Lược sử Việt Nam tóm tắt
Last Updated on Thứ Ba, 18 Tháng Giêng 2011
20:31 Thứ Tư, 06 Tháng Chín 2006 23:02
THỜI KỲ DỰNG NƯỚC
Vào thế kỷ thứ 7đến thế kỷ thứ 6 trước
Công Nguyên, 15 bộ lạc sinh sống tại
vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã,
miền bắc Việt Nam ngày nay thống nhất
lập nên nước Văn Lang, nhà nước đầu
tiên của người Việt. Kinh đô đóng tại
Phong Châu (Vĩnh Phú ngày nay). Vua
nước Văn Lang, tất cả 18 đời, đều
xưng là Hùng Vương.
Thế kỷ thứ 2 trước CN, sau cuộc kháng
chiến chống lại quân Tần Thủy Hoàng
(218-208), nhà nước phong kiến Trung
Quốc ở phương Bắc, Thục Phán lên
làm vua nước Văn Lang xưng là An
Dương Vương và đổi tên nước thành
Âu Lạc, xây thành ốc ở Cổ Loa (Đông
Anh - Hà Nội) làm kinh đô.
THỜI KỲ BỊ PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC
ĐÔ HỘ
Năm 179 trước CN, nước Âu Lạc bị
nước Nam Việt của Triệu Đà xâm lược.
(Triệu Đà là tướng quân của nhà Tần.
Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, ông ta
nhân cơ hội chiếm phần đất do mình
được giao cai quản ở phía nam nước
Tần lập nên nước Nam Việt. Còn nhà
Tần thì bị nhà Hán thay thế.) Nước Âu
Lạc bị đô hộ mở đầu cho thời kỳ lịch sử
đen tối, đau thương, đầy uất hận dài
đằng đẵng hơn 1000 năm của dân tộc
Việt. Nước Âu Lạc bị sáp nhập thành
các quận, huyện của các nhà nước
phong kiến phương Bắc (qua các triều
đại Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống,
Tề, Lương, Tùy, Đường của Trung
Quốc). Trong thời gian này, tuy bị cai trị,
bóc lột tàn nhẫn, hà khắc nhưng nhân
dân ta vẫn không những chẳng khi nào
chịu khuất phục mà còn liên tục vùng
lên đấu tranh nhằm giành lại độc lập tự
chủ, chống bị Hán hóa.
Sau CN, năm 40, Hai Bà Trưng khởi
nghĩa ở Mê Linh. Cuộc khởi nghĩa giành
thắng lợi. Nhưng chỉ 3 năm sau. Đất
nước lại bị rơi vào tay nhà Hán.
Nhiều cuộc khởi nghĩa lại dậy lên sau đó.
Năm 248, khởi nghĩa Bà Triệu chống
quân Ngô thất bại.
Năm 542, Lý Bí khởi nghĩa thành công,
giành lại đuợc độc lập từ tay nhà
Lương, xưng là Lý Nam Đế, lập ra nước
Vạn Xuân với mong muốn đất nước mãi
mãi trường tồn.
Năm 545, nhà Lương đem quân sang
xâm lược nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế
thua trận liên tục phải rút về động Khuất
Lão. Tại đây ông bị bệnh chết. Triệu
Quang Phục lên thay. Triệu Quang Phục
lui quân về đầm Dạ Trạch thực hiện
chiến tranh du kích. Cuối cùng năm 550,
Triệu Quang Phục mới giành được thắng
lợi, khôi phục nước Vạn Xuân, tự xưng là
Triệu Việt Vương. Đến năm 571, Triệu
Quang Phục bị Lý Phật Tử cướp ngôi.
Năm 602-603, Lý Phật Tử không chống
được cuộc xâm lược của giặc, nước ta
lại rơi vào tay nhà Tùy, rồi nhà Đường.
Năm 722, Mai Thúc Loan phất cờ khởi
nghĩa. Thất bại.
Năm 905, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa
giành được chính quyền. Nhà Đường
công nhận chính quyền tự chủ của ông.
