Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Thay đổi nhận thức về thuế đối với thế hệ tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.47 KB, 26 trang )

I. VÀI NÉT SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ THUẾ Ở THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM
1. Lịch sử Thuế thế giới:
Bộ luật Hammurabi (Codex Hammurabi ) được tạo ra vào khoảng thập niên 1760
TCN ở Babylon cổ đại, đây là văn bản luật cổ nhất còn được bảo tồn tốt. Có thể coi các
công thức kinh tế dạng văn bản đầu tiên đều xuất hiện trong bộ luật này và cho đến nay
nhiều thuộc tính vẫn còn được sử dụng như lãi suất, các loại mức phạt tiền vì “điều phạm
pháp”, các quy tắc thừa kế…và các luật liên quan tới việc đánh thuế cũng có mặt lần đầu
tiên trong bộ luật này.
Các mốc lịch sử quan trọng về thuế gắn liền với một số quốc gia:
1.1Ai Cập:
Ai Cập, một trong những cái nôi của văn minh loài người, chính sách thuế và quản lý
thuế của Ai Cập thời cổ đại cũng được xem như là thành tựu của nền văn minh Ai Cập
cổ đại.
Nhằm quản lý hiệu quả, Ai Cập cổ đại đã chia vương quốc thành các vùng, được gọi
là nome. Vết tích về các nome có lẽ được bắt đầu từ thời kỳ Tiền triều đại (Predynastic
- trước 3100 TCN), khi đó các vùng được tự trị như các tiểu đô thị. Hệ thống cai trị này
rất phổ viến dưới nhiều triều đại của các pharaong Ai Cập cổ, vương quốc đã được chia
thành 42 nome. Thời kỳ suy yếu, Ai Cập cũng được chia thành 22 nome. Trong mỗi
vùng này, việc cai trị được trao cho một người đứng đầu, giống như thống đốc của một
1
địa phương cấp tỉnh, với đầy đủ quyền lực cai trị địa phương mình. Địa vị của vị thủ
lĩnh được phép truyền đời theo dòng họ, cha truyền con nối, được bổ nhiệm của
pharaong. Sự cai trị của Ai Cập cổ áp đặt khác nhau về số thuế phải đóng của các cư
dân. Người ta chưa rõ từ khi nào người dân Ai Cập phải đóng thuế bằng các hình thức
hoặc là sản phẩm, hoặc là lao động. Vị quan điều hành hệ thống thuế thông qua một bộ
của bang, vùng. Bộ điều hành thuế có các thông báo hàng ngày về số lượng hiện có
trong kho, và dự tính thời gian hết trong tương lai. Các loại thuế phải nộp dựa trên kết
quả các ngành nghề thủ công và lợi tức. Các chủ đất phải nộp thuế bằng các sản phẩm
thu họach trên đất đai, đầm nước và các ốc đảo của mình. Những thợ săn và người
đánh cá phải nộp các khoản thuế trên các sản phẩm từ sông, hồ, đầm lầy và sa mạc.


Mỗi thành viên trong các gia đình buộc phải trả thuế bằng sức lao động ở các công
trường bằng số lượng vài tuần trên một năm, ví dụ như đào kênh hay làm việc ở các
khu khai khoáng. Tuy nhiên, những người giàu có, có thể được phép thuê những người
đàn ông nghèo khổ đi đóng thuế lao động cho mình.
1.2Đế quốc La Mã
Loại thuế sớm nhất ở Rome là portoria
Augustus là Hoàng đế đầu tiên của Đế quốc La Mã, trị vì La Mã từ 27 TCN đến khi
qua đời năm 14 TCN.Augustus được phong như một vị thần bởi Viện Nguyên Lão.
Thời đại của Augustus là một thời đại tương đối hòa bình.Trong thời gian trị vì ông đã
xây dựng một hệ thống thuế tương đối hoàn chỉnh…các nguồn thu từ thuế đều tập
trung về cho chính phủ trung ương, cung cấp các quỹ hưu trí cho quân đội.
1.3Vương quốc Anh
Thuế đầu tiên tại Anh được đánh trong thời gian chiếm đóng của Đế quốc La Mã.
Khi Rome sụp đổ, các vị vua đã sử dụng thuế Dangnegeld như mộtcông cụ để mua
chuộc những kẻ tấn công, trả lương cho giáo sĩ và lực lượng phòng thủ.
2
Hơn 100 năm xung đột giữa Anh và Pháp(1337-1453). Một trong những sự kiện quan
trọng là cuộc nổi dậy của các nhà quý tộc của Aquitaine qua chính sách thuế áp bức
của Edward - Hoàng tử đen (1369).
Thuế trong thế kỷ 14 đã rất tiến bộ: Thuế của công tước gấp 520 lần so với thuế nông
dân bình thường(1377) . Thuế thu nhập đánh thuế một lần đối với những người giàu
có, chủ sở hữu văn phòng, và các giáo sĩ. Đánh thuế trên tài sản di chuyển được áp
dụng đối với thương nhân. Người nghèo được trả ít hoặc không có các loại thuế. Cá
nhân được đánh thuế theo tình trạng và phương tiện. Vì vậy ý tưởng về một thuế lũy
tiến vào những người có khả năng được phát triển rất sớm.
Một tiền thân của thuế thu nhập hiện đại chúng ta biết ngày nay được phát minh bởi
người Anh vào năm 1800 để tài trợ cho sự tham gia của họ trong cuộc chiến tranh với
Napoleon. Chiến tranh kết thúc, nhiều người nghĩ rằng thuế này chỉ nên được sử dụng
để tài trợ cho cuộc chiến tranh,họ muốn tất cả các bản ghi số thuế bị phá hủy cùng với
bãi bỏ nó.. năm 1816 Records đã công khai đốt bỏ nhưng bản sao được giữ lại trong

