Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Lịch sử Việt Nam tóm tắt - THỜI KỲ CÁC NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN VIỆT NAM pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.15 KB, 22 trang )

Lịch sử Việt Nam tóm tắt
THỜI KỲ CÁC NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN VIỆT NAM


Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất được 12 sứ quân. Do ông đánh đâu
thắng đấy nên đuợc dân chúng tôn là Vạn Thắng Vương. Năm 968, Vạn
Thắng Vương lên ngôi Hòang Đế xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là
Đại Cồ Việt, kinh đô đóng tại Hoa Lư.
Năm 979, Đỗ Thích ám hại Đinh Tiên Hoàng cùng con là Đinh Liễn. Triều
thần bắt giết Đỗ Thích, lập Đinh Toàn, 5 tuổi, lên làm vua. Thái hậu Dương
Vân Nga nhiếp chính, quyền phụ chính được giao cho Lê Hoàn. Lúc này,
nhà Tống thấy tình hình nước ta rối ren, vua còn nhỏ tuổi như vậy thì cho đó
là cơ hội trời cho để thôn tính bèn giao Hồ Nhân Bảo xua quân xâm lược.
Được tin, Thái Hậu Dương Vân Nga cùng triều thần nhất trí nhường ngôi
báu cho Lê Hòan để ông có được tòan quyền mà dốc sức chống Tống.
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi xưng là Đại Hành Hoàng Đế (Lê Đại Hành).
Ông gấp rút tổ chức lại bộ máy hành chính, chỉnh đốn quân đội chuẩn bị
nghênh chiến.
Năm 981, quân Tống ồ ạt tấn công Đại Cồ Việt theo cả hai đường thủy, bộ.
Nhờ chuẩn bị tốt, và tài mưu lược. Lê Hoàn đánh bại quân Tống, giữ yên bờ
cõi.
Năm 1005, Lê Hòan chết, các con của ông tranh nhau giành ngôi báu. Lê
Long Đĩnh thắng lên làm vua (Lê Ngọa Triều). Ông vua này rất thích bạo
lực, sa đọa và trụy lạc nên không đựơc lòng dân chúng.
Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết. Được sự ủng hộ của nhiều người, Lý Công
Uẩn tự xưng vua (Lý Thái Tổ) lập ra triều đại nhà Lý kéo dài 216 năm với 9
đời vua (Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý
Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông và Lý Chiêu Hòang).
Năm 1010, Lý Thái Tổ dời kinh đô về thành Đại La. Sau đổi tên thành
Thăng Long (Hà Nội ngày nay).
Năm 1072, Lý Nhân Tông lên ngôi khi mới 6 tuổi. Nhà Tống bên Trung


Quốc cho là cơ hội tốt chuẩn bị lương thảo có ý xâm lược nước ta. Vì vua
còn nhỏ nên quan phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt nắm trọn binh quyền.
Năm 1075, Lý Thường Kiệt chủ trương "đánh phủ đầu" quân Tống để tự vệ
trước bèn tập trung 10 vạn quân thủy bộ chia làm hai đường đánh sang đất
Tống với mục đích phá hủy các kho dữ trữ lương thảo hậu cần nằm ở Ung
Châu và Khâm Châu, Liêm Châu mà nhà Tống đang chuẩn bị để phục vụ
cho cuộc xâm lược nước ta. Quân Thủy đánh Khâm Châu, quận bộ đánh
Ung Châu. Bị bất ngờ nên quân Tống thua liên tiếp. Nửa tháng sau chính
quyền Tống ở trung ương mới biết được tin. Vua Tống lập tức chuẩn bị đại
binh dự định đánh thẳng vào nước ta để giải vây.
Năm 1076, tháng 3, sau sáu tháng tiến công, quân ta đã đạt được mục đích
và rút về nước cũng là đề phòng bị đánh úp. Khi đó, đại binh quân Tống còn
chưa kịp lên đường.
Năm 1076, tháng 8, sau khi củng cố lực lượng, nhà Tống đem 30 vạn quân
chia hai đường thủy, bộ bắt đầu xâm lược nước ta và cũng là để trả thù cho
sự kiện ở trên. Lý Thường Kiệt chọn địa điếm quyết chiến tại sông Như
Nguyệt, xây dựng phòng tuyến phòng thủ tại bờ nam chờ giặc.
