Chuyên đề thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với công cuộc cải cách, đổi mới và mở cửa nền kinh tế, là việc
Việt Nam ra nhập WTO đã trở thành cơ hội giúp cho các ngân hàng có những
bước phát triển vượt bậc như việc mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao chất
lượng sản phẩm dịch vụ, tăng cường mạng lưới dịch vụ, tăng cường mạng
lưới chi nhánh và hiện đại hóa công nghệ. Cả nước hiện có: 5 ngân hàng
thương mại nhà nước, 48 ngân hàng thương mại cổ phần, 30 ngân hàng liên
doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1 ngân hàng chính sách, 1 ngân
hàng phát triển, 22 công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính, hệ thống
quỹ tín dụng nhân dân với gần 1000 đơn vị. Một điều kiện khác cũng đã tác
động một phần không nhỏ đến sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt
Nam đó là sự đầu tư tài trợ nước ngoài. Có thể nói Việt Nam hiện nay đang là
điểm nóng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Hiện nay với xu thế toàn cầu hóa, vấn đề hội nhập quốc tế là tất yếu
khách quan đối với các quốc gia trên thế giới. Hội nhập quốc tế bên cạnh
những thách thức to lớn lại tạo ra những cơ hội phát triển và áp dụng những
tiến bộ của nhân loại trên toàn thế giới. Trong xu thế ấy, hệ thống tài chính
nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng không chỉ là
huyết mạch của nền kinh tế quốc dân mà còn mang trong mình cơ hội vươn ra
khu vực và thế giới. Đó cũng chính là yêu cầu đòi hỏi mỗi ngân hàng phải
nâng cao năng lực tài chính, nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao chuẩn hóa
bằng các chuẩn mực quốc tế, chuẩn hóa các quy trình nghiệp vụ.
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
1
Chuyên đề thực tập
Tận dụng triệt để các cơ hội, ngân hàng Công thương Việt Nam đã và
đang ra sức phát triển các sản phẩm dịch vụ và ngày càng hoàn thiện mình để
thu hút sự đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài và có thể trụ vững
trong những cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa hệ thống ngân hàng
thương mại trong nước, và sự xuất hiện ngày càng nhiều văn phòng đại diện
cũng như chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài.
Hoạt động cơ bản của các ngân hàng thương mại nói chung và của
ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng là huy động vốn và cho vay. Xã
hội nước ta ngày càng phát triển, cuộc sống của nhân dân cải thiện rõ rệt, họ
đã có của ăn của để cho nên việc họ có nhiều tài sản đặc biệt là tiền mặt và
vàng là tất yếu. Nhưng không phải lúc nào họ cũng cần một lượng tài sản lớn
để sử dụng, nên sẽ có một lượng tiền mặt nhàn rỗi. Tuy nhiên có những người
có lượng tiền không sử dụng đến thì cũng có những người rất cần tiền để sử
dụng, họ khan hiếm tiền mặt. Vì vậy cả hai loại người này sẽ cùng tìm đến
chung gian tài chính là ngân hàng để thỏa mãn những nhu cầu của mình.
Với vai trò là doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn, chịu sự quản lý trực
tiếp của ngân hàng Công thương và ngân hàng Nhà nước, do vậy Sở giao dịch
I có trách nhiệm thực hiện chính sách phát triển kinh tế thông qua cấp tín
dụng cho doanh nghiệp, dự án, hộ gia đình, tuy nhiên việc thực hiện như thế
nào, cho ai vay, vay bao nhiêu… cần đảm bảo nguyên tắc tín dụng của ngân
hàng Công thương. Tuy nhiên, khi hoạt động cho vay của Sở giao dịch I ngày
càng tăng thì đồng nghĩa với việc đối mặt với những rủi ro ngày càng cao.
Qua đó chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của việc quản lý những rủi ro có
thể xảy ra, và hạn chế chúng như thế nào để mang lại hiệu quả cho vay cao
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
2
Chuyên đề thực tập
nhất. Vì những lí do đó cho nên em đã chọn đề tài: “Quản lý Rủi ro tín dụng
tại Sở giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam”. Kết cấu của chuyên
đề thực tập bao gồm:
Chương I: Những vấn đề về rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I Ngân
hàng Công thương Việt Nam.
Chương III: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Sở giao
dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Đàm Văn Huệ đã tận tình
hướng dẫn em hoàn thành Báo cáo tổng hợp thực tập này. Đồng thời em xin
gửi lời cảm ơn tới quý ngân hàng và các anh chị nhân viên của Sở giao dịch I
Ngân hàng Công thương Việt Nam đặc biệt là các cán bộ nhân viên ở phòng
quản lý rủi ro đã tận tình chỉ bảo và tạo điều kiện tốt nhất trong suốt quá trình
thực tập để em có thể hoàn thành bản chuyên đề tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
3
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm Ngân hàng thương mại
NH là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế,
là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng (cá nhân và hộ gia
đình) và với hầu hết cơ quan Chính quyền địa phương, và là tổ chức thu hút
tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia
đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại các NH.