Năm 930, quân Nam Hán sang xâm
lược nước ta. Nam Hán là một nước do
Luu Ẩn, tướng của nhà Hậu Lương cát
cứ vùng đất Hoa Nam mà mình được
nhà Lương giao cho cai quản thành lập
(nhà Lương cướp ngôi nhà Đường vào
năm 907). Người đứng đầu nước ta lúc
đó là Khúc Thừa Mỹ không chống lại
được, bị bắt sang Nam Hán. Các tướng
lĩnh của họ Khúc tổ chức nhiều cuộc
kháng chiến.
Năm 931, cuộc kháng chiến do Dương
Đình Nghệ lãnh đạo thành công. Ông
được tôn làm Tiết Độ Sứ.
Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương
Đình Nghệ cướp quyền lãnh đạo. Ngô
Quyền là con rể Dương Đình Nghệ khởi
binh trừng phạt. Kiều Công Tiễn cầu
cứu nước Nam Hán và dĩ nhiên vua
Nam Hán vui vẻ nhận lời.
Năm 938, quân Nam Hán do thái tử
Hoằng Tháo kéo sang nước ta theo
đường thủy định phối hợp với Kiều
Công Tiễn đánh bại Ngô Quyền. Nhưng
Hoằng Tháo chưa đến nơi thì Ngô
Quyền đã diệt được Kiều Công Tiễn và
bố trí trận địa chờ sẵn. Khi quân Nam
Hán lọt vào trận địa mai phục của Ngô
Quyền ở cửa sông Bạch Đằng thì bị
đánh cho tan tác. Hoằng Tháo chết trận,
quân Nam Hán tháo chạy về nước. Vua
Nam Hán bỏ mộng xâm lược.
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương,
dựng kinh đô tại Cổ Loa. Mở ra thời kỳ
độc lập tự chủ hòan toàn cho nước ta
sau hơn 1000 năm bị đô hộ bởi phong
kiến phương bắc.
Năm 944, Ngô Quyền chết. Tình hình
đất nước rơi vào cảnh hỗn lọan, tranh
dành quyền lực giữa các phe phái
tướng lĩnh và con của Ngô Quyền (Ngô
Xương Ngập, Ngô Xương Văn).
Năm 965, vị vua cuối cùng của triều
Ngô là Ngô Xương Văn chết, các tướng
lĩnh địa phương thi nhau cát cứ. Đất
nước bị chia cắt thành 12 sứ quân.
THỜI KỲ CÁC NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN
VIỆT NAM
Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất
được 12 sứ quân. Do ông đánh đâu
thắng đấy nên đuợc dân chúng tôn là
Vạn Thắng Vương. Năm 968, Vạn
Thắng Vương lên ngôi Hòang Đế xưng
là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại
Cồ Việt, kinh đô đóng tại Hoa Lư.
Năm 979, Đỗ Thích ám hại Đinh Tiên
Hoàng cùng con là Đinh Liễn. Triều thần
bắt giết Đỗ Thích, lập Đinh Toàn, 5 tuổi,
lên làm vua. Thái hậu Dương Vân Nga
nhiếp chính, quyền phụ chính được giao
cho Lê Hoàn. Lúc này, nhà Tống thấy
tình hình nước ta rối ren, vua còn nhỏ
tuổi như vậy thì cho đó là cơ hội trời cho
để thôn tính bèn giao Hồ Nhân Bảo xua
quân xâm lược. Được tin, Thái Hậu
Dương Vân Nga cùng triều thần nhất trí
nhường ngôi báu cho Lê Hòan để ông
có được tòan quyền mà dốc sức chống
Tống.
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi xưng là Đại
Hành Hoàng Đế (Lê Đại Hành). Ông
gấp rút tổ chức lại bộ máy hành chính,
chỉnh đốn quân đội chuẩn bị nghênh
chiến.
Năm 981, quân Tống ồ ạt tấn công Đại
Cồ Việt theo cả hai đường thủy, bộ. Nhờ
chuẩn bị tốt, và tài mưu lược. Lê Hoàn
đánh bại quân Tống, giữ yên bờ cõi.