Năm 1077, tháng 1, quân Tống đến phòng tuyến Như Nguyệt và bị chặn
đứng ở đó. Thế trận giằng co kéo dài, binh Tống ngày một hao tổn do thiếu
lương thực vũ khí vì bị quân ta đánh du kích. cuối cùng quân Tống phải chấp
nhận giảng hòa rút quân về. Triều Lý bắt tay xây dựng đất nước và bước vào
thời kỳ hưng thịnh.
Từ 1138, triều Lý có dấu hiệu suy yếu do các vua đều lên ngôi khi còn nhỏ
tuổi, bị chết yếu, quyền hành rơi vào tay ngọai tộc vốn lắm kẻ gian tham,
bất tài, hại dân. Vào cuối triều nhà Lý, các quý tộc quan lại họ Trần nổi lên
là một thế lực lớn có công giúp nhà Lý bình định thiên hạ.
Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng, 7
tuổi. Quyền bính nằm cả trong tay quan điện tiền Trần Thủ Độ.
Năm 1226, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho
chồng mình là Trần Cảnh (Trần Thái Tông), cháu của Trần Thủ Độ, khi ấy

cũng mới 8 tuổi. Quyền hành vẫn trong tay Trần Thủ Độ với địa vị Thái Sư.
Trần Thủ Độ tìm mọi cách để "nhổ sạch rễ" họ nhà Lý, củng cố địa vị cho
họ Trần. Nhà Lý kết thúc ở đây.
Những việc làm của Trần Thủ Độ gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị,
gây nhiều bất bình trong dân chúng. Thậm chí còn gây nên mâu thuẫn lớn
giữa một số người trong họ Trần. Tuy nhiên, thế lực của Trần Thủ Độ quá
lớn nên mọi việc cuối cùng cũng êm xuôi. Triều đại nhà Trần dần phát triển
và kéo dài 175 năm qua 12 đời vua (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông,
Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông, Trần
Dụ Tông, Dương Nhật Lễ, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, Trần Phế Đế,
Trần Thuận Tông, Trần Thiếu Đế). Triều Trần hưng thịnh nhất sau khi 3 lần
đánh tan quân xâm lược Mông Nguyên(Trung Quốc).
Năm 1258, quân Mông Cổ xâm lược nước Đại Việt của nhà Trần. Khi ấy
Mông Cổ là một đại đế quốc lớn nhất thế giới trong lịch sử có lãnh thổ bao
gồm khỏang 40 nước trải dài từ bờ Thái Bình Dương cho tới Trung
Đông, Đông Âu và vẫn tiếp tục bành trướng. "Vó ngựa Mông Cổ đi tới đâu,
nơi ấy cỏ cây không mọc được". Lần xâm lược Đại Việt này nằm trong kế
họach bành trướng xuống phía Nam của Đại hãn Mông Cổ lúc đó là Mông
Kha (Mong Ke).
Quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy chia làm nhiều cánh tràn
vào Đại Việt tới Bạch Hạc (Vĩnh Phú ngày nay) thì hợp lại cùng tiến về
Thăng Long. Vua Trần Thái Tông và các tướng lĩnh lần đầu ra quân gặp
cường địch, non kinh nghiệm đối phó với kỵ binh Mông Cổ nên liên tiếp
thua trận phải thi hành kế sách bỏ Thăng Long vườn không nhà trống rút về
phía Nam bảo tòan lực lượng chờ thời cơ, đồng thời để một số quân ở lại kết
hợp với dân chúng quanh vùng đánh du kích. Quân Mông Cổ vào đến
Thăng Long không cuớp bóc được nhiều của cải lương thực để nuôi quân lại
không quen khí hậu nên sinh bệnh, mệt mỏi, rối loạn đội ngũ, nhụt nhuệ khí
chiến đấu. Một đêm, Vua Trần bất ngờ tổ chức tập kích doanh trại quân giặc.
Quân Mông Cổ hốt hoảng không kịp phản ứng giày xéo nhau mà chạy, bị

giết rất nhiều. Đại quân Trần truy sát lại thêm phục binh quân Trần đổ ra
chặn đánh khắp nơi, quân Mông Cổ chạy về Vân Nam (Trung Quốc) mà
không có thời gian dừng lại giết cướp. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng
Đại Việt sạch bóng quân Mông Cổ. Chúng chỉ ở Thăng Long vỏn vẹn được
9 ngày.