NH đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Và có thể nói rằng trên toàn
thế giới đây là loại hình tổ chức trung gian tài chính cung cấp các khoản tín
dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất. NH bao gồm nhiều
loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài
chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài
sản, thị phần và số lượng các NH.
Tóm lại, NH là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
Tùy theo yêu cầu của người quản lí có thể phân chia các NH theo nhiều
hình thức khác nhau như phân chia theo hình thức sở hữu, hoặc theo tính chất
hoạt động hoặc theo cơ cấu tổ chức. Tuy nhiên phổ biến nhất hiện nay là phân
loại các NHTM theo hình thức sở hữu bao gồm có các loại như: NH sở hữu tư
nhân, NH sở hữu của các cổ đông (NH cổ phần), NH sở hữu Nhà nước, NH
liên doanh.
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
4
Chuyên đề thực tập
1.1.2 Hoạt động tín dụng ngân hàng
1.1.2.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại tín dụng ngân hàng
• Khái niệm
Có thể định nghĩa tín dụng NH theo nhiều cách như:
Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên
khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như NH hoặc các trung gian tài chính
khác thì chỉ bao hàm nghĩa NH cho vay.
Hoặc theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, điều 49 có ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ
chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ
có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo qui định
của NHNN”.
Như vậy, tín dụng là hoạt động sinh lời nhất song rủi ro cao nhất cho
NHTM. Rủi ro này, có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất có
thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy NH đến phá sản. Do vậy, NH phải cân
nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ.
• Đặc điểm tín dụng NH
Hoạt động tín dụng NH dựa trên sự lựa chọn đối nghịch giữa người đi
vay và người cho vay _ NH. Một bên là người đi vay chấp nhận mọi mạo
hiểm để sử dụng vốn và bên còn lại thì mong muốn sự an toàn cao nhất cho
phần vốn mà mình đã cho khách hàng vay. Thông tin không cân xứng giữa
hai chủ thể này đã hàm chứa rủi ro rất cao cho NH vì thể có thể nói đặc điểm
nổi bật nhất của tín dụng NH đó là luôn hàm chứa rủi ro.
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
5
Chuyên đề thực tập
• Phân loại tín dụng NH
Có nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng NH do đó có nhiều cách phân
loại khác nhau như:
Bảng 1: Hình thức phân loại tín dụng ngân hàng.
Chỉ tiêu phân loại theo Hình thức tín dụng
Thời gian - Tín dụng ngắn hạn
- Tín dụng trung hạn
- Tín dụng dài hạn
Hình thức tài trợ - Cho vay
- Chiết khấu thương phiếu
- Bảo lãnh
- Cho thuê tài chính
Tài sản đảm bảo - Tín dụng có tài sản đảm bảo
- Tín dụng không có tài sản đảm
bảo
Ngành kinh tế - Tín dụng công nghiệp
- Tín dụng thương mại dịch vụ
- Tín dụng nông, lâm nghiệp
1.1.2.2 Hoạt động tín dụng của ngâ hàng thương mại
● Cho vay
Cho vay trực tiếp từng lần
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của NH đối với các khách
hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện vay để được
cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu,
chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay NH, tức là
vốn từ NH chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
6
Chuyên đề thực tập
kinh doanh.
Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó NH thỏa thuận cấp cho khách hàng
hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là
số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế
hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và vay vốn của khách hàng.
Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó NH cho phép người vay chi trội
trên số dư thanh toán của mình đến một giới hạn và trong khoảng thời gian
nhất định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin NH hạn mức thấu chi và
thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho NH). Trong quá trình hoạt
động, khách hàng có thể kí séc, lập ủy nhiệm chi, mua thẻ séc…vượt quá số
dư tiền gửi để chi trả. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi NH
sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà NH phải trả:
Lãi suất thấu chi × Thời gian thấu chi × Số tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ
sử dụng hình thức này.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản,
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
y
x
Trục y: số dư tiền gửi thanh toán
(đồng)
Trục x: thời gian
: Hạn mức thấu chi
: Vay NH (thực
hiện thấu chi)
: Số dư tiền thanh toán
7
Sơ đồ 1 : Cho vay thấu chi
Chuyên đề thực tập
phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân
vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản
phải nộp, mua hàng,… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối các khách
hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó NH cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả
góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho
tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho
phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của
dự án, hoặc từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng).