Năm 1005, Lê Hòan chết, các con của
ông tranh nhau giành ngôi báu. Lê Long
Đĩnh thắng lên làm vua (Lê Ngọa Triều).
Ông vua này rất thích bạo lực, sa đọa
và trụy lạc nên không đựơc lòng dân
chúng.
Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết. Được sự
ủng hộ của nhiều người, Lý Công Uẩn
tự xưng vua (Lý Thái Tổ) lập ra triều đại
nhà Lý kéo dài 216 năm với 9 đời vua
(Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh
Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý
Anh Tông, Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông
và Lý Chiêu Hòang).
Năm 1010, Lý Thái Tổ dời kinh đô về
thành Đại La. Sau đổi tên thành Thăng
Long (Hà Nội ngày nay).
Năm 1072, Lý Nhân Tông lên ngôi khi
mới 6 tuổi. Nhà Tống bên Trung Quốc
cho là cơ hội tốt chuẩn bị lương thảo có
ý xâm lược nước ta. Vì vua còn nhỏ nên
quan phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt
nắm trọn binh quyền.
Năm 1075, Lý Thường Kiệt chủ trương
"đánh phủ đầu" quân Tống để tự vệ
trước bèn tập trung 10 vạn quân thủy bộ
chia làm hai đường đánh sang đất Tống
với mục đích phá hủy các kho dữ trữ
lương thảo hậu cần nằm ở Ung Châu và
Khâm Châu, Liêm Châu mà nhà Tống
đang chuẩn bị để phục vụ cho cuộc xâm
lược nước ta. Quân Thủy đánh Khâm
Châu, quận bộ đánh Ung Châu. Bị bất
ngờ nên quân Tống thua liên tiếp. Nửa
tháng sau chính quyền Tống ở trung
ương mới biết được tin. Vua Tống lập
tức chuẩn bị đại binh dự định đánh
thẳng vào nước ta để giải vây.
Năm 1076, tháng 3, sau sáu tháng tiến
công, quân ta đã đạt được mục đích và
rút về nước cũng là đề phòng bị đánh
úp. Khi đó, đại binh quân Tống còn
chưa kịp lên đường.
Năm 1076, tháng 8, sau khi củng cố lực
lượng, nhà Tống đem 30 vạn quân chia
hai đường thủy, bộ bắt đầu xâm lược
nước ta và cũng là để trả thù cho sự
kiện ở trên. Lý Thường Kiệt chọn địa
điếm quyết chiến tại sông Như Nguyệt,
xây dựng phòng tuyến phòng thủ tại bờ
nam chờ giặc.
Năm 1077, tháng 1, quân Tống đến
phòng tuyến Như Nguyệt và bị chặn
đứng ở đó. Thế trận giằng co kéo dài,
binh Tống ngày một hao tổn do thiếu
lương thực vũ khí vì bị quân ta đánh du
kích. cuối cùng quân Tống phải chấp
nhận giảng hòa rút quân về. Triều Lý bắt
tay xây dựng đất nước và bước vào thời
kỳ hưng thịnh.
Từ 1138, triều Lý có dấu hiệu suy yếu
do các vua đều lên ngôi khi còn nhỏ
tuổi, bị chết yếu, quyền hành rơi vào
tay ngọai tộc vốn lắm kẻ gian tham, bất
tài, hại dân. Vào cuối triều nhà Lý, các
quý tộc quan lại họ Trần nổi lên là một
thế lực lớn có công giúp nhà Lý bình
định thiên hạ.
Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi
cho con gái là Lý Chiêu Hoàng, 7 tuổi.
Quyền bính nằm cả trong tay quan điện
tiền Trần Thủ Độ.
Năm 1226, dưới sức ép của Trần Thủ
Độ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho
chồng mình là Trần Cảnh (Trần Thái
Tông), cháu của Trần Thủ Độ, khi ấy
cũng mới 8 tuổi. Quyền hành vẫn trong
tay Trần Thủ Độ với địa vị Thái Sư. Trần
Thủ Độ tìm mọi cách để "nhổ sạch rễ"
họ nhà Lý, củng cố địa vị cho họ Trần.
Nhà Lý kết thúc ở đây.