Đầu năm 1285, quân Nguyên sang xâm lược nước ta. Nhà Nguyên bên
Trung quốc là do Hốt Tất Liệt, em trai của đại hãn Mông Cổ Mông Kha, diệt
nước Tống, độc chiếm Trung Quốc dựng nên. Vì vậy ta hay gọi quân
Nguyên là Nguyên Mông hay Mông Nguyên.
50 vạn quân Nguyên chia làm 3 đường tiến chiếm Đại Việt. Đích thân con
trai Hốt Tất Liệt, thái tử Thoát Hoan, chỉ huy hai đạo quân bộ từ hai hướng
đông bắc, tây bắc Đại Việt đánh xuống, đạo quân thủy do Toa Đô từ nước
Chiêm Thành (sau khi lập nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt đã sai Toa Đô đánh
Chiêm Thành trước), phía nam Đại Việt đánh lên. Quân nhà Trần bị kẹp vào
giữa. Vua Trần lúc này là Trần Nhân Tông cử Trần Quang Khải làm Thượng
Tướng Thái Sư, Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế thống lĩnh ba
quân chống giặc.
Quốc Công Tiết Chế đem quân chặn đánh quân bộ phía đông của Thoát
Hoan trước. Trần Nhật Duật thì chặn cánh quân phía Tây do Nạp Tốc Lạt
Dinh chỉ huy. Trước thế giặc mạnh, vua tôi nhà Trần vừa đánh vừa rút lui
chiến thuật. Quân Nguyên cứ thế chiếm Nội Bàng, Vạn Kiếp Khi quân
Nguyên tới Thăng Long thì vua Trần đã rút về Thiên Trường (Nam Định) bỏ
lại kinh thành trống không như lần kháng Mông Cổ lần trước. Về Thiên
Trường, Trần Quốc Tuấn cử Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải trấn giữ
Hoan Châu (Nghệ An) chặn đường tiến quân Toa Đô. Khi Thoát Hoan
chiếm Thăng Long thì Trần Quốc Tuấn lại kéo quân ra lấy lại Vạn Kiếp
đánh sau lưng Thoát Hoan. Thoát Hoan bị vây liền cho người về nước xin
thêm binh cứu viện. Lúc đó, ở phía Nam, Trần Nhật Duật rồi Trần Quang
Khải không ngăn được Toa Đô. Khi Toa Đô tiến vào đến Ái Châu (Thanh
Hóa), Vua Trần công kích Thóat Hoan ở Thăng Long nhưng không được lại

lui về Thiên Trường. Thoát Hoan đuổi theo. Trần Quốc Tuấn phải đem quân
từ Vạn Kiếp về Thiên Trường rồi cùng Vua Trần rút ra phía Hải Dương.
Thoát Hoan đuổi theo sát gót. Đồng thời Toa Đô cũng kéo quân thủy theo
đường biển từ Ái Châu ra đuổi theo. Trần Quốc Tuấn sử dụng kế nghi
binh dụ quân Nguyên đuổi theo Vua Trần ra đường biển còn mình đưa vua
Trần thoát vào Ái Châu theo đường bộ, thóat hiểm trong tíc tắc
Thời tiết bắt đầu sang hè, nắng nóng và lụt lội làm cho quân Nguyên vốn chỉ
quen khí hậu lạnh ở phương bắc bị bệnh dịch rất nhiều, lương thực lại cạn
kiệt nên giảm sức chiến đấu. Trần Quốc Tuấn chỉ chờ cơ hội như vậy để
phản công. Ông cử Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật , Trần Quốc Tỏan,
Nguyễn Khoái, chặn đánh quân thủy của Toa Đô ở Tây Kết, Hàm Tử,
Chương Dương Đích thân Trần Quốc Tuấn thì đánh lên Vạn Kiếp. Quả
nhiên quân Nguyên thất thế. Toa Đô rút về Thiên Trường. Quân ở Vạn Kiếp
chạy cả về Thăng Long. Liên lạc giữa hai cánh thủy bộ của quân Nguyên bị
quân Trần cắt đứt. Quân Trần tập trung đánh Thăng Long. Thoát Hoan thua