NH thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức
nhất định. NH sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà khách hàng
đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía
NH và làm đại lí thu tiền cho NH, hoặc khách hàng trực tiếp cho NH. Đây là
hình thức tín dụng tài trợ cho người mua nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng
hóa.
Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của NH là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó NH cũng
phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua
các tổ chức trung gian.
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
8
Chuyên đề thực tập
NH có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ
chức tín dụng trung gian như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng
có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong
nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay
không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Để bù đắp một phần chi phí trung
gian, NH trích một phần thu nhập lại cho trung gian.
NH cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào
của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử
dụng tiền sai mục đích.
Cho vay luân chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh
nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. NH có thể cho vay để mua hàng và sẽ
thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quí, người vay phải làm
đơn xin vay luân chuyển. NH và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương
thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu
thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một năm hoặc vài năm.
Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để NH xem xét lại mối
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
Sơ đồ 2: Cho vay gián tiếp
NH Khách hàngTrung gian
(1)
(2)
(3) (3)
9
(1)Phân tích tín dụng trước khi cho vay
(2) NH phát tiền vay trực tiếp cho khách hàng
(3) Các tổ chức trung gian thu nợ hộ NH
Chuyên đề thực tập
quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tùy mối
quan hệ giữa NH và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ thì NH sẽ gặp khó khăn trong
việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được qui định rõ ràng.
● Cho thuê tài sản
Cho thuê của NH thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn. NH
mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho NH phải thu gần đủ
hoặc thu đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Hết hạn thuê, khách hàng có
thể mua lại tài sản đó.
Cho thuê (thuê – mua) giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ
NH phải xuất tiền với kì vọng thu về cả gốc và lãi sau thời hạn nhất định;
khách hàng phải trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kì. NH cũng phải
đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có hiệu quả không trả
được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên, cho thuê có nhiều điểm khác
biệt so với cho vay như tài sản đi thuê vẫn thuộc sở hữu NH vì thế không ghi
vào bảng cân đối tài sản của người vay, không làm tăng cơ cấu nợ của người
vay, NH có quyền thu hối nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp
đồng, đồng thời NH cũng phải có tránh nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần
cho khách hàng và phải bảo đảm về chất lượng của loại tài sản đó. Cho thuê
không có tài sản đảm bảo, nhiều tài sản thuê mang tính đặc chủng, khó bán,
khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao… nên cho thuê rủi ro rất cao đối với NH.
● Bảo lãnh
Bảo lãnh của NH là cam kết của NH dưới hình thức bảo lãnh về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của NH khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
Bảo lãnh là hình thức tài trợ của NH cho khách hàng, qua đó khách
hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện được
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
10
Chuyên đề thực tập
các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi.
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. NH không xuất tiền ngay
khi bảo lãnh, do vậy bảo lãnh được coi là tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên, khi
khách hàng không thực hiện được cam kết, NH phải thực hiện nghĩa vụ chi trả
cho bên thứ ba. Khoản chi này được xếp vào loại tài sản “xấu” trọng nội
bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy, bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro
như một khoản cho vay và đòi hỏi NH phân tích khách hàng như khi cho vay.
Bảo lãnh của NH tạo mối liên hệ trách nhiệm tài chính và sản sẻ rủi ro.
Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hang, trách nhiệm của NH là
thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên
hệ giữa NH với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện
cam kết. Bảo lãnh cũng góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba
khi tổn thất xảy ra.
● Chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng
hóa và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán có thể giữ thương phiếu
đến hạn để đòi tiền người mua hoặc mang đến NH để xin chiết khấu trước
hạn. Số tiền NH ứng trước thụ thuộc vào lãi suất chiết khấu và thời hạn cũng
như lệ phí chiết khấu.
Bên cạnh việc áp dụng lãi suất chiết khấu, NH có thể yêu cầu khách
hàng trả thêm lệ phí chiết khấu đối với những trường hợp cụ thể có liên quan
đến rủi ro và chi phí đòi tiền.
Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa
NH và người kí tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách, NH thường
kí với khách hợp động chiết khấu. Khi cần chiết khấu, khách hàng chỉ cần gửi
thương phiếu lên NH xin chiết khấu. NH sẽ kiểm tra chất lượng thương phiếu
và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho NH
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
11
Chuyên đề thực tập
nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao trừ trường hợp NH kí miễn
truy đòi đối với khách hàng. Hơn nữa, NHTM có thể tái chiết khấu thương
phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp.