Những việc làm của Trần Thủ Độ gây nên
một cuộc khủng hoảng chính trị, gây nhiều
bất bình trong dân chúng. Thậm chí còn
gây nên mâu thuẫn lớn giữa một số người
trong họ Trần. Tuy nhiên, thế lực của Trần
Thủ Độ quá lớn nên mọi việc cuối cùng
cũng êm xuôi. Triều đại nhà Trần dần phát
triển và kéo dài 175 năm qua 12 đời vua
(Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần
Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh
Tông, Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông,
Dương Nhật Lễ, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ
Tông, Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông, Trần
Thiếu Đế). Triều Trần hưng thịnh nhất sau
khi 3 lần đánh tan quân xâm lược Mông
Nguyên(Trung Quốc).
Năm 1258, quân Mông Cổ xâm lược
nước Đại Việt của nhà Trần. Khi ấy
Mông Cổ là một đại đế quốc lớn nhất
thế giới trong lịch sử có lãnh thổ bao
gồm khỏang 40 nước trải dài từ bờ Thái
Bình Dương cho tới Trung
Đông, Đông Âu và vẫn tiếp tục bành
trướng. "Vó ngựa Mông Cổ đi tới đâu,
nơi ấy cỏ cây không mọc được". Lần
xâm lược Đại Việt này nằm trong kế
họach bành trướng xuống phía Nam
của Đại hãn Mông Cổ lúc đó là Mông
Kha (Mong Ke).
Quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai
chỉ huy chia làm nhiều cánh tràn vào Đại
Việt tới Bạch Hạc (Vĩnh Phú ngày nay) thì
hợp lại cùng tiến về Thăng Long. Vua Trần
Thái Tông và các tướng lĩnh lần đầu ra
quân gặp cường địch, non kinh nghiệm đối
phó với kỵ binh Mông Cổ nên liên tiếp thua
trận phải thi hành kế sách bỏ Thăng Long
vườn không nhà trống rút về phía Nam bảo
tòan lực lượng chờ thời cơ, đồng thời để
một số quân ở lại kết hợp với dân chúng
quanh vùng đánh du kích. Quân Mông Cổ
vào đến Thăng Long không cuớp bóc được
nhiều của cải lương thực để nuôi quân lại
không quen khí hậu nên sinh bệnh, mệt
mỏi, rối loạn đội ngũ, nhụt nhuệ khí chiến
đấu. Một đêm, Vua Trần bất ngờ tổ chức
tập kích doanh trại quân giặc. Quân Mông
Cổ hốt hoảng không kịp phản ứng giày xéo
nhau mà chạy, bị giết rất nhiều. Đại quân
Trần truy sát lại thêm phục binh quân Trần
đổ ra chặn đánh khắp nơi, quân Mông Cổ
chạy về Vân Nam (Trung Quốc) mà không
có thời gian dừng lại giết cướp. Chỉ trong
vòng chưa đầy nửa tháng Đại Việt sạch
bóng quân Mông Cổ. Chúng chỉ ở Thăng
Long vỏn vẹn được 9 ngày.
Đầu năm 1285, quân Nguyên sang xâm
lược nước ta. Nhà Nguyên bên Trung
quốc là do Hốt Tất Liệt, em trai của đại
hãn Mông Cổ Mông Kha, diệt nước
Tống, độc chiếm Trung Quốc dựng nên.
Vì vậy ta hay gọi quân Nguyên
là Nguyên Mông hay Mông Nguyên.
50 vạn quân Nguyên chia làm 3 đường tiến
chiếm Đại Việt. Đích thân con trai Hốt Tất
Liệt, thái tử Thoát Hoan, chỉ huy hai đạo
quân bộ từ hai hướng đông bắc, tây bắc
Đại Việt đánh xuống, đạo quân thủy do Toa
Đô từ nước Chiêm Thành (sau khi lập nhà
Nguyên, Hốt Tất Liệt đã sai Toa Đô đánh
Chiêm Thành trước), phía nam Đại Việt
đánh lên. Quân nhà Trần bị kẹp vào giữa.
Vua Trần lúc này là Trần Nhân Tông cử
Trần Quang Khải làm Thượng Tướng Thái
Sư, Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết
Chế thống lĩnh ba quân chống giặc.
Quốc Công Tiết Chế đem quân chặn đánh
quân bộ phía đông của Thoát Hoan trước.
Trần Nhật Duật thì chặn cánh quân phía
Tây do Nạp Tốc Lạt Dinh chỉ huy. Trước thế
giặc mạnh, vua tôi nhà Trần vừa đánh vừa
rút lui chiến thuật. Quân Nguyên cứ thế
chiếm Nội Bàng, Vạn Kiếp Khi quân
Nguyên tới Thăng Long thì vua Trần đã rút
về Thiên Trường (Nam Định) bỏ lại kinh
thành trống không như lần kháng Mông Cổ
lần trước. Về Thiên Trường, Trần Quốc
Tuấn cử Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải
trấn giữ Hoan Châu (Nghệ An) chặn đường
tiến quân Toa Đô. Khi Thoát Hoan chiếm
Thăng Long thì Trần Quốc Tuấn lại kéo
quân ra lấy lại Vạn Kiếp đánh sau lưng
Thoát Hoan. Thoát Hoan bị vây liền cho
người về nước xin thêm binh cứu viện. Lúc
đó, ở phía Nam, Trần Nhật Duật rồi Trần
Quang Khải không ngăn được Toa Đô. Khi
Toa Đô tiến vào đến Ái Châu (Thanh Hóa),
Vua Trần công kích Thóat Hoan ở Thăng
Long nhưng không được lại lui về Thiên
Trường. Thoát Hoan đuổi theo. Trần Quốc
Tuấn phải đem quân từ Vạn Kiếp về Thiên
Trường rồi cùng Vua Trần rút ra phía Hải
Dương. Thoát Hoan đuổi theo sát gót.
Đồng thời Toa Đô cũng kéo quân thủy theo
đường biển từ Ái Châu ra đuổi theo. Trần
Quốc Tuấn sử dụng kế nghi binh dụ quân
Nguyên đuổi theo Vua Trần ra đường biển
còn mình đưa vua Trần thoát vào Ái Châu
theo đường bộ, thóat hiểm trong tíc tắc
Thời tiết bắt đầu sang hè, nắng nóng và lụt
lội làm cho quân Nguyên vốn chỉ quen khí
hậu lạnh ở phương bắc bị bệnh dịch rất
nhiều, lương thực lại cạn kiệt nên giảm sức
chiến đấu. Trần Quốc Tuấn chỉ chờ cơ hội
như vậy để phản công. Ông cử Trần Quang
Khải, Trần Nhật Duật , Trần Quốc Tỏan,
Nguyễn Khoái, chặn đánh quân thủy của
Toa Đô ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương
Dương Đích thân Trần Quốc Tuấn thì
đánh lên Vạn Kiếp. Quả nhiên quân
Nguyên thất thế. Toa Đô rút về Thiên
Trường. Quân ở Vạn Kiếp chạy cả về
Thăng Long. Liên lạc giữa hai cánh thủy bộ
của quân Nguyên bị quân Trần cắt đứt.
Quân Trần tập trung đánh Thăng Long.
Thoát Hoan thua to, bỏ thành rút chạy về
Bắc Ninh. Khi Toa Đô kéo lên Thăng Long
định hội quân với Thoát Hoan thì Thóat
Hoan đã chạy rồi . Toa Đô lui về đóng ở
Tây Kết. Đến đây, Toa Đô bị đại quân của
vua Trần bắn chết, Nguyên quân bị đánh
tan tác chết vô số kể. Các tướng Ô Mã Nhi,
Lưu Khuê dắt tàn quân chạy vào Ái Châu.
Quân Trần truy đánh rất rát cuối cùng Ô Mã
Nhi, Lưu Khuê phải bỏ thuyền tướng lấy
thuyền nhỏ tháo chạy ra biển về nước,
quân Trần bắt sống được vài vạn tàn quân.