to, bỏ thành rút chạy về Bắc Ninh. Khi Toa Đô kéo lên Thăng Long định hội
quân với Thoát Hoan thì Thóat Hoan đã chạy rồi . Toa Đô lui về đóng ở Tây
Kết. Đến đây, Toa Đô bị đại quân của vua Trần bắn chết, Nguyên quân bị
đánh tan tác chết vô số kể. Các tướng Ô Mã Nhi, Lưu Khuê dắt tàn quân
chạy vào Ái Châu. Quân Trần truy đánh rất rát cuối cùng Ô Mã Nhi, Lưu
Khuê phải bỏ thuyền tướng lấy thuyền nhỏ tháo chạy ra biển về nước, quân
Trần bắt sống được vài vạn tàn quân. Phía Thóat Hoan, sau khi về Bắc Ninh
lại bị quân Trần đón đánh thì chạy sang Vạn Kiếp nhưng ở đây Trần Quốc
Tuấn cũng đã bố trí sẵn quân mai phục. Giữa lúc quân Nguyên đang vượt
sông Thương, quân Trần đổ ra đánh. Quân Nguyên chết vô số kể. Thoát
Hoan cùng bộ tướng Lý Hằng gom tàn quân chạy về nước. Tới biên giới
thuộc Lạng Sơn, quân Trần phục sẵn trên núi bắn tên xuống như mưa, Lý
Hằng trúng tên độc chết liền. Thoát Hoan được hộ tướng giấu vào một vật
dụng bằng đồng bỏ lên xe cho lính kéo chạy nhờ vậy sống sót, chạy thoát về
nước. Đại Việt sạch bóng quân Nguyên.

Cuối năm 1287, Hốt Tất Liệt gom 30 vạn quân giao Thoát Hoan chỉ
huy thẳng tiến Đại Việt để báo thù. Lần này quân Nguyên cũng chia làm 3
đạo: Thoát Hoan tiến vào qua ngả Lạng Sơn, Ai Lỗ vào theo hướng dọc
sông Lô (sông Hồng ngày nay), Ô Mã Nhi theo đường biển vào sông
Bạch Đằng, ngòai ra còn có đoàn thuyền lương thực do Trương Văn Hổ chỉ
huy đi sau Ô Mã Nhi. Các cánh quân Nguyện hẹn hội quân tại Vạn Kiếp.
Quân Trần tổ chức đánh chặn nhưng cũng như lần trước. Quân Nguyên lúc
này còn hăng hái nên tiến được vào đến Vạn Kiếp tuy bị tổn thất chút ít. Ô
Mã Nhi có lẽ nóng lòng báo thù nên tung tăng đi trước bỏ đoàn thuyền
lương nặng nề của Trương Văn Hổ khá xa. Khi Ô Mã Nhị họp quân với
Thóat Hoan ở Vạn Kiếp thì đòan thuyền lương còn ở ngòai biển. Sau đó thì
bị Trần Khánh Dư đánh chìm toàn bộ ở Vân Đồn. Thoát Hoan và Ô Mã Nhi
trong đất liền không hề hay biết.
Tại Vạn Kiếp, Thoát Hoan chỉnh đốn đội ngũ tấn công Thăng Long. Trần
Quốc Tuấn lại để thành Thăng Long vườn không nhà trống. Thoát Hoan vào
Thăng Long không bắt được vua Trần liền sai Ô Mã Nhi gấp rút đuổi bắt.
Không đuổi kịp, Ô Mã Nhi trút bực tức bằng cách cho quân cuớp bóc dân
chúng, đốt phá nhà cửa, chùa chiền, đào bới lăng mộ vua Trần Cảnh,
Không ở được Thăng Long, Thoát Hoan cho quân lui về Bắc Giang, Vạn
Kíếp sai Ô Mã Nhi ra biển tìm đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Ô
Mã Nhi ra đến cửa biển Đại Bàng (Hải Phòng) thì bị đánh tơi bời. Quân
Trần bắt được 300 chiến thuyền. Ô Mã Nhi quay về Vạn Kiếp. Vua Trần cho
người mang theo tù binh bắt được của đoàn thuyền lương sang trại Thoát
Hoan thông báo đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ đã bị diệt rồi. Tin đó
làm quân Nguyên lo sợ vì lương thực đã hết. Cùng lúc quân Trần phản công
ở khắp nơi. Sợ nguy, Thoát Hoan vội bàn với các tướng rút quân về nước.