tầng hầm của tòa án thuế
1.4Thuộc địa AMERICA
- 1764,Thực dân đã rỉ tai nhau áp dụng luât thuế “ Mật rỉ”, tức là áp dụng thuế XNK
nước ngoài vào mật đường, đường, rượu vang và các hàng hóa khác. Việc áp dụng này
đã không làm tăng khoản thu đáng kể, đạo luật “Mật rỉ- stamp” đã được bổ sung trong
năm 1765. Đạo luật Stamp đã áp đặt thuế trực tiếp trên tất cả các tờ báo in tại các thuộc
địa và thương mại nhất và các văn bản quy phạm pháp luật.
- 1794 người dân định cư phía tây của Alleghenies đã nổi loạn để chống thuế môn bài
đã được coi là phân biệt đối xử .Tổng thống Washington đã gửi quân tới dập tắt các
cuộc bạo loạn.
- 1798 Quốc hội Liên bang ban hành thuế tài sản để chi trả cho việc mở rộng của
Quân đội và Hải quân trong trường hợp có thể có chiến tranh với Pháp.
3
Thuế thu nhập đầu tiên được đề xuất tại Hoa Kỳ trong cuộc Chiến tranh năm
1812.Thuế này dựa trên Đạo luật thuế của Anh năm 1798 và áp dụng tiến bộ đến mức
thu nhập.
-1/7/1862 Đạo luật thuế đã được ký và thông qua bởi Tổng thống Lincoln. Thuê hay
cho thuê giá trị của nhà bạn có thể được khấu trừ từ thu nhập trong việc xác định trách
nhiệm pháp lý
1864 Đạo luật thuế đã được thông qua để nâng cao thu nhập bổ sung để hỗ trợ cho cuộc
nội chiến.
-1872 bãi bỏ luật thuế 1864
-1930 chinh quốc dần dần hoàn thiện và ổn định hệ thống thuế
2. Lịch sử Thuế Việt Nam:
2.1Thuế dưới thời phong kiến:
Ngay từ thời phong kiến, các cấp lãnh đạo dưới chế độ quân chủ đã biết tổ chức hệ
thống thu thuế để làm nguồn thu cho công qũy của nhà Vua. Tuy vậy từ các triều đại nhà
Trần trở về sau này, sự tổ chức, cách đánh thuế và thu thuế mới được ghi chép và có hệ
thống.
2.2Thuế dưới thời Pháp thuộc:

