Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Thuế xuất nhập khẩu ở việt nam trong thời kỳ hội nhập.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.44 KB, 44 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xuất nhập khẩu (XNK) có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tất
cả các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu
đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách nhà nước. Chính sách thuế XNK
không ngừng biến đổi, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã ảnh
hưởng nhiều đến quá trình phát triển đất nước. Với mục đích hiểu rõ hơn về
ảnh hưởng chính sách thuế XNK của Việt Nam trước và sau khi gia nhập
WTO tới nền kinh tế, chúng em đã quyết định làm tiểu luận về đề tài này.
Mục tiêu của bài tiểu luận mà chúng em hướng tới đó là:
•So sánh chính sách thuế XNK của nhà nước trước và sau khi gia
nhập WTO để thấy được điểm đổi mới trong quá trình phát triển kinh
tế đất nước.
•Từ những chính sách thuế mới thì cơ hội, khó khăn cho Việt Nam là
gì.
•Tìm hiểu một một ví dụ về thuế xuất nhập khẩu đối với mặt hàng ô
tô để thấy rõ sự biến đổi của nó trước, sau khi gia nhập WTO, ảnh
hưởng của chính sách đó.
Phương pháp nghiên cứu: tổng hợp, thống kê, phân tích.
Phạm vi nghiên cứu : 10 năm trở lại đây
Vì thời gian có hạn và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên bài viết
của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót. Qua đây, chúng em mong
thầy chỉ bảo để bài viết của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm s inh viên:
Vũ Thị Kiều Hoa
Trần Thị Hương Giang
Nguyễn Thị Quỳnh Anh
Nguyễn Thanh Hiền
Nguyễn Thị Hạnh
Lớp Anh 5-TCQTB-K46
MỤC LỤC


•LỜI MỞ ĐẦU:………………………………………………………3
•MỤC LỤC:..…………………………………………………………4
•THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
HỘI NHẬP:..………………………………………………………...5
I/ Thực trạng thuế XNK ở Việt Nam trước khi gia nhập WTO:...…….6
•Tổng quan:...…..…………………………………………………..6
• Những chính sách của Nhà nước:.……………………………..6
• Những mặt tích cực:…...………………………………………...7
• Những mặt hạn chế:...………………………………………..…8
•Sơ hở trong chính sách ưu đãi và miễn giảm thuế của Nhà
nước:…………………………………………………8
•Khâu quản lý khai báo và thu thuế còn chưa hiệu quả:..10
•Mức thuế suất còn khá cao :...…..……… ………………11
•Một số cải cách về thuế XNK trên tiến trình gia nhập WTO:.….12
I I/ Những đổi mới thuế XNK sau khi Việt Nam gia nhập WTO :...…..….20
•Đổi mới trong các chính sách của Nhà nước:.........…………….....20
•Khung thuế xuất nhập khẩu 2008:...…..…………………………..23
•Thành công của những đổi mới:...…..…………………………….28
•Những mặt còn hạn chế trong các chính sách đổi mới:...………...30
•Ví dụ về thuế nhập khẩu ô tô có ảnh hưởng đối với tiêu dùng:…..34
III/ Thuế XNK ở Việt Nam trong tương lai sẽ như thế nào?..…………44
•KẾT LUẬN:...…..…………………………………………………48
THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
Trước khi đi nghiên cứu về các biến động về thuế xuất nhập khẩu ở
Việt Nam trong những năm gần đây chúng ta cần hiểu sơ lược thế nào là
thuế, thuế xuất nhập khẩu.
Thuế là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập của cá nhân,
doanh nghiệp cho Nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Thuế XNK là thuế đánh vào hàng hóa XNK, kể cả phi mậu dịch và làm