Tất cả tướng Nguyên đều đồng ý. Thoát Hoan rút theo đường bộ theo ngả
Lạng Sơn, Ô Mã Nhi rút theo sông Bạch Đằng. Nhưng Trần Quốc Tuấn đã
cho quân mai phục tất cả mọi nẻo đường rút chạy. Ô Mã Nhi, cùng bộ tướng
là Phàn Tiếp lọt vào trận địa bãi cọc ở cửa sông Bạch Đằng, bị bắt sống,

máu quân Nguyên nhuộm đỏ nước sông. Trên bộ, Thoát Hoan cũng bị chặn
đánh nhiều trận. Xác quân Nguyên trải dài từ Vạn Kiếp tới biên giới Lạng
Sơn. Cuối tháng 4/1288, Thoát Hoan mới về được châu Tư Minh (Quảng
Tây, Trung Quốc). Đại Việt lại sạch bóng giặc ngoại xâm.
Sau chiến thắng quân Mông Nguyên lần thứ 3, Đại Việt có được một thời
gian dài ổn định và phát triển hưng thịnh. Nhưng từ đời vua Trần Dụ Tông
trở đi thì nước Đại Việt đã có nhiều biểu hiện suy thoái. Vua quan bất tài, ăn
chơi, sa đọa. Ngôi báu nhà Trần đã có lúc rơi vào tay ngọai tộc, giặc giã nỗi
lên như nấm, các nước lân cận đều mang quân tràn sang cướp phá…Từ đời
vua Trần Nghệ Tông trở đi, Hồ Quý Ly nổi lên là một nhà chính trị có tài và
được trọng dụng. Nhờ đó nhân buổi rối ren, suy thoái của nhà Trần, Hồ Quý
Ly đọat được ngôi báu.
Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi tên
nước Đại Việt thành Đại Ngu, và tiến hành nhiều cuộc cải cách lớn, trong đó
có việc đổi tiền đồng sang tiền giấy “thông bảo hội sao”. Tuy nhiên không
phải cuộc cải cách nào cũng được lòng dân chúng.
Năm 1406, nhà nước phong kiến bên Trung Quốc lúc này là nhà Minh cử
các tướng Mộc Thạnh, Trương Phụ,… đem quân xâm lược nước Đại Ngu.
Quân quan nhà Hồ chống cự quyết liệt nhưng vì Đại Ngu lúc đó chưa ổn
định, nhà Hồ chưa được dân chúng ủng hộ,… nên cuối cùng quân Minh đập
tan sức kháng cự của quân Hồ. Hồ Quý Ly cùng con trai và nhiều tướng bị
bắt giải sang Trung Quốc. Nhà Minh nhập Đại Ngu thành quận Giao Chỉ của
họ. Lúc đó nhân dân Đại Ngu mới bắt đầu khởi nghĩa ở nhiều nơi. Hic.
Năm 1407, Trần Ngỗi rồi Trần Quý Khoáng là quý tộc tôn thất nhà Trần,
tiến hành khởi nghĩa chống quân Minh. Ban đầu cũng giành được một số
thắng lợi đáng kể nhưng sau đó trong nội bộ mất đoàn kết nên nghĩa quân
suy yếu và bị dập tắt vào năm 1412.
Năm 1418, sau khi quy tụ được nhiều hào kiệt khắp nơi trong nước, trong đó
có Nguyễn Trãi, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại núi Lam (thuộc Thanh Hóa
ngày nay). Ban đầu lực lượng nghĩa quân còn yếu, chừng vài nghìn người,

nhưng cũng dùng mưu thắng được nhiều trận lớn gây thanh thế như ở Lạc
Thủy, Mường Một Quân Minh tăng cường đàn áp với sự giúp đỡ của nhiều
kẻ bán nước, chỉ điểm nên có lúc chúng đẩy nghĩa quân lâm vào tình trạng
hiểm nghèo. Ba lần nghĩa quân phải trốn lên núi Chí Linh, chịu cảnh đói
khát, thiếu thốn trăm bề. Ở lần thứ hai rút lên núi Chí Linh, năm 1419, nhờ
500 quân cảm tử do Lê Lai dẫn đầu đánh xông ra, mạo danh Lê Lợi để cho
giặc bắt giết nên nghĩa quân mới được bảo tòan xuống núi. Nghĩa quân Lê
Lợi chiến đấu như vậy ròng rã mấy năm trời cho đến năm 1424 thì mới tạo
nên chuyển biến có lợi cho mình.
