Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hoa gạo chữa sưng vú sau sinh pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.85 KB, 5 trang )






Hoa gạo chữa sưng vú sau sinh


Hoa gạo vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt lợi thấp, giải độc chỉ
huyết, thường dùng để trị tiết tả đặc biệt chữa sưng vú sau sinh.
Cây hoa gạo còn được gọi là mộc miên, cổ bối, ban chi hoa, anh hùng thụ… Cây
cao tới 15m hoặc hơn; cành mọc ngang với những gai hình nón; lá kép chân vịt, 5 -
8 lá chét hình mác hay hình trứng, dài 9 - 15cm, rộng 4 - 5cm. Vào mùa xuân, khi
lá gạo rụng hết cũng là lúc hoa gạo bắt đầu nở; hoa màu đỏ tươi.
Vỏ thân có chứa nhiều chất nhầy; hoa chứa 85,66% nước, 1,38% chất đạm,
11,95% chất đường, 1,09% chất khoáng; hạt chứa 25% tinh dầu. Kết quả nghiên
cứu thực nghiệm cho thấy: nước sắc hoa gạo có tác dụng ức chế trực khuẩn lỵ
mạnh hơn so với Chloromycetine và Berberine.

Theo dược học cổ truyền, vỏ cây gạo vị cay, tính bình, có công dụng thanh nhiệt
lợi thấp, hoạt huyết tiêu thũng, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như
viêm loét dạ dày, đi lỏng, kiết lỵ, đau khớp cổ chân và khớp gối, viêm loét ngoài
da, chấn thương…
Hoa gạo vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt lợi thấp, giải độc chỉ huyết,
thường dùng để trị tiết tả (đi lỏng), lỵ tật (kiết lỵ), băng huyết, sang độc (viêm loét,
nhọt độc), xuất huyết do chấn thương….
Rễ gạo vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt lợi thấp, thu liễm chỉ huyết (giải
nhiệt và thấp trong cơ thể, cầm máu và thu sáp, băng se vết thương), thường được
dùng để chữa viêm loét dạ dày, xích lỵ (kiết lỵ phân có máu), loa lịch (lao hạch),
sản hậu nhũ thũng (sưng vú sau khi sinh con)…
Trong các y thư cổ như Bản thảo cương mục, Bản thảo cầu nguyên, Sinh thảo dược


tính bị yếu, Lĩnh Nam thái dược lục, Hồng nghĩa giác tư y thư, Hải Thượng y tông
tâm lĩnh…, các bộ phận của cây gạo đều được sử dụng để làm thuốc với những
kiến giải khá độc đáo.

Hoa gạo.
Một số cách dùng cây hoa gạo chữa bệnh
Ho khạc nhiều đờm do phế nhiệt: Hoa gạo 15g, ngư tinh thảo (rau diếp cá) 15g,
tang bạch bì 10g, sắc uống.
Viêm loét dạ dày: Rễ, hoa hoặc vỏ thân cây gạo 15 - 30g sắc uống, hoặc rễ, hoa
hoặc vỏ thân cây gạo 30g, rễ cây lưỡng diện châm (Zanthoxylum nitidum) 6g, sắc
uống.
Lỵ trực khuẩn, đi lỏng, đại tiện ra máu: Hoa gạo 60g, sắc kỹ, chế thêm một chút
mật ong hoặc đường phèn, chia uống vài lần trong ngày, hoặc hoa gạo 15g, kim
ngân hoa 15g, phượng vĩ thảo (cỏ seo gà) 15g, sắc uống hoặc hoa gạo 15 - 30g sắc
kỹ, chia uống 3 lần trong ngày.
Sưng đau vú sau khi sinh con: Rễ hoặc vỏ thân cây gạo 15 - 30g sắc uống.
Viêm khớp mạn tính, đau lưng và đau gối mạn tính: Rễ gạo 30 - 60g, sắc hoặc
ngâm rượu uống, hoặc vỏ thân cây gạo 15g sắc kỹ, bỏ bã, chế thêm một chút rượu
vang, chia uống 2 lần trong ngày.
Sưng nề do chấn thương: Vỏ thân hoặc rễ cây gạo ngâm rượu xoa ngoài hoặc giã
nát đắp vào vị trí tổn thương, hoặc vỏ thân cây gạo 100g, củ nghệ vàng (già) 100g,
vỏ gạo cạo bỏ vỏ bẩn ở ngoài, băm nhỏ, giã nát với nghệ thái mỏng, dùng giấm
thanh và rượu cho vào sao rồi chườm hoặc đắp vào vết thương khi còn nóng.
Đau răng: Vỏ thân cây gạo 20g sắc đặc, ngậm nhiều lần trong ngày.

×