thủ tục kê khai nộp thuế tại cửa khẩu, nên còn gọi là thuế quan. Ở những
nước có khu chế xuất, đối tượng đánh thuế gồm cả hàng hóa từ khu chế xuất,
đối tượng đánh thuế gồm cả hàng hóa từ khu chế xuất đưa vào thị trường
trong nước và từ thị trường trong nước đưa ra khu chế xuất.
Thuế XNK được tính theo công thức:
Thuế XNK = (Số lượng hàng XNK x Giá tính thuế đơn vị) x Thuế suất
Giá tính thuế đơn vị là giá xuất, giá nhập tại cửa khẩu. Nếu vận
chuyển bằng đường biển là giá FOB, giá CIF. Giá xuất không bao gồm cả
chi phí vận tải và bảo hiểm tới cửa khẩu đến.
Thuế suất là số tiền thuế phải nộp trên một đơn vị đối tượng tính thuế.
Sau khi xác định đối tượng tính thuế là gì ta có thể xác định nội dung, cách
quy định mức thuế suất.
Tiếp đến chúng ta sẽ xem xét tình hình chung về thuế xuất nhập khẩu
Việt Nam những năm trước khi gia nhập WTO.
I/ Thực trạng thuế XNK ở Việt Nam trước khi gia nhập WTO.
1.Tổng quan:
1.1 Những chính sách của Nhà nước:
Về số lượng hàng nhập khẩu, Nhà nước áp dụng các chính sách hạn
chế định lượng XNK đối với mặt hàng ô tô, các mặt hàng điện tử, điện lạnh,
phân bón, thuốc lá, thực phẩm và các mặt hàng xa xỉ phẩm; cấm nhập khẩu
một số mặt hàng như xe đạp, xe hai bánh, ba bánh gắn máy cũ, các vật tư,
phương tiện đã qua sử dụng. Hàng tiêu dùng như dệt may, giày dép, quần áo,
đồ điện tử, điện lạnh, điện gia dụng, hàng trang trí nội thất, thiết bị y tế, đồ
gia dụng, các sản phẩm công nghệ thông tin đã qua sử dụng cũng nằm trong
danh mục hàng cấm nhập. Nhà nước còn quy định hạn ngạch XNK đối với
mặt hàng thuốc lá nguyên liệu, bông, sữa nguyên liệu cô đặc, sữa nguyên
liệu chưa cô đặc, muối, ngô hạt và trứng gia cầm,... Số lượng hàng hóa nhập
khẩu sẽ được điều chỉnh thuế suất dựa trên sự cân đối giữa nhu cầu và năng
lực sản xuất trong nước. Ngoài ra còn có những quy định về việc cấp phép
nhập khẩu tùy ý đối với một số mặt hàng (đường,…)

Về xác định trị giá tính thuế nhập khẩu, chủ trương áp dụng bảng giá
tối thiểu và giá tham khảo để tính thuế nhập khẩu với một số mặt hàng: rượu
vang, rượu mạnh, gạch lát, v.v…
Về quyền kinh doanh XNK của các doanh nghiệp, quy định rõ: doanh
nghiệp FDI và cá nhân nước ngoài không được chuyên kinh doanh XNK,
mà doanh nghiệp FDI chỉ được nhập khẩu những mặt hàng qui định trong
giấy phép đầu tư nhằm phục vụ mục đích sản xuất của mình.
Về biểu thuế nhập khẩu: Ban hành biểu thuế xuất khẩu theo danh
mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất đối với từng nhóm hàng, biểu
thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế
suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng.
1.2 Những mặt tích cực
Những chính sách trên đã có tác động không nhỏ tới nền kinh tế đất
nước. Thực tế cho thấy những chính sách này được đặt ra có rất nhiều mặt
phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thời kì hội
nhập.
•Trước tiên các chính sách trên giúp hạn chế những mặt hàng xa xỉ phẩm vì
một số mục đích xã hội. Nếu chính phủ cho phép nhập khẩu những mặt hàng
xa xỉ phẩm một cách tràn lan, không đánh thuế suất cao thì tài sản đất nước
(bao gồm cả tài sản của toàn dân, của các hãng, và của nhà nước) sẽ không
thể tập trung vào phát triển nền sản xuất. Trong khi đất nước còn kém phát
triển điều này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới tăng trưởng kinh tế.
• Thứ hai, nhà nước có những qui định khắt khe về các mặt hàng như rượu,
thuốc lá, xì gà,... vì đây là những mặt hàng thực tế nếu nhập nhiều sẽ gây
ảnh hưởng lớn tới sức khỏe con người.
•Thứ ba, Nhà nước có những chính sách hạn chế nhập với những mặt hàng
dệt may, ô tô,... đã góp phần làm giảm cạnh tranh cho các doanh nghiệp
trong nước. Khi các doanh nghiệp trong nước chưa tạo được chỗ đứng cho
mình mà nhà nước cho phép các mặt hàng này được phép nhập với thuế xuất
thấp, không có hạn ngạch thì chắc chắn sản phẩm nhập sẽ tràn lan trên thị