Đầu năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn đã giành lại phần lớn đất nước, dồn
quân Minh vào cố thủ trong 4 thành Đông Quan (Thăng Long), Chí Linh, Cổ
Lộng, Tây Đô. Tướng quân Minh lúc đó là Vương Thông phải cho người về
nước xin viện Binh. Tuy nhiên, cả hai cánh quân cứu viện, với số quân 15
vạn, do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy đều bị quân Lê Lợi tiêu diệt ngay
tại cửa ải. Liễu Thăng bị chém đầu tại trận ở ải Chi Lăng. Mộc Thạnh hay
tin thì đang đêm mang quân chạy về nước nhưng cũng bị phục đánh tơi bời.
Quân Lê Lợi giết được hàng nghìn lính, thu nhiều ngựa và vàng bạc, khí
giới. Ngày 10/12/1427, túng quẫn vì bị vây mà không có viện binh, quân
Minh đang cổ thủ trong các thành đều ra hàng. Lê Lợi tha cho 10 vạn giặc
Minh và còn cấp đủ lương thực cho chúng, sửa cầu đường cho chúng rút về
nước. Cả bọn đều bái lạy.
Đầu năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi Hoàng Đế ở thành Đông Kinh (Thăng
Long) khôi phục tên nước Đại Việt mở đầu triều đại nhà Lê. (Gọi là nhà hậu
Lê để phân biệt với nhà tiền Lê của Lê Đại Hành trước kia).
Nhà hậu Lê phát triển ổn định và đại nhiều thành tựu lớn trong xây dựng đất
nước qua năm đời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông,
Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Đến đời vua Lê Uy Mục thì bắt đầu xuống
dốc.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi vua cho mình.
Trước đó, ông ta cậy có nhiều công nên lạm quyền, kết bè cánh và đã phế

truất ngôi của Lê Chiêu Tông giao cho Lê Cung Hoàng. Nhà Mạc thành
hình. Ở trong nước là thế nhưng khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung lại hèn kém
trong ngọai giao với nhà Minh, nhún nhường nhận chức An Nam đô thống
sứ do vua Minh “trao tặng” khiến nhân dân và nhiều quan lại phẫn nộ.
Năm 1530, Lê Ý ở Thanh Hóa nổi quân chống lại nhà Mạc.
Năm 1532, Nguyễn Kim tôn con của Lê Chiêu Tông lên làm vua (Lê Trang
Tông), đóng ở Thanh Hóa, nhiều quan lại của cũ của nhà Lê cũng theo về
phò tá tạo nên một triều đình mới đối lập với nhà Mạc ở phía bắc. Đại Việt
lúc đó vì thế có hai triều đình ở hai miền nam, bắc.
Sau khi Nguyễn Kim chết (1546), vua Lê phong con rể Nguyễn Kim là
Trịnh Kiểm lên thay. Trịnh Kiểm tiến hành lọai trừ phe cánh của Nguyễn
Kim để tập trung quyền lực vào tay mình. Các con của Nguyễn Kim,
Nguyễn Uông bị bắt giết, Nguyễn Hoàng lo sợ nên tìm cách lánh bằng cách
xin trấn giữ ở vùng Thuận Hóa. Trịnh Kiểm thuận ý cho vào. Họ Nguyễn
vào vùng đó ngấm ngầm có ý lập nên “vương quốc” riêng của mình chống
lại họ Trịnh nhưng bên ngoài vẫn tỏ về thuần phục, giúp họ trịnh chống họ
Mạc.
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết. Trịnh Tùng thay.
Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh bại nhà Mạc ở Thăng Long, thống
nhất đất nước, nhà Lê khôi phục, vua Lê bấy giờ là Lê Thế Tông. Tuy nhiên
vua Lê chỉ là cái bóng. Họ Trịnh lập ra vương phủ riêng tồn tại bên cạnh
triều đình vua Lê. Quyền lực nằm cả trong tay họ Trịnh.
Năm 1613, Nguyễn Hoàng ở phía Nam chết. Con là Nguyễn Phúc Nguyên
vâng lời cha “dạy bảo nhân dân, luyện tập binh sĩ kháng cự lại họ Trịnh” để
“xây dựng cơ nghiệp muôn đời”.