Chính phủ thuộc địa Pháp đặt ra các thuế ngoại ngạch tức là loại thuế gián thu như thuế
tiêu thụ thuốc lá, thuế rượu, thuế muối, thuế đoan (thuế quan); thuế trực thu thì có thuế
môn bài, thuế thổ trạch.
2.3Thuế thời kỳ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 – 1975:
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 đến năm 1954
4
Chính phủ ta chủ trương bãi bỏ hẳn sắc thuế mang tính chất phi nhân đạo như: thuế
thân, thuế thổ trạch ở thôn quê và một số tạp thuế vô lý; miễn thuế điền thổ cho vùng bị
lụt và giảm thuế điền 20% trong toàn quốc; đình chỉ thu thuế ở miền Nam.
Chính sách pháp luật thuế thống nhất bao gồm 7 loại thuế là: thuế nông nghiệp, thuế
công thương nghiệp, thuế hàng hóa, thuế xuất nhập khẩu, thuế sát sinh, thuế trước bạ,
thuế tem.
Giai đoạn từ năm 1954 - 1975.
Sau hiệp định Geneve, Chính phủ ban hành các loại Luật thuế mới trên cơ sở sửa đổi,
bổ sung các chế độ thuế đã ban hành từ năm 1951 ở vùng tự do cũ để áp dụng thống
nhất, bao gồm 12 loại thuế sau: Thuế doanh nghiệp, thuế hàng hóa, thuế sát sinh, thuế
buôn chuyến, thuế thổ trạch, thuế kinh doanh nghệ thuật, thuế môn bài, thuế trước bạ,
thuế muối, thuế rượu, thuế xuất nhập khẩu và chế độ thu quốc doanh.
Giai đoạn từ năm 1975 - 1990
Thời kỳ 1975 - 1980
Miền bắc vẫn tiếp tục thực hiện hệ thống pháp luật thuế đã ban hành từ trước, có sửa
đổi cho phù hợp với tình hình mới. Còn miền Nam thì có áp dụng một số loại thuế cũ
của chính quyền Sài Gòn trên cơ sở xóa bỏ một số loại thuế phản tiến bộ và sửa đổi bổ
sung để thích ứng với điều kiện đất nước thống nhất.
Thời kỳ 1980 -1990
Cả nước áp dụng hệ thống pháp luật thuế thống nhất, nhưng hệ thống pháp luật thuế
hiện hành này ngày càng tỏ ra có nhiều nhược điểm, cản trở sự phát triển các yếu tố của
nền kinh tế thị trường đang nảy sinh với các đặc điểm:
- Sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp quốc doanh thì thực
hiện chế độ thu quốc doanh, thu trích nộp lợi nhuận cùng với các hình thức thu khác,

5
trong khi các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác lại chịu sự tác động của
thuế.
- Thu quốc doanh đã bộc lộ nhiều nhược điểm căn bản. Về thực chất, đây là một loại
thuế đa thuế suất với hàng trăm thuế suất; điều này đặc biệt gây khó khăn cho việc
quản lý và hành thu.
Giai đoạn từ 1990 đến nay:
Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 4(cuối tháng 12/1988) đã đề ra yêu cầu phải xúc tiến
việc nghiên cứu, cải tiến hệ thống chính sách thuế áp dụng thống nhất đối với các thành
phần kinh tế.
Trong năm 1990, QH khóa VIII và Hội đồng nhà nước đã cho ban hành các luật thuế và
pháp lệnh thuế.
Giai đoạn từ 1990 đến nay được đặc trưng bởi sự hình thành một hệ thống pháp luật
thuế hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay, bao gồm 9 loại thuế: Thuế nông nghiệp, thuế
doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế tài nguyên,
thuế thu nhập, Thuế nhà đất, thuế vốn. Ngoài ra còn có một số phí và lệ phí có tính
chất như thuế như: lệ phí môn bài, lệ phí trước bạ, lệ phí giao thông, thuế sát sinh.
3. Thuế ngày nay
Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội, thuế đã thay đổi và phát triển theo
sự phát triển chức năng của nhà nước. Hiện nay trên thế giới, mỗi quốc gia đều theo
một đường lối chính trị riêng, một chính sách phát triển kinh tế riêng, do đó việc xây
dựng chính sách thuế ở mỗi quốc gia là không giống nhau nhưng tất cả đều đã đang và
sẽ xây dựng một chính sách thuế ngày càng hoàn thiện, phù hợp với quốc gia mình,
chính sách thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế quốc gia.
6
II. SỰ QUAN TRỌNG CỦA THUẾ ĐỐI VỚI MỘT QUỐC GIA
Quá trình phát triển thuế qua các thời đại cho thấy khi nhà nước nhận thức về thuế ngày
càng đầy đủ thì càng sử dụng thuế một cách thành thạo, linh hoạt và do đó càng phát huy
vai trò của thuế đối với sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu như ở thời kì đầu, thuế chỉ đóng
vai trò tạo khoản thu chủ yếu cho Nhà Nước thì đến nay nó được sử dụng như một công cụ