trường, các doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh nổi và tất yếu đi
đến phá sản!
•Thứ tư, nó còn giúp Nhà nước quản lý lượng dự trữ tài nguyên quốc gia
như: than đá, kim loại màu, điện,….
Có thể thấy rõ các chính sách như trên không chỉ đem lại nguồn thu ngân
sách cho nhà nước mà còn bảo vệ các doanh nghiệp trong nước, phục vụ
một số vấn đề vĩ mô của đất nước. Tuy nhiên, những chính sách này còn quá
nhiều những hạn chế.
• Những mặt hạn chế
•Sơ hở trong chính sách ưu đãi và miễn giảm thuế của Nhà
nước.
Để khuyến khích hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà nước đã
có những chính sách ưu đãi và miễn giảm thuế xuất nhập khẩu. Nhưng
những thiếu sót trong các ưu đãi này đã tạo kẽ hở cho doanh nghiệp lách luật
và gây một số điểm bất bình đẳng.
Một ví dụ là chính sách ân hạn thuế trong Luật thuế XNK có phần hơi
“thông thoáng”. Cụ thể, thời hạn nộp thuế nhập khẩu đối với hàng xuất khẩu
là 15 ngày, với nguyên phụ liệu nhập khẩu để làm hàng xuất khẩu là 275
ngày kể từ ngày ra thông báo nộp thuế. Đây là kẽ hở cho doanh nghiệp cho
những doanh nghiệp nhập khẩu nguyên phụ liệu. Họ có thể bán hết số
nguyên phụ liệu đã nhập về cho thị trường trong nước khi chưa hết hạn nộp
thuế. Sau đó họ giải tán doanh nghiệp để trốn cả thuế tiêu thụ nội địa lẫn
thuế nhập khẩu.
Bên cạnh đó, việc áp dụng nhiều mức thuế khác nhau với các nhãn
sản phẩm khác nhau cũng tạo điều kiện cho việc thừa cơ chuộc lợi của nhiều
công ty. Việc áp thuế cho xe 6 – 9 chỗ ngồi thấp hơn xe từ 6 chỗ trở xuống
làm doanh nghiệp hạn chế nhập xe con vì sợ chịu thuế cao. Hay đơn cử việc
áp dụng Bảng giá tối thiểu tính thuế nhập khẩu cũng dẫn đến doanh nghiệp
nhập hàng giá cao không có trong danh sách bảng giá này để hưởng lợi
nhuận. Minh chứng cho điều này là trường hợp của công ty Đông Nam.

Theo Quyết định 177 của Tổng cục Hải quan thì Bảng giá tối thiểu tính thuế
chỉ quy định các loại Nokia 3210, 5110, 5510 (90 USD/chiếc), 6110, 6150,
8210 (120 USD/chiếc), 8810, 8850 (190 USD/chiếc), 9910 (400
USD/chiếc); còn các loại khác (chưa quy định) chỉ chịu thuế 80 USD/chiếc.
Doanh nghiệp Đông Nam đã lợi dụng kẽ hở này, cho nhập ồ ạt các nhãn
điện thoại Nokia như 8250, 8855, 8310,8910 là những sản phẩm giá cao
nhưng chỉ chịu thuế 80 USD/chiếc. Như vậy áp dụng bảng giá tính thuế còn
nhiều bất cập vì các sản phẩm thường ra các dòng mới liên lục và thường đắt
hơn những loạt trước đấy. Trong khi đó, bảng giá chậm cập nhập nên những
mặt hàng mới này lại chỉ chịu thuế thấp.
Một sơ hở nữa là vấn đề thanh toán. Tại các công văn số 1482/TC/TCT ngày
11-4-2000, số 5957/TC/TCT ngày 9-6-2003, số 8282/TC/TCT ngày
12-6-2003, Bộ Tài chính có đưa ra ưu đãi thuế GTGT với hàng xuất nhập
khẩu: Nếu được thanh toán qua ngân hàng thì chỉ chịu mức thuế suất 0%.
Nhiều hợp đồng kinh doanh có giao dịch bằng giấy tờ có giá nhưng làm hợp
đồng danh nghĩa là thanh toán qua ngân hàng để không phải chịu thuế. Ví
dụ: Tại Nghệ An, khi kiểm tra sau thông quan 6 doanh nghiệp nhập khẩu
hàng hoá qua cửa khẩu Móng Cái, ô 20 đều ghi thanh toán qua ngân hàng
nhưng khi cán bộ hải quan đến ngân hàng thương mại Móng Cái để xác
minh thì đã phát hiện một số doanh nghiệp không thanh toán qua ngân hàng.
1.3.2 Khâu quản lý khai báo và thu thuế còn chưa hiệu quả
Hiện nay thủ tục khai báo và thu nộp thuế tại Hải quan còn khá rườm
rà. Việc càng nhiều khâu, nhiều quy trình đồng nghĩa với càng nhiều khe hở
để xảy ra hiện tượng gian lận và trốn thuế. Tại hầu hết các khâu, các lĩnh vực
trong quá trình làm thủ tục Hải quan đều xảy ra hiện tượng gian lận thương
mại, cụ thể như: Khai báo không đúng tên hàng, khai báo nhiều chủng loại
hàng hoá với một tên hàng để áp mã có mức thuế suất thấp; làm giả C/O để
được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt; Khai báo không đúng giá trị thực
thanh toán để gian lận trị giá; bán nguyên phụ liệu, thành phẩm ra thị trường
nội địa đối với loại hình nhập khẩu đầu tư gia công sản xuất - xuất khẩu để