Phía Thóat Hoan, sau khi về Bắc Ninh lại bị
quân Trần đón đánh thì chạy sang Vạn
Kiếp nhưng ở đây Trần Quốc Tuấn cũng đã
bố trí sẵn quân mai phục. Giữa lúc quân
Nguyên đang vượt sông Thương, quân
Trần đổ ra đánh. Quân Nguyên chết vô số
kể. Thoát Hoan cùng bộ tướng Lý Hằng
gom tàn quân chạy về nước. Tới biên giới
thuộc Lạng Sơn, quân Trần phục sẵn trên
núi bắn tên xuống như mưa, Lý Hằng trúng
tên độc chết liền. Thoát Hoan được hộ
tướng giấu vào một vật dụng bằng đồng bỏ
lên xe cho lính kéo chạy nhờ vậy sống sót,
chạy thoát về nước. Đại Việt sạch bóng
quân Nguyên.
Cuối năm 1287, Hốt Tất Liệt gom 30 vạn
quân giao Thoát Hoan chỉ huy thẳng tiến
Đại Việt để báo thù. Lần này quân
Nguyên cũng chia làm 3 đạo: Thoát
Hoan tiến vào qua ngả Lạng Sơn, Ai
Lỗ vào theo hướng dọc sông Lô (sông
Hồng ngày nay), Ô Mã Nhi theo đường
biển vào sông Bạch Đằng, ngòai ra còn
có đoàn thuyền lương thực do Trương
Văn Hổ chỉ huy đi sau Ô Mã
Nhi. Các cánh quân Nguyện hẹn hội
quân tại Vạn Kiếp.
Quân Trần tổ chức đánh chặn nhưng cũng
như lần trước. Quân Nguyên lúc này còn
hăng hái nên tiến được vào đến Vạn Kiếp
tuy bị tổn thất chút ít. Ô Mã Nhi có lẽ nóng
lòng báo thù nên tung tăng đi trước bỏ
đoàn thuyền lương nặng nề của Trương
Văn Hổ khá xa. Khi Ô Mã Nhị họp quân với
Thóat Hoan ở Vạn Kiếp thì đòan thuyền
lương còn ở ngòai biển. Sau đó thì bị Trần
Khánh Dư đánh chìm toàn bộ ở Vân Đồn.
Thoát Hoan và Ô Mã Nhi trong đất liền
không hề hay biết.
Tại Vạn Kiếp, Thoát Hoan chỉnh đốn đội
ngũ tấn công Thăng Long. Trần Quốc Tuấn
lại để thành Thăng Long vườn không nhà
trống. Thoát Hoan vào Thăng Long không
bắt được vua Trần liền sai Ô Mã Nhi gấp rút
đuổi bắt. Không đuổi kịp, Ô Mã Nhi trút bực
tức bằng cách cho quân cuớp bóc dân
chúng, đốt phá nhà cửa, chùa chiền, đào
bới lăng mộ vua Trần Cảnh,
Không ở được Thăng Long, Thoát Hoan
cho quân lui về Bắc Giang, Vạn Kíếp sai Ô
Mã Nhi ra biển tìm đoàn thuyền lương của
Trương Văn Hổ. Ô Mã Nhi ra đến cửa biển
Đại Bàng (Hải Phòng) thì bị đánh tơi bời.
Quân Trần bắt được 300 chiến thuyền. Ô
Mã Nhi quay về Vạn Kiếp. Vua Trần cho
người mang theo tù binh bắt được của
đoàn thuyền lương sang trại Thoát Hoan
thông báo đoàn thuyền lương Trương Văn
Hổ đã bị diệt rồi. Tin đó làm quân Nguyên lo
sợ vì lương thực đã hết. Cùng lúc quân
Trần phản công ở khắp nơi. Sợ nguy, Thoát
Hoan vội bàn với các tướng rút quân về
nước. Tất cả tướng Nguyên đều đồng ý.