sắc bén để điều chỉnh hoạt động kinh tế vĩ mô và một công cụ tạo ra công bằng xã hội
(công bằng bằng thuế). Nhìn bằng một con mắt thô sơ thì nhà nước sẽ thu tiền Thuế từ
nhân dân, tiền thu được sẽ dùng để xây trường, trạm, những cơ sở y tế, điện, đường xá, chi
cho người nghèo…nhưng đó chỉ là cách nhìn đơn giản về công dụng của Thuế. Lần lượt
dưới đây, chúng ta phân tích các vai trò của thuế đối với kinh tế xã hội trên khía cạnh kinh
tế học.
1.Tạo khoản thu chủ yếu cho Nhà Nước:
Với mục đích tìm nguồn vật chất tài trợ công chi, Chính Phủ có thể sử dụng nhiều
phương thức ngoài thuế, như: quyên góp dân chúng, xin viện trợ nước ngoài, cho thuê
công sản, bán tài nguyên thiên nhiên khai thác được, đầu tư kinh doanh phát hành tiền,…
song chúng không thể tạo ra số thu vừa dồi dào, bền vững vừa kịp thời cho Nhà Nước, chỉ
duy nhất thuế tạo được nguồn thu như vậy. Chúng tôi khẳng định, tạo nguồn thu chủ yếu
cho Nhà Nước là vai trò độc tôn của thuế.
Để thật sự giữ đúng vai trò tạo số thu quan trọng nhất vào Ngân Sách Nhà Nước, thuế
phải bao quát hầu hết mọi hoạt động kinh doanh: chế biến, sửa chữa, chế tạo, khai thác,
xây dựng, vận tải, buôn bán, ăn uống, dịch vụ…mọi nguồn thu nhập: thường xuyên, không
thường xuyên và mọi hoạt động tiêu dùng xã hội. Một nền tài chính quốc gia chỉ lành
mạnh khi dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ nền kinh tế. Nguồn thu đó chính là thu nhập
quốc dân nội địa. Mọi sự trông cậy, dựa vào bên ngoài đều mang lại những hậu quả xấu và
kéo dài.
7
Nhằm đảm bảo nguồn vật chất cung ứng kịp thời cho nhu cầu chi thường xuyên, ngay cả
khi nền kinh tế có những biến động không thuận lợi, thuế gián thu cần luôn được coi trọng,
bởi tính ổn định của nó tốt hơn tính ổn định của thuế trực thu. Thuế gián thu dựa trên cơ sở
tiêu dùng xã hội mà xã hội thì không thể ngừng tiêu dùng cho dù nền kinh tế bị khủng
hoảng. Việc coi trọng thuế gián thu còn xuất phát từ nguyên lý: đánh thế những gì mà
người chịu thuế lấy đi của xã hội sẽ có tác dụng tốt hơn là đánh vào những gì mà đối tượng
chịu thuế nhập vào cho xã hội.
Thông qua thuế, một phần tổng sản phẩm quốc nội được động viên để hình thành Ngân
Sách Nhà Nước. Tuy nhiên nếu Nhà Nước dùng sức mạnh để tái phân phối quá mức GDP

thì phần thuộc về doanh nghiệp và gia đình giảm xuống. Họ sẽ cảm thấy công sức bỏ vào
kinh doanh và làm việc được đền bù không thỏa đáng, và từ đấy chuyển sang kinh doanh
ngầm nhằm trốn thuế hoặc chấm dứt kinh doanh. Nói cách khác, nếu Nhà Nước ngày càng
tăng áp lực thu, người nộp thuế càng bị thôi thúc trốn thuế bởi mãnh lực vô hình. Do đó,
khi tài phân phối thu nhập xã hội bằng thuế phải chú ý đến khả năng thụ thuế của từng
doanh nghiệp và cá nhân.
2. Tham gia điều chỉnh kinh tế vĩ mô
Bất kì loại thuế nào khi được ban hành đều ảnh hưởng đến các hành vi của doanh nghiệp
và người tiêu dùng, bởi nó động viên một phần thu nhập của những người này vào tay Nhà
Nước. Ngoài ra, thuế tác động trực tiếp đến các thành tố chính của các kinh tế vĩ mô như:
tổng sản lượng kinh tế( GDP hoặc GNP), giá cả, lãi suất, thặng dư hoặc thâm hụt ngoại
thượng…thuế còn giữ một vị trí quan trọng trong các chính sách lớn của chính phủ: chính
sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tạo việc làm, chính sách ngoại thương, chính
sách tiêu dùng tiết kiệm-đầu tư xã hội…
Như vậy, thuế không chỉ tạo khoản thu chủ yếu cho Nhà Nước mà còn được dùng như
một công cụ điều chỉnh các hoạt động kinh tế vĩ mô. Có thể nói, thông qua thuế chính phủ
bày tỏ quan điểm. chủ trương và hành động của mình đối với chương trình phát triển kinh
tế xã hội
8
Tác động của thuế lên hoạt động kinh tế những đặc trưng:
. Phạm vi rộng: Thuế bao trùm lên mọi hành vi kinh doanh trên toàn lãnh thổ
. Trực tiếp: Thuế tác động hẳn vào chi phí giá cả và thu nhập
. Nhạy cảm: Thuế tác động vừa tức thời vừa lâu dài đến động thái kinh doanh hành
vi đầu tư và tiêu dùng
Vai trò kích thích nền kinh tế phát triển của thuế thể hiện đa dạnh trên nhiều lĩnh vực. Ở
đây chỉ trình bày một số tác động cơ bản của thuế đến hoạt động kinh tế và hành vi của
người tiêu dùng.
3. Kích thích đầu tư
Thuế gián thu mặc dù được nộp bởi những cá thể kinh doanh nhưng do người tiêu dùng
chịu. Do vậy, việc miễn hoặc giảm thuế gián thu không ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của

doanh nghiệp mà chỉ mang tính hổ trợ cho doanh nghiệp khi gặp khó khăn tạm thời.
Lợi thế có ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư là thuế thu nhập doanh nghiệp bởi mục đích
cuối cùng của đầu tư là lợi nhuận nên các nhà đầu tư phải xem xét kỹ họ sẽ còn được
hưởng bao nhiêu phần trăm lợi nhuận sau khi nộp thuế cho Chính Phủ. Do vậy, các quốc
gia thường sử dụng thuế thu nhập doanh nghiệp như một công cụ chủ chốt khuyến khích
đầu tư nội địa và hấp dẫn đầu tư quốc tế.
Những yếu tố cở bản của thuế thu nhập doanh nghiệp được sử dụng nhắm kích thích đầu
tư gồm:
- Thời hạn miễn thuế, giảm thuế và hoàn thuế
- Thuế suất ưu đãi đầu tư
- Quy định về chi phí được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế nhất là chi
phí khấu hao tài sản cố định
- Quy định hoàn thuế khi dùng lợi nhuận tái đầu tư; vấn đề chuyển thu nhập qua
biên giới
9
Đối với những quốc gia đang phát triển, chính sách thu hút đầu tư được xem là một
chiến lược phát triển kinh tế quan trọng.Xu hướng chunh của các nhà nước hiện nay là
giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp để cạnh tranh với nước khác nhằm thu hút đầu
tư nước ngoài và giữ chân các nhà đầu tư trong nước. thông thường, xí nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài được ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp hơn xí nghiệp bản địa.
4. Tác động đến thương mại quốc tế
Sắc thuế ảnh hưởng trực tiếp đến ngoại thương là thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu mà chủ
yếu là thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu được sử dụng nhằm:
- Kiểm soát và điều tiết hành nhập khẩu để góp phần cân bằng thị trường nội địa,
cân bằng cán cân thương mại và tiết kiệm ngoại tệ trong bối cảnh nước nghèo
- Bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và ngành kinh tế chiến lược, bảo hộ sản
xuất nội địa trước cuộc chiến tranh giá cả gây ra bởi doanh nghiệp nước ngoài.
- Khẳng định chủ quyền quốc gia và chống phân biệt đối xử trong thương mại
quốc tế.

- Tạo khoản thu cho Nhà Nước
5. Điều hòa thu nhập thực hiện công bằng xã hội trong phân phối
Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, việc phân phối thu nhập của cải và thu nhập
mang tính tập trung rất cao tạo hai cực đối lập: cực thứ nhất gồm thiểu số người giàu một
cách nhanh chóng; cực kia là những người còn lại không đạt được mức đáng kể về mức
sống. Tình hình trên không chỉ lien quan đến vấn đề đạo đức, công bằng xã hội mà còn tạo
nên sự đối lập về quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân cư, làm mất đi ý nghĩa cao cả
của sự phát triển kinh tế xã hội. Thực tế, sự phát triển mọi mặt của mọi mặt đất nước là kết
quả nổ lực cộng đồng; mỗi thành viên xã hội đều có những đóng góp nhất định. Nếu không
chia sẽ thành quả phát triển kinh tế cho mọi người thì rõ rang thiếu công bằng. Do vậy, cần
phải có sự can thiệp của Nhà Nước vào quá trình phân phối thu nhập của cả xã hội. Một
công cụ tác động trực tiếp của quá trình này.
10

×