trốn thuế với số lượng lớn…
Ngoài ra, sự thiếu nhất quán trong quản lý cũng gây khó khăn cho
việc nộp thuế của các doanh nghiệp, khiến cho nguy cơ gian lận thuế càng
tăng. Đơn cử như trường hợp Bảng giá tính thuế tối thiểu nói trên, Tổng cục
Hải quan cho phép: ''Đối với mặt hàng nhập khẩu không có hợp đồng, mặt
hàng nhập khẩu có hợp đồng có trị giá tính thuế ước tính dưới 20 triệu đồng,
thì Cục trưởng uỷ quyền cho Chi cục trưởng ra quyết định xây dựng, sau đó
báo cáo Cục Hải quan tổng hợp ban hành áp dụng thống nhất trong Cục và
báo cáo Tổng cục Hải quan''. Các doanh nghiệp ái ngại không chỉ vì mỗi chi
cục tính giá mỗi khác, mà ngay khi Cục Hải quan tổng hợp từ các chi cục để
ban hành bảng giá áp dụng thống nhất thì cũng không áp dụng hồi tố, các
doanh nghiệp đã đóng thuế rồi thì không được áp mức giá thống nhất ấy.
Việc xây dựng giá cũng tạo kẻ hở cho tiêu cực.
Thêm nữa, nhiều cán bộ hải quan còn thiếu sự nhạy bén và hiểu biết
tường tận về Luật thuế XNK. Điều này dẫn đến không phát hiện được hành
vi gian lận thuế.
1.3.3 Mức thuế suất còn khá cao
Tác động của thuế nhập khẩu đến nền kinh tế
Mức thuế còn khá cao so với nhiều nước trong ASEAN và trên thế
giới. Để bảo vệ sức mạnh của hàng hoá trong nước, nhà nước đã áp dụng
mức thuế cao. Nhưng điều này gây khó khăn cho nhiều mặt hàng nhập khẩu
có nhu cầu lớn.
Có thể xem xét mặt hàng sữa nhập khẩu tại Việt Nam là một ví dụ.
Theo đánh giá của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp
nông thôn, giá sữa bán lẻ ở Việt Nam đứng ở mức cao nhất thế giới. Tính
bình quân cho các nước Bắc Mỹ, châu Đại Dương, Trung Quốc, Israel và
EU là 0,8 USD/kg; các nước thuộc khu vực Đông Âu, Nam Mỹ có mức giá
trung bình thấp nhất là 0,4 USD/kg. Trong khi đó, giá sữa bán lẻ Việt Nam
lại lên đến 0,82 USD/kg.
Tóm lại các chính sách như trên đã kìm hãm sự phát triển của các doanh