Năm 1627, lấy cớ Nguyễn Phúc Nguyên không chịu nộp thuế, họ Trịnh đem
quân vào đánh. Cuộc chiến giữa hai họ bắt đầu từ đó. Đại Việt bị chia cắt
thành hai “đàng” lấy sông Gianh làm ranh giới. Đàng Ngoài tính từ bờ bắc
sông Gianh trở ra bắc, Đàng Trong từ bờ nam sông Gianh trở vào nam. Ranh
giới này tồn tại suốt gần 300 năm cho đến khi Nguyễn Huệ thống nhất vào

năm 1786.
Năm 1771, ở Đàng Trong, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn
Lữ lãnh đạo nông dân khởi nghĩa ở Tây Sơn. Lúc này ở cả hai Đàng chính
quyền phong kiến đều đã rất bê tha, suy tàn. Trải qua mấy trăm năm chia cắt,
chiến tranh triền miên giữa hai Đàng đã làm cho đất nước điêu tàn, kiệt quệ,
nông dân vô cùng đói khổ. Vì thế vô vàn nông dân đã hưởng ứng cuộc khởi
nghĩa Tây Sơn. Với khẩu hiệu “ Lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”,
quân Tây Sơn tiến đến đâu thì dân nghèo ở đấy đều tham gia. Thanh thế của
nghĩa quân Tây Sơn lớn lên nhanh chóng. Hầu như đánh đâu thắng đấy.
Chẳng mấy chốc chiếm toàn bộ Quy Nhơn, Quảng Ngãi.
Năm 1777, Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, đóng ở thành Đồ Bàn
(Bình Định), sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đánh thành Gia Định. Nguyễn
Huệ, Nguyễn Lữ sau khi đánh lấy được thành, giết chết chúa Nguyễn Phúc
Thuần, cắt người trấn thủ xong thì rút về Quy Nhơn. Nguyễn Ánh là cháu
của Nguyễn Phúc Khoát (chúa Đàng Trong ngày xưa, trước Nguyễn Phúc
Thuần) đem quân chiếm lại thành Gia Định.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thái Đức.
Năm 1783, quân Tây Sơn đánh chiếm lại thành Gia Định, Nguyễn Ánh thua
chạy trốn sang Xiêm (Thái Lan) cầu cứu.
Năm 1784, quân Xiêm cử Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn thủy quân,
300 chiến thuyền và Chiêu Thùy Biên đem 3 vạn quân bộ cùng Nguyễn Ánh
tấn công Gia Định. Đến cuối năm đó thì chiếm được nửa đất Gia Định, Tây
Sơn chỉ còn giữ hai thành Gia Định, Mỹ Tho.
Đầu năm 1785, Nguyễn Ánh và quân Xiêm từ Sa Đéc tiến đánh Mỹ Tho.
Nguyễn Huệ cho quân mai phục, chặn đánh trên sông Mỹ Tho, đoạn ở Rạch
Gầm- Xoài Mút. Quân Xiêm đại bại, chỉ còn vài ngàn bộ binh rút chạy về
nước. Tây Sơn truy bắt Nguyễn Ánh nhưng không được. Nguyễn Huệ củng
cố ba quân, cử tướng trấn giữ Gia Định rồi rút ra Tây Sơn cùng với Vũ Văn
Nhậm và Nguyễn Hữu Chỉnh (một tướng Đàng Ngoài không phục Trịnh
Khải, bỏ nhà Trịnh theo Tây Sơn) chiếm luôn thành Phú Xuân đang do Đàng

Ngoài nắm giữ. Rồi nhân đà thắng lợi giành lại hết các vùng đất của Đàng
Trong. Xong, lấy danh nghĩa giúp vua Lê diệt chúa Trịnh, tiến đánh luôn
quân Trịnh ở Đàng Ngoài.
Năm 1786, Nguyễn Huệ chiếm được Thăng Long, lật đổ chúa Trịnh, trao lại
quyền hành cho vua Lê Hiển Tông. Vua Lê thưởng công cho Nguyễn Huệ
bằng cách phong Nguyễn Huệ là Uy Quốc Công, nhường đất Nghệ An cho
Tây Sơn. Được vài hôm, Lê Hiển Tông vì bịnh nặng từ trước, qua đời. Vua
kế vị là Lê Chiêu Thống. Sau đó, Nguyễn Huệ rút quân về phương Nam để
Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại đất bắc. Ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ chia nhau cai quản từ Nghệ An trở vào. Nