợ cấp hưu trí.
Như vậy thì rất thiệt thòi cho người lao động. Đối với lao động nữ khi đủ
5 năm công tác liên tục và có thời gian công tác nói chung nhiều hơn 25
năm nhưng họ cũng chỉ được hưởng 45% lương chính. Ngoài ra, do việc
quy đổi hệ số thời gian công tác lên đã dẫn đến tình trạng số người về hưu
có độ tuổi về hưu thực tế thấp hơn nhiều so với quy định. Thậm chí có
người số năm công tác quy đổi gần bằng tuổi đời.
- Điều lệ này vẫn còn nhiều hạn chế trong chính sách BHXH nói chung và
chế độ hưu trí nói riêng. Như trong quy định về thu chi thì điều lệ không
gắn thu với chi. Thu chi đều do quy ước không có quỹ BHXH riêng mà
chỉ có quỹ BHXH “ độc lập ” trong ngân sách. Trên thực tế khi bắt đầu
Ngô Hoàng Hưng – BH 40 A 25

×