nghiệp chuyên kinh doanh XNK, hạn chế sự phát triển một số mặt hàng, làm
tăng giá cả trên thị trường, giảm tính cạnh tranh của thị trường. Ngoài ra,
cách tính trị giá nhập khẩu chưa hợp lý sẽ làm mất đi sự công bằng của luật
thuế.
• Một số cải cách về thuế XNK trên tiến trình gia nhập WTO
Trong quá trình đàm phán đa phương để gia nhập WTO, các thành viên
đã đưa ra những đề xuất điều chỉnh chính sách kinh tế ở Việt Nam. Trong đó
có rất nhiều đề xuất liên quan đến thuế xuất nhập khẩu và hải quan. Đó là:
•Xúc tiến việc thành lập hệ thống thuế hải quan minh bạch dựa trên
Biểu thuế thống nhất của ASEAN.
•Thông tin và giải thích cụ thể về cụm từ "Những khoản thuế và phụ
thu khác", như các loại thuế và khoản thu tài chính (Ngoài thuế hải
quan) áp dụng đối với nhập khẩu những sản phẩm không sản xuất
trong nước.
•Áp dụng thuế nội địa - đặc biệt là các mức thuế đặc biệt đánh vào các
mặt hàng thuốc lá và bia. .
•Huỷ bỏ mức giá nhập khẩu tối thiểu. áp dụng những qui định về xác
định mức giá hải quan theo WTO.
Và trên thực tế để đẩy nhanh quá trình vào WTO, Việt Nam đã thực hiện
một số cải cách quan trọng về thuế nói chung và thuế XNK nói riêng. Tính
đến cuối năm 2002, Việt Nam đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với
167 nước, quan hệ ngoại thương với hơn 155 nước; khai thông các quan hệ
với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB (1992);gia
nhập các tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN (1995); gia nhập APEC
(1998)... Việt Nam cũng đã ký kết được 82 hiệp định thương mại song
phương, 42 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, đã thiết lập được mối
quan hệ thương mại với nhiều nước lớn trên thế giới, đặc biệt là ký kết Hiệp
định thương mại Việt Mỹ vào 7/2000....
Hệ thống kế hoạch hoá ngoại thương cứng nhắc của Việt Nam đã được
cải cách theo xu hướng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.

• Về cơ chế nhập khẩu:
Chính phủ đã sử dụng những công cụ chính sách thông thường như thuế
quan, côta, cấp giấy phép nhập khẩu.
Thuế quan: Việt Nam đã đạt được những bước cắt giảm thuế quan rất
quan trọng kể từ năm 1996 khi tiến hành gia nhập AFTA. Trong quá trình
hội nhập kinh tế khu vực, Việt Nam đã cam kết cắt giảm thuế quan đối với
5.505 sản phẩm, trong đó có 80% sản phẩm cắt giảm ở mức thuế 0-5% và
20% sản phẩm ở mức thuế trên 5%. Khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ
chính thức có hiệu lực, Việt Nam đã cam kết giảm thuế nhập khẩu đối với
244 mặt hàng trong vòng 3-6 năm với mức thuế giảm bình quân từ 35%
xuống còn 26% (trong đó có 80% là sản phẩm nông nghiệp). Cũng theo cam
kết này, Việt Nam đang tiến hành bãi bỏ ưu đãi về thuế nhập khẩu theo tỷ lệ
nội địa hoá và dần dần tháo bỏ việc áp dụng chế độ thu phí và lệ phí liên
quan đến hàng hoá XNK. Tuy nhiên, Việt Nam hiện duy trì thuế suất, thuế
nhập khẩu trung bình đối với hàng nông sản là khoảng 25%, với thuế suất
đỉnh lên đến từ 40% đến 100% áp dụng cho hoa quả tươi, đường kính, ngũ
cốc, rượu vang, bia, thuốc lá... Mà theo quy định của WTO, các nước xin gia
nhập thường phải giảm thuế suất trung bình đối với hàng nông sản xuống
còn khoảng 20%, đối với hàng chế tạo còn 10%.
Hệ thống miễn thuế nhập khẩu hàng hoá cũng được chính phủ áp
dụng, đặc biệt đối với hai loại hàng hoá chủ yếu là nguyên liệu thô và hàng
hoá trung gian phục vụ sản xuất hoặc các hàng hoá lắp ráp sử dụng để xuất
khẩu. Hệ thống pháp luật phục vụ các hoạt động chế biến xuất khẩu ở Việt
Nam được thành lập năm 1991 thông qua những quy định về việc thành lập
các khu chế xuất. Hệ thống này đang dần dần đưa Việt Nam lại gần với thị
trường thế giới hơn, tránh được sự bóp méo và kiểm soát nhập khẩu như
trước đây. Nhờ đó, hoạt động sản xuất và chế biến xuất khẩu của Việt Nam
trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Các hàng rào phi thuế quan: Chính phủ đã sử dụng một loạt các biện
pháp phi thuế quan để kiểm soát và điều tiết nhập khẩu. Hệ thống cấp giấy

phép nhập khẩu và côta thực sự được nới lỏng khi hệ thống danh mục hàng
XNK chịu thuế được đưa vào áp dụng năm 1992 theo nghị định 114-HĐBT.
Theo Nghị định này, số lượng mặt hàng nhập khẩu phải chịu quản lý bằng
hạn ngạch đã giảm đáng kể, và mọi hàng hoá đều được tự do XNK và chịu
điều tiết bằng thuế XNK, trừ danh mục hàng cấm nhập khẩu, cấm xuất khẩu,
danh mục hàng XNK được quản lý bằng hạn ngạch. Hiện tại, Việt Nam đang
cố gắng loại bỏ hạn ngạch, côta theo đúng tiến trình thực hiện hiệp định
thương mại Việt - Mỹ, hạn chế các khoản phụ phí nhập khẩu, ban hành
những quy định mới về giá trị tính thuế hải quan, và mở rộng quyền kinh
doanh XNK đối với các hình thức doanh nghiệp khác ngoài thành phần kinh
tế Nhà nước.
Những hạn chế về quyền giao dịch thương mại truyền thống cũng là
một trong những hàng rào phi thuế quan quan trọng mà chính phủ đã sử
dụng. Quyền giao dịch buôn bán, thường được gọi là thương mại Nhà nước,
đơn giản là quyền XNK hàng hoá, đã được nới lỏng. Trước năm 1986,
quyền XNK hàng hoá chủ yếu nằm trong tay Nhà nước dưới dạng những
tổng công ty XNK mang tính chất độc quyền. Luật thuế XNK ra đời (1988)
đã nới lỏng hơn đối với việc thành lập các tổ chức thương mại nước ngoài,
và việc Nhà nước độc quyền ngoại thương đã chấm dứt. Các tổ chức, các
công ty thuộc nhiều thành phần kinh tế của Việt Nam đã được phép tham gia
các hoạt động thương mại quốc tế. Trong những năm sau đó, quyền tham gia
kinh doanh nhập khẩu của các doanh nghiệp được mở rộng hơn. Mọi doanh
nghiệp đều có thể được cấp giấy phép kinh doanh XNK nếu đảm bảo một số
điều kiện như phải có mức vốn lưu động tối thiểu là 200.000 USD, hoạt
động đúng ngành hàng đăng ký, và không hạn chế kim ngạch nhập khẩu....
Cho đến năm 1998, theo nghị định 57/1998/NĐ-CP, những quy định về các
điều kiện kinh doanh XNK đề ra trước đây đã được bãi bỏ hoàn toàn nhằm
khuyến khích hơn nữa các thành phần doanh nghiệp tham gia hoạt động
XNK.
• Về cơ chế xuất khẩu

Cải cách cơ chế xuất khẩu của nước ta cũng có những thành tích nổi bật
như cải cách hệ thống quản lý nhập khẩu. Hệ thống lập kế hoạch xuất khẩu
trực tiếp mang tính cứng nhắc dần được thay thế bằng những hoạt động phi
tập trung hoá và theo cơ chế thị trường. Xu hướng thờ ơ và không coi trọng
xuất khẩu của hệ thống thương mại trước cải cách dần dần đã được huỷ bỏ
vì chính phủ phi tập trung hoá hoạt động ngoại thương và đưa vào thực hiện
các chính sách tỷ giá hối đoái không đối xử phân biệt với hàng xuất khẩu.
Mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu: Thay đổi quan trọng nhất là mở
rộng quyền kinh doanh thương mại cho hoạt động xuất khẩu. Như trên đã đề
cập, quyền kinh doanh XNK đã được nới lỏng, và ngay cả những mặt hàng
thiết yếu Nhà nước cũng không có chủ trương độc quyền hoàn toàn về kinh
doanh XNK. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế
doanh thu, nếu doanh nghiệp dùng lợi nhuận đầu tư vào sản xuất hàng xuất
khẩu thì được giảm thuế lợi tức. Các doanh nghiệp sản xuất hàng cần thay
thế nhập khẩu được xét giảm thuế doanh thu, thuế lợi tức trong thời gian sản
xuất ban đầu; các doanh nghiệp gia công hàng hoá cho nước ngoài được
nhập khẩu miễn thuế thiết bị vật tư phục vụ sản xuất. Kể từ năm 1998,
những ưu đãi đối với doanh nghiệp xuất khẩu được mở rộng hơn. Theo Nghị
định 57/1998/NĐ-CP Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được
phép xuất khẩu những mặt hàng không nêu trong giấy phép đầu tư của mình.
Còn các doanh nghiệp trong nước thì được quyền xuất khẩu sản phẩm trực
tiếp mà không cần có giấy phép XNK.
Tháo dỡ hạn ngạch xuất khẩu: Việt Nam đã dỡ bỏ hạn ngạch đối với
hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, trừ một số mặt hàng thiết yếu đặc biệt là
gạo. Trong Bản ghi nhớ về chế độ ngoại thương nộp cho WTO, gạo là nông
sản duy nhất bị áp dụng hạn ngạch xuất khẩu vì lý do an ninh lương thực
quốc gia. Cùng với đó, cải cách thuế xuất khẩu cũng được thực hiện. Ví dụ,
thuế xuất khẩu đối với gạo đã giảm từ 2%/năm (1997) xuống còn 0%/năm
(1998). Tuy nhiên, là một nước đang phát triển nghèo, Việt Nam không phải
đưa ra các cam kết cắt giảm trợ cấp nông phẩm xuất khẩu trong vòng 6 năm