Thoát Hoan rút theo đường bộ theo ngả
Lạng Sơn, Ô Mã Nhi rút theo sông Bạch
Đằng. Nhưng Trần Quốc Tuấn đã cho quân
mai phục tất cả mọi nẻo đường rút chạy. Ô
Mã Nhi, cùng bộ tướng là Phàn Tiếp lọt vào
trận địa bãi cọc ở cửa sông Bạch Đằng, bị
bắt sống, máu quân Nguyên nhuộm đỏ
nước sông. Trên bộ, Thoát Hoan cũng bị
chặn đánh nhiều trận. Xác quân Nguyên
trải dài từ Vạn Kiếp tới biên giới Lạng Sơn.
Cuối tháng 4/1288, Thoát Hoan mới về
được châu Tư Minh (Quảng Tây, Trung
Quốc). Đại Việt lại sạch bóng giặc ngoại
xâm.
Sau chiến thắng quân Mông Nguyên lần
thứ 3, Đại Việt có được một thời gian dài ổn
định và phát triển hưng thịnh. Nhưng từ đời
vua Trần Dụ Tông trở đi thì nước Đại Việt
đã có nhiều biểu hiện suy thoái. Vua quan
bất tài, ăn chơi, sa đọa. Ngôi báu nhà Trần
đã có lúc rơi vào tay ngọai tộc, giặc giã nỗi
lên như nấm, các nước lân cận đều mang
quân tràn sang cướp phá…Từ đời vua Trần
Nghệ Tông trở đi, Hồ Quý Ly nổi lên là một
nhà chính trị có tài và được trọng dụng.
Nhờ đó nhân buổi rối ren, suy thoái của
nhà Trần, Hồ Quý Ly đọat được ngôi báu.
Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi vua, lấy
niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi tên
nước Đại Việt thành Đại Ngu, và tiến
hành nhiều cuộc cải cách lớn, trong đó
có việc đổi tiền đồng sang tiền giấy
“thông bảo hội sao”. Tuy nhiên không
phải cuộc cải cách nào cũng được lòng
dân chúng.
Năm 1406, nhà nước phong kiến bên Trung
Quốc lúc này là nhà Minh cử các tướng
Mộc Thạnh, Trương Phụ,… đem quân xâm
lược nước Đại Ngu. Quân quan nhà Hồ
chống cự quyết liệt nhưng vì Đại Ngu lúc đó
chưa ổn định, nhà Hồ chưa được dân
chúng ủng hộ,… nên cuối cùng quân Minh
đập tan sức kháng cự của quân Hồ. Hồ Quý
Ly cùng con trai và nhiều tướng bị bắt giải
sang Trung Quốc. Nhà Minh nhập Đại Ngu
thành quận Giao Chỉ của họ. Lúc đó nhân
dân Đại Ngu mới bắt đầu khởi nghĩa ở
nhiều nơi. Hic.
Năm 1407, Trần Ngỗi rồi Trần Quý Khoáng
là quý tộc tôn thất nhà Trần, tiến hành khởi
nghĩa chống quân Minh. Ban đầu cũng
giành được một số thắng lợi đáng kể nhưng
sau đó trong nội bộ mất đoàn kết nên nghĩa
quân suy yếu và bị dập tắt vào năm 1412.
Năm 1418, sau khi quy tụ được nhiều hào
kiệt khắp nơi trong nước, trong đó có
Nguyễn Trãi, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại
núi Lam (thuộc Thanh Hóa ngày nay). Ban
đầu lực lượng nghĩa quân còn yếu, chừng
vài nghìn người, nhưng cũng dùng mưu
thắng được nhiều trận lớn gây thanh thế
như ở Lạc Thủy, Mường Một Quân Minh
tăng cường đàn áp với sự giúp đỡ của
nhiều kẻ bán nước, chỉ điểm nên có lúc
chúng đẩy nghĩa quân lâm vào tình trạng
hiểm nghèo. Ba lần nghĩa quân phải trốn
lên núi Chí Linh, chịu cảnh đói khát, thiếu
thốn trăm bề. Ở lần thứ hai rút lên núi Chí
Linh, năm 1419, nhờ 500 quân cảm tử do
Lê Lai dẫn đầu đánh xông ra, mạo danh Lê
Lợi để cho giặc bắt giết nên nghĩa quân mới
được bảo tòan xuống núi. Nghĩa quân Lê
Lợi chiến đấu như vậy ròng rã mấy năm trời
cho đến năm 1424 thì mới tạo nên chuyển
biến có lợi cho mình.
Đầu năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn đã
giành lại phần lớn đất nước, dồn quân Minh
vào cố thủ trong 4 thành Đông Quan (Thăng
Long), Chí Linh, Cổ Lộng, Tây Đô. Tướng
quân Minh lúc đó là Vương Thông phải cho
người về nước xin viện Binh. Tuy nhiên, cả
hai cánh quân cứu viện, với số quân 15
vạn, do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy
đều bị quân Lê Lợi tiêu diệt ngay tại cửa ải.
Liễu Thăng bị chém đầu tại trận ở ải Chi
Lăng. Mộc Thạnh hay tin thì đang đêm
mang quân chạy về nước nhưng cũng bị
phục đánh tơi bời. Quân Lê Lợi giết được
hàng nghìn lính, thu nhiều ngựa và vàng
bạc, khí giới. Ngày 10/12/1427, túng quẫn
vì bị vây mà không có viện binh, quân Minh
đang cổ thủ trong các thành đều ra hàng.
Lê Lợi tha cho 10 vạn giặc Minh và còn cấp
đủ lương thực cho chúng, sửa cầu đường
cho chúng rút về nước. Cả bọn đều bái lạy.
Đầu năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi
Hoàng Đế ở thành Đông Kinh (Thăng Long)
khôi phục tên nước Đại Việt mở đầu triều
đại nhà Lê. (Gọi là nhà hậu Lê để phân biệt
với nhà tiền Lê của Lê Đại Hành trước kia).
Nhà hậu Lê phát triển ổn định và đại nhiều
thành tựu lớn trong xây dựng đất nước qua
năm đời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Lê Thái Tông,
Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông.
Đến đời vua Lê Uy Mục thì bắt đầu xuống dốc.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung ép Lê Cung Hoàng
nhường ngôi vua cho mình. Trước đó, ông ta
cậy có nhiều công nên lạm quyền, kết bè cánh
và đã phế truất ngôi của Lê Chiêu Tông giao
cho Lê Cung Hoàng. Nhà Mạc thành hình. Ở
trong nước là thế nhưng khi lên ngôi, Mạc
Đăng Dung lại hèn kém trong ngọai giao với
nhà Minh, nhún nhường nhận chức An Nam đô
thống sứ do vua Minh “trao tặng” khiến nhân
dân và nhiều quan lại phẫn nộ.
Năm 1530, Lê Ý ở Thanh Hóa nổi quân chống
lại nhà Mạc.
Năm 1532, Nguyễn Kim tôn con của Lê Chiêu
Tông lên làm vua (Lê Trang Tông), đóng ở
Thanh Hóa, nhiều quan lại của cũ của nhà Lê
cũng theo về phò tá tạo nên một triều đình mới
đối lập với nhà Mạc ở phía bắc. Đại Việt lúc đó
vì thế có hai triều đình ở hai miền nam, bắc.
Sau khi Nguyễn Kim chết (1546), vua Lê phong
con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay. Trịnh
Kiểm tiến hành lọai trừ phe cánh của Nguyễn
Kim để tập trung quyền lực vào tay mình. Các
con của Nguyễn Kim, Nguyễn Uông bị bắt giết,
Nguyễn Hoàng lo sợ nên tìm cách lánh bằng
cách xin trấn giữ ở vùng Thuận Hóa. Trịnh
Kiểm thuận ý cho vào. Họ Nguyễn vào vùng đó
ngấm ngầm có ý lập nên “vương quốc” riêng
của mình chống lại họ Trịnh nhưng bên ngoài
vẫn tỏ về thuần phục, giúp họ trịnh chống họ
Mạc.
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết. Trịnh Tùng thay.
Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh bại nhà
Mạc ở Thăng Long, thống nhất đất nước, nhà
Lê khôi phục, vua Lê bấy giờ là Lê Thế Tông.
Tuy nhiên vua Lê chỉ là cái bóng. Họ Trịnh lập