1.2 RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng
NHTM là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa đặc biệt – hàng hóa
tiền tệ. Đa phần trong đoa các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn
tiền của các NHTM đang có thay đổi mạnh mẽ do gia tăng cạnh tranh trong
hệ thống NH, giữa các NH với các TCTC dưới dưới ảnh hưởng của công
nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hóa. Các nguồn tiền gửi của cá nhân và
doanh nghiệp trở nên dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều
này tạo thuận lợi hơn cho một NH trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại
làm tăng tính mỏng manh, kém ổn định của cả hệ thống. Tài sản của NH chủ
yếu là các động sản tài chính (các khoản cho vay, chứng khoán) với tính rủi ro
thị trường, RRTD cao. Công nghệ NH cho phép NH có thể chuyển nguồn tiền
của mình đầu tư tới các vùng, các thị trường khác nhau ngày càng xa trụ sở
chính. Điều này, một mặt cho phép NH giảm bớt rủi ro thông qua đa dạng hóa
khách hàng, đa dạng sản phẩm và thị trường, song mặt khác cũng làm tăng tín
dụng rủi ro do tính biến động lớn trên thị trường thế giới và khu vực, do thông
tin sai lệch…
Phân chia rủi ro theo các loại tài sản gồm có: Rủi ro trong quản lí kinh
doanh ngân quỹ, rủi ro tín dụng, rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng
khoán, rủi ro trong cho thuê và rủi ro đối với các tài sản khác của NH. Phân
chia rủi ro theo nguyên nhân – các nhân tố tác động – gồm có rủi ro do người
vay không trả nợ cho NH, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi,
rủi ro do các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy, giấy tờ giả…Có các loại
rủi ro phổ biến như: rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
12
Chuyên đề thực tập
toán,…
Khi nghiên cứu về lĩnh vực NH ta thường được biết đến RRTD, vậy thế
nó là gì? RRTD là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho NH do
khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và
lãi. Khi thực hiện cho vay một khách hàng cụ thể, NH không dự kiến là khoản
cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa
rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ NH, tỷ lệ tổn
thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến
lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến,
NH coi đó là một thành công trong quản lý.
Theo quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý
RRTD trong hoạt động của TCTD được ban hành theo Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN “RRTD trong
hoạt động NH của tổ chức tín dụng”, được coi là khả năng xảy ra tổn thất
trong hoạt động NH của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không
có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 RRTD xuất
phát từ nhiều yếu tố và có thể được chia làm 2 nhóm chính: Nhóm thuộc về
cơ chế, chính sách và bản thân NH: Thiếu chính sách cho vay, thiếu các tiêu
chuẩn rõ ràng, việc chấp nhận tín dụng quá tập trung, thiếu sự kiểm soát chặt
chẽ, khoa học…; Nhóm thuộc về con người trong đó có cán bộ NHTM và
người đi vay.Các yếu tố thuộc về hai nhóm trên vừa có tính độc lập tương đối,
vừa quan hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau, có thể làm cho hoạt động của
NHTM giảm thiểu được rủi ro, nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng NH.
Nhưng chúng cũng có thể gây ra những tổn thất, thậm chí rất lớn, dẫn tới phá
sản của một hoặc một số NHTM. Chẳng hạn sự yếu kém, thiếu đồng bộ, thiếu
nhất quán trong cơ chế, chính sách cho vay, dẫn tới tình trạng cán bộ quản lý
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
13
Chuyên đề thực tập
NHTM, hoặc người đi vay lợi dụng, đặc biệt nguy hại khi cán bộ nắm quyền
lãnh đạo, chi phối hoạt động của NHTM bị sa sút phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp.
1.2.2 Bản chất, nguyên nhân và dấu hiệu của rủi ro tín dụng
1.2.2.1 Bản chất rủi ro tín dụng
RRTD gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của
NHTM – hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, NH
cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn cao nhất. Và
nhìn chung NH chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, không
một nhà kinh doanh NH tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy
ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều
nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ NH không có khả năng thực hiện phân
tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ NH, RRTD
là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, RRTD
la bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại
trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt
động chung của NH.
1.2.2.2 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
● Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất
khả năng thanh toán cho NH. Ví dụ: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay
đổi tầm vĩ mô (thay đổi Chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan…)
vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người
vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản
lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó
khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể bị tổn thất song vẫn có
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
14
Chuyên đề thực tập
khả năng trả nợ cho NH đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của
những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề, khả năng trả
nợ của họ bị suy giảm.
● Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh,
yếu kém trong quản lí, chủ định lừa đảo cán bộ NH, chây ì…là nguyên nhân
gây RRTD. Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi
nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn
ứng phó với NH như cung cấp thông tín sai, mua chuộc… Nhiều người vay
đã không tính toán kỹ lưỡng hoặc không có khả năng tín toán kỹ lưỡng những
bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn
trong kinh doanh. Trong trường hợp còn lại, người vay kinh doanh có lãi
những vẫn không trả nợ cho NH đúng hạn. Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt
nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
● Nguyên nhân thuộc về NH
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc
định giá không tốt, cố tình làm sai… là một trong những nguyên nhân của
RRTD. Nhân viên NH phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm
chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lịnh vực mà
khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả
năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay… Như vậy, họ cần phải
được đào tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục toàn diện. Khi nhân viên tín dụng
cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ lưỡng, RRTD
luôn rình rập họ. Sống trong môi trường “tiền bạc”, nhiều nhân viên NH đã
không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khác hàng rút rột NH.