khi gia nhập WTO.
Cải cách ngoại hối: Cải cách giá cả và phân bổ ngoại hối là một yếu tố
khác rất quan trọng liên quan đến tăng trưởng xuất khẩu trong những năm
qua. Trong giai đoạn trước cải cách, nhà nước đã cố định tỷ giá theo hướng
định giá cao đồng nội tệ để trợ cấp nhập khẩu các hàng hoá ưu tiên có hàm
lượng vốn cao mà trong nước chưa thể sản xuất được. Vào cuối thập kỷ
1980, nhà nước đã thay đổi dần các yếu tố này của hệ thống ngoại hối, cơ
chế hai tỷ giá đã được xoá bỏ để thay thế bằng cơ chế một tỷ giá chủ đạo là
tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các quy định về kết hối ngoại
tệ cũng được nới lỏng, các quy định về quản lý dự trữ ngoại hối đã có sự
thay đổi, và các nghiệp vụ thị trường mở đang được xem xét áp dụng. Chính
sách tỷ giá trong thời gian qua đã có những điều chỉnh, phân theo ba giai
đoạn sau:
•Thời kỳ thứ nhất: 1988-1991: tỷ giá được nới lỏng để đưa dần các yếu
tố thị trường vào cơ chế xác định tỷ giá.
•Thời kỳ thứ hai: 1992-1997 (trước khi nổ ra khủng hoảng tài chính tiền
tệ), tỷ giá được ấn định và điều chỉnh gần như cố định để kiềm chế lạm
phát, ổn định thị trường tài chính tiền tệ và thu hút đầu tư nước ngoài.
•Thời kỳ thứ ba: từ sau khủng hoảng đến nay, chính phủ đã có những
điều chỉnh có tính chủ động hơn để khắc phục khủng hoảng và tránh
đồng Việt Nam bị định giá quá cao.
Chính sách tỷ giá như trên đã có tác động tích cực đến ngoại thương,
đặc biệt đối với lĩnh vực xuất khẩu. Đồng tiền đã được định giá ngày càng
sát với giá trị thực của nó. Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái như hiện nay vẫn cần
phải có sự điều chỉnh hơn nữa, tiến tới tự do hoá tỷ giá trong giai đoạn sớm
nhất.
Hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu cho nông nghiệp: Hiệp định
nông nghiệp của WTO yêu cầu các nước phải giảm các hình thức trợ cấp
bóp méo thương mại. Hiệp định nông nghiệp của WTO đã chia trợ cấp thành
4 nhóm: trợ cấp hộp xanh lơ, trợ cấp hộp xanh lá cây, trợ cấp hộp vàng và