Như vậy, chất lượng nhân viên NH bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp
không đảm bảo là nguyên nhân RRTD.
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
15
Chuyên đề thực tập
1.2.3 Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Tuy RRTD là khách quan, song NH phải quản lí RRTD nhằm hạn chế
đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên nhân nảy sinh
RRTD, NH cụ thể hóa thành những chỉ tiêu hoặc dấu hiệu chính phát sinh
trong hoạt động tín dụng, phản ánh RRTD:
(1)Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ;
(2)Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ;
(3)Nợ có vấn đề;
(4)Tính đa dạng giá của tài sản;
(5)Tình hình tài chính và phương án của người vay (các yếu tố của
người vay) hoặc xếp hạng tín dụng người vay;
(6) Quan hệ tín dụng giữa NH và khách hàng;
(7)Đảm bảo tiền vay;
(8)Môi trường hoạt động của người vay.
Nhiều NH phân loại nợ theo khách hàng để phân tích và đánh giá
RRTD. Nợ của khách hàng nhóm A được coi có rủi ro thấp nhất, còn nợ
khách hàng nhóm D, E được coi là có khả năng mất vốn cao nhất. Để cách
phân loại này phản ảnh chính xác RRTD, phải có tiêu chuẩn xếp hạng tín
nhiệm đúng.
Theo Quyết định số 493, nợ của NHTM được chia thành 5 nhóm, với
nợ từ loại 3 đến 5 là nợ xấu, còn nợ nhóm 1 là nợ thông thường thì tỷ lệ trích
lập dự phòng là 0%, và nợ nhóm 2_nợ cần chú ý_trích lập dự phòng là 5%.
1.2.3.1 Nợ quá hạn
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tồng dư nợ. Nợ quá hạn là khoản
nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng
tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn
lại của hợp đồng chuyển thành nợ quá hạn.
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
16
Chuyên đề thực tập
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ. Nợ khó đòi là khỏan nợ
quá hạn và kèm theo một số tiêu chí khác như quá một kì hạn gia hạn nợ,
hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản không bán được, con nợ thua lỗ
triền miên, phá sản…
Các chỉ tiêu có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ
RRTD khác nhau. Đối với NH, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên
quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn
mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh
báo cho NH: Hi vọng thu lại tiền trở nên mong manh, NH cần có biên pháp
hữu hiệu để giải quyết.
Các quan điểm khác nhau, các cánh tính toán khác nhau về kì hạn nợ và
nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng.
Thứ nhất, do định kì hạn nợ không đúng.
Nhiều cán bộ NH khi cho vay không quan tâm thích đáng đến chu kì
kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu, họ đặt kì hạn nợ
ngắn để hạn chế rủi ro. Kì hạn nợ không phù hợp với thu nhập của người vay.
Khi đến hạn, người vay dĩ nhiên sẽ không thể trả nợ được, gây nợ quá hạn.
Khoản nợ này trở thành mối đe dọa tài chính đối với người vay, buộc họ phải trả
thêm khoản “Phụ phí” để được gia hạn nợ, hoặc phải chịu lãi suất phạt.
Thứ hai, do đảo nợ, hoặc giãn nợ.
Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng trả có thể được đảo nợ
làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che dấu đối với NH cấp trên, hoặc để
không phải chịu lãi phạt, khách hàng và nhân viên NH cũng có thể giãn nợ
đối với khoản nợ mà chắc chắn người vay không thể trả được. Những hành vi
này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ RRTD.
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
17
Chuyên đề thực tập
Thứ ba, do chính sách cho vay,
Rất nhiều các khoản cho vay khó đòi không thể thu hồi phát mại tái sản
(Doanh nghiệp Nhà nước, người nghèo, tài sản không rõ rang…). Những
khoản cho vay này phần lớn là cho vay theo chỉ thị Chính phủ. Khi Chính phủ
chưa có biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của NH, trở
thành tài sản “ảo”. Xử lý khoản nợ này rất phức tạp. Nhiều NH loại chúng ra
khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh (khi được Chính phủ
đồng ý). Tuy nhiên, chúng thực sự đe dọa thu nhập của NH nếu Chính phủ
không tìm được nguồn bù đắp.
1.2.3.1 Các chỉ tiêu khác
Bên cạnh nợ quá hạn và nợ khó đòi, nhà quản lí NH còn sử dụng các
hình thức đo RRTD khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hóa tài sản, lập hồ
sơ khách hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với các khoản cho vay…
●Điểm của khách hàng.
Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh,
hiệu quả dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng…NH lập hồ sơ về khách
hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại A hoặc điểm cao, RRTD thấp,
khách hàng loại C, hoặc điểm thấp, rủi ro cao. Chỉ tiêu này được xây dựng
dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà NH xây dựng. Điểm của khách hàng cho thấy
rủi ro “tiềm ẩn”.
●Các khoản cho vay có vấn đề
Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, song trong quá
trình theo dõi, nhân viên NH nhận tháy có nhiều khoản tài trợ đang có dấu
hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vấn
đề được xây dựng dựa trên qui định của NH.
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
18
Chuyên đề thực tập
●Tính kém đa dạng của tín dụng
Đa dạng hóa là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kì
của người vay là khó tránh khỏi. Nếu NH tập trung tài trợ cho nhóm khách
hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng
hóa.
●Mất ổn định vĩ mô
Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị
mất ổn định, vùng hay bị thiên tai… đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động
xấu đến người vay. Do vậy, mất ổn định vĩ mô được NH xem là nội dung
phản ánh RRTD.
1.2.4 Tác động của rủi ro tín dụng
RRTD không phải là một vấn đề mới, mà trái lại nó là vấn đề mà mọi
NHTM phải đối mặt. Có nhiều nguyên nhân có thể gây ra rủi ro khiến NH
không thể thu hồi được nợ khi đến hạn. Và những tác động của nó đã và đang
gây ra những tác động không tốt với NH nói riêng và cả nền kinh tế nói
chung. Nhưng việc ảnh hưởng như thế nào nhiều hay ít còn phụ thuộc vào
mức độ RRTD.
1.2.4.1 Tác động của rủi ro tín dụng đến ngân hàng
Có thể nói hoạt động cơ bản nhất, thường xuyên nhất và mang lại nhiều
nguồn lợi nhất cho NH là hoạt động tín dụng. Ảnh hưởng trực tiếp nhất là tới
lợi nhuận, khi các khoản nợ đến hạn mà khách hàng không thanh toán được
NH phải có các khoản chi phí để quản lý, giám sát và thu hồi nợ, nếu không
thu được nợ sẽ phát sinh thêm chi phí phát mại tài sản. Và những khoản nợ
này sẽ không mang lại thu nhập cho NH hoặc là có nhưng rất ít không đáng
kể. Nhằm mục đích hạn chế RRTD các NH phải lập quỹ dự phòng rủi ro từ
lợi nhuận đó cũng chính là nguyên nhân làm cho lợi nhuận của NH bị giảm.
Khi RRTD xảy ra ở mức độ cao, lợi nhuận khồn đủ để bù đắp cho những tổn
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
19
Chuyên đề thực tập
thất đã xảy ra, NH phải sử dụng vốn tự có. Tuy nhiên, so với tổng giá trị tài
sản thì vốn chủ sở hữu của NH rất nhỏ nên khi sử dụng có thể đẩy NH tới
nguy cơ mất khả năng thanh toán dẫn tới phá sản.
Tuy nhiên không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập của NH mà còn ảnh
hưởng đến hoạt động khác của NH, bởi vì hoạt động tín dụng của NH cũng
tác động nhiều đến các hoạt động khác. Vì nếu NH mở rộng được hoạt động
tín dụng, nâng cao các chất lượng tín dụng thì cũng sẽ là động lực nâng cao
hoạt động khác của NH, và ngược lại sẽ kìm hãm làm giảm lợi nhuận, ảnh
hưởng xấu đến các hoạt động tài chính khác của NH.
Như vậy một khi RRTD xảy ra sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ NH, trước hết
là họ sẽ không thu được vốn, và lãi theo đúng thời hạn ghi trong hợp đồng. Từ
đó sẽ làm vòng quay vốn sẽ bị giảm tốc độ nên làm giảm hiệu quả sử dụng
vốn, giảm khả năng thanh toán. Tuy nhiên tổn thất này chưa phải là lớn nhất
mà NH bị thiệt hại về mặt uy tín và lòng tin trong xã hội. Một NH gặp phải
những rủi ro về mặt hoạt động tín dụng mà không thể khắc phục được sẽ làm
mất lòng tin của các đối tác kinh doanh cũng như người gửi tiền. Khi đó thị
phần của NH sẽ bị giảm, nguồn huy động giảm, do đó NH lâm vào tình trạng
khó khăn. Trường hợp tồi tệ nhất là khi người gửi tiền có xu hướng đến NH
rút tiền ra điều đó dễ dàng đẩy NH đến mất khả năng thanh toán dẫn đến phá
sản. Một NH xảy ra hiện tượng phá sản sẽ gây ra hiệu ứng lan truyền ảnh
hưởng xấu đến toàn bộ hệ thống NH cũng như ảnh hưởng đến nền kinh tế
chung của toàn xã hội.
1.2.4.2 Tác động của rủi ro tín dụng đến nền kinh tế
Một vai trò quan trọng của tín dụng NH mà ta không thể không quan
tâm đó là việc điều hòa vốn trong nền kinh tế. RRTD xảy ra làm cho NH
không thu hồi được số nợ của khách hàng và cũng không có đủ vốn để cho
vay tiếp tục, vì thế có thể ảnh hưởng đến vòng quay sử dụng vốn làm giảm
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
20
Chuyên đề thực tập
khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Khi RRTD kéo dài, NH không thể đáp ứng được nhu cầu rút vốn của
khách hàng, ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống NH, tác động xấu đến nền kinh
tế trong nước.
1.2.5 Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận trong hoạt động của các ngân
hàng thương mại
Có thể nói NH hoạt động trong một môi trường tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Các rủi ro luôn luôn tồn tại quanh NH, một khi tổn thất xảy ra mang đến rất
nhiều bất lợi, trước hết là thu nhập sẽ giảm sút, tỷ suất lợi tức và thị giá cổ
phiếu cũng sẽ có thể bị giảm. Kéo theo có thể NH phải tiến hành bán hàng
loạt cổ phiếu trên thị trường, đây chính là điểm mấu chốt của quá trình buộc
NH phải sát nhập, bán lại hoặc thay đổi ban quản lý của NH. RRTD và rủi ro
lãi suất là nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản bằng sự kiện khách hàng
rút tiền hàng loạt ra khỏi NH, buộc NH không đủ lượng tiền dự trữ thanh toán
phải đóng cửa và có khả năng tuyên bố phá sản. Đằng sau những sự việc này
sẽ là việc NH phải cắt giảm lao động, giảm tiền lương… ảnh hưởng đến mọi
mặt mọi hoạt động của NH.
Theo như qui trình này, thì các chủ NH luôn chấp nhận một mức độ rủi
ro cụ thể, hoặc điều chỉnh giảm thiểu rủi ro ở mức độ thấp nhất có thể sao cho
hợp lý để đạt được những phần lợi nhuận kì vọng để bù đắp được những rủi
ro có thể xảy ra. Ta có thể nói rủi ro và lợi nhuận có mối quan hệ tỷ lệ thuận
với nhau, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc rủi ro càng cao thì lợi
nhuận càng lớn, mà chính là nếu NH muốn kiếm được nhiều lợi nhuận thì
phải chấp nhận rủi ro ở mức độ hợp lý nhưng bên cạnh đó còn nhiều yếu tố
khác kết hợp. Tuy nhiên quan trọng nhất đó là người đứng đầu NH đó là
người như thế nào? Đó phải là một người có đầu óc kinh doanh, quản lý tốt
mọi hoạt động của NH, biết nắm bắt những thời cơ và biến chúng thành hiện
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
21
Chuyên đề thực tập
thực. Điều này cũng không phải chỉ tồn tại ở mỗi môi trường NH mà trong tất
cả các lĩnh vực khác cũng vậy chấp nhận cơ cầu rủi ro hợp lý để kỳ vọng thu
được lợi nhuận để phát triển.
1.3 QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1 Quản lý rủi ro tín dụng
Nước ta trong giai đoạn gần đây đã hết sức cố gắng cải cách nền kinh tế
toàn diện ở mọi lĩnh vực, và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Các tổ chức
tài chính kinh tế quốc tế như IMF, WB, ADB đã có những đánh giá tích cực
đối với tình hình phát triển của nước ta. Thời gian 2005 – 2007, nhiều công ty
đánh giá hệ số tín nhiệm đã nâng cấp tín nhiệm cho Việt Nam. Cuối năm
2006, tổ chức xếp hạng tín dụng hàng đầu là Standard & Poor’s đã nâng cấp
nước ta từ BB– lên BB với tín dụng ngoại tệ, và từ BB lên BB+ đối với tín
dụng nội tệ, đây là những mức xếp hạng cao hơn một bậc so với Philippines
và Indonesia. Lần gần đây nhất là ngày 15 – 03 – 2007, Moody’s vừa nâng
mức tín nhiệm đối với trái phiếu Chính phủ Việt Nam bằng ngoại tệ từ “Ba ổn
định” lên “Ba tích cực”. Ông Tom Byrne cho biết sự điều chỉnh này là do
“thành công liên tục trong chính sách phát triển hướng ra bên ngoài của Việt
Nam và sự ổn định chung của tình hình tài chính Chính phủ”. Tuy hiện nay
nước ta chỉ được Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD xếp hạng
RRTD trong nhóm năm nhưng nếu so sánh với hầu hết các nền kinh tế được
xếp cùng hạng, thì phần lớn các chỉ số đều tốt hơn hoặc không thua kém.
Ngày 2–4–2007, OECD đã bỏ phiếu xếp hạng lại, qua bảng biểu dưới đây ta
có thể nhận thấy được sự tín nhiệm của nước ta ngày càng được nâng cao.
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
22
Chuyên đề thực tập
Bảng 2: Việt Nam trong bảng xếp hạng rủi ro tín dụng của OECD
Năm Hạng
Năm 1999 đến tháng 4 – 2002 6
Tháng 4 – năm 2002 5
Tháng 4 – năm 2007 4
(Nguồn Bảng xếp hạng rủi ro tín dụng của OECD )
Vậy qua đó ta có thể thấy quản lý RRTD đã trở thành vấn đề rất quan
trọng. Yêu cầu đặt ra là quản lý như thế nào để có thể giảm thiểu chúng và
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH?
1.3.2 Nguyên tắc trong quản lý rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động quan trọng nhất trong
hệ thống NH. Nó gồm cả hai mặt sinh lời – rủi ro. Có thể nói đa phần thua lỗ
mà NH mắc phải là bắt nguồn từ hoạt động tín dụng. Song không có cách nào
mà để loại trừ hoàn toàn các rủi ro mà chỉ có các biện pháp quản lý để hạn
chế các rủi ro đó. Quản lý RRTD là nội dung quản lý quan trọng của NHTM,
vì khi đứng trước một hồ sơ xin vay, người quản lý tín dụng phải đứng trước
mâu thuẫn giữa rủi ro và sinh lời.
Theo như hiệp ước Basel I yêu cầu các NH hoạt động quốc tế phải nắm
giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra.
Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của
NH, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng
số rủi ro của NH đó. Mục đích của Basel I nhằm: Củng cố sự ổn định của toàn
bộ hệ thống NH quốc tế; Thiết lập một hệ thống NH thống nhất, bình đẳng
nhằm giảm cạnh tranh không lành mạnh.
Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
23
Chuyên đề thực tập
quốc tế chung nhất về vốn của NH và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của NH.
Theo đó, vốn của NH được chia làm 2 loại:
●Vốn loại 1 (vốn cơ bản): bao gồm lượng vốn dự trữ sẵn có và các
nguồn dự phòng được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay.
●Vốn cấp 2 (vốn bổ sung): bao gồm vốn khác như các khoản lợi nhuận
trên tài sản đầu tư, nợ dài hạn với kỳ hạn lớn hơn 5 năm và các khoản dự
phòng ẩn. Tổng vốn sẽ bằng tổng của vốn cấp 1 và vốn cấp 2.
Theo quy định của Basel I, các NH cần xác định được tỷ lệ vốn tối
thiểu cần có để bù đắp cho rủi ro. Mức RRTD mà NH đối mặt được xác định
là tài sản điều chỉnh theo rủi ro của NH.
Tỷ lệ vốn tối thiếu = (Tổng vốn / tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi
ro) > 8%
Theo đó, các trọng số rủi ro khác nhau với các loại tài sản khác nhau sẽ
cho ra những yêu cầu về vốn khác nhau như:
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
24
Chuyên đề thực tập
Bảng 3: Yêu cầu về vốn tối thiểu đối với mỗi loại tài sản có trọng số rủi ro
khác nhau
Loại tài sản
Trọng
Số rủi
ro
Tỷ lệ
Vốn
Số tiền
Tài sản điều
chỉnh theo
trọng số rủi
ro
Yêu cầu về
vốn tối
thiểu
Trái phiếu Chính
phủ
0% 8% 1.000 USD 0 USD 0 USD
Trái phiếu đô thị 20% 8% 1.000 USD 200 USD 16 USD
Thế chấp nhà ở 50% 8% 1.000 USD 500 USD 40 USD
Vay không bảo
đảm
100% 8% 1.000 USD 1.000 USD 80 USD
(Nguồn phân loại rủi ro theo quy tắc Basel)
Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới thay thế cho Basel I,
và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel (Basel II) đã
chính thức được ban hành. Với cách tiếp cận mới dựa trên 3 trụ cột chính: yêu
cầu vốn tối thiểu; cơ quan thanh tra trực tiếp đánh giá mức độ tuân thủ yêu
cầu vốn tối thiểu của NH; công khai thông tin. Basel II đã buộc các NH quốc
tế phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc thứ nhất: Các NH cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn
để trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm RRTD, rủi ro
thị trường và rủi ro tác nghiệp (Trụ cột 1). Theo đó, cách tính chi phí vốn đối
với RRTD có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị trường nhưng hoàn
toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp.
Phạm Thùy Linh Tài chính – Ngân hàng 46Q
25