trợ cấp hộp đỏ. Trợ cấp thuộc diện hộp xanh lơ và xanh lá cây là các biện
pháp trợ cấp được phép mà không phải chịu sự điều chỉnh. Trợ cấp hộp vàng
ảnh hưởng đến thương mại, phải ràng buộc và cam kết điều chỉnh. Trợ cấp
hộp đỏ bị cấm và phải loại bỏ khi đã trở thành thành viên chính thức của
WTO. Ở Việt Nam, trợ cấp hộp vàng trước kia được sử dụng để hỗ trợ nông
phẩm thông qua Quỹ bình ổn giá. Gần đây, Quỹ này được đổi tên là Quỹ hỗ
trợ xuất khẩu. Tổng trợ cấp tính gộp hàng năm của Việt Nam trong thời kỳ
1996-1998 là khoảng 1.644,84 tỷ VND. Gạo, đường, thịt lợn, bông, gia súc,
gia cầm, dứa là những đối tượng được hưởng những khoản trợ cấp này. Tuy
nhiên, lượng tiền hỗ trợ này của Việt Nam được WTO coi là thấp, chưa cần
phải cắt giảm trong giai đoạn hiện nay.
Bảng 1: Mức thưởng theo kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng năm 2002
Mặt hàng Mức
thưởng (đ/
USD)
Mặt hàng Mức thưởng
(đ/USD)
Gạo các loại 180 Cà phê nhân 220
Thịt lợn sữa 280 Cà phê hoà tan, cà phê bột 100
Thịt lợn miếng 900 Rau quả hộp 400
Thịt gia súc, gia cầm 100 Rau quả tươi, sấy khô và sơ chế 100
Chè 220 Lạc nhân 100
Hạt tiêu 100 Hạt điều 100
Thủ công mỹ nghệ 100 Hàng mây tre lá 100
Đồ nhựa 100 Hàng cơ khí 100
Việt Nam vẫn đứng trước những khó khăn lớn về thuế XNK cần giải
quyết. Trong chính sách phát triển kinh tế theo định hướng xuất khẩu, Việt
Nam đã đạt được những kết quả to lớn. Tốc độ tăng trưởng XNK trong giai
đoạn 1991-2000 là 18,4%, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của GDP 2,6 lần.
Xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng cao, tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm đã

qua chế biến tăng nhanh (từ 8% năm 1991 lên 31,4% năm 2002). Tăng
trưởng xuất khẩu chủ yếu được dựa vào việc khai thác các nguồn lực tương
đối dễ dàng, cần ít vốn đầu tư, hoặc cần đến vốn đầu tư của bên ngoài (FDI),
và gắn liền với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn như gạo, cà phê, thuỷ
sản, dệt may, dầu thô, điện tử... Tuy nhiên, trong thực tế, mô hình thương
mại của Việt Nam trong thời gian qua có xu hướng nghiêng về thay thế nhập
khẩu. Nhà nước đã khuyến khích đầu tư phát triển các ngành công nghiệp
thay thế nhập khẩu và đa số các dự án FDI được phê duyệt là giành để sản
xuất các sản phẩm phục vụ thị trường nội địa. Năm 1997, số ngành công
nghiệp thay thế nhập khẩu được nhà nước tập trung đầu tư là 11 ngành,
trong khi số ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu là 3 ngành. 9 tháng
đầu năm 2002, con số này tương ứng là 18 ngành và 2 ngành. Năm 2002,
tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam đạt 5,1%/năm trong khi tăng trưởng
nhập khẩu đạt 10,8%/năm. Trong xu thế giá cả thế giới ngày càng giảm sút,
xuất khẩu hàng hoá của Việt nam có nguy cơ càng sản xuất nhiều càng thua
lỗ nặng. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước còn chiếm tỷ lệ khá
lớn cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng đến mô hình thương mại của Việt
nam trong thời gian qua. Xu hướng bảo hộ mậu dịch đi ngược với định
hướng chiến lược trong thời gian qua có nguy cơ đẩy Việt Nam đi vào thua
thiệt khi tiến hành tự do hoá thương mại theo quy định của WTO.
Bảng 2: Mối quan hệ giữa xuất nhập khẩu với tăng trưởng kinh tế (%)
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Xuất khẩu 33,2 26,6 1,9 23,3 25,5 3,8 5,1
Nhập khẩu 36,6 4,0 -0,8 2,1 33,2 3,4 10,8
GDP 9,34 8,15 5,76 4,77 6,79 6,8 7,0
Nguồn: Niên giám thống kê 2002
Ngoài ra, mức thuế quan và các hàng rào phi thuế quan của Việt Nam
còn cao. Điều này có tác dụng bảo hộ các doanh nghiệp và các ngành công
nghiệp non trẻ trong nước, tuy nhiên đã làm cho biểu thuế của Việt Nam
phức tạp, chồng chéo, khó quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho việc trốn

thuế, lậu thuế. Ngoài ra, việc áp dụng tính giá tính thuế tối thiểu như hiện
nay của Việt Nam chưa phù hợp với những quy định của WTO. Hiện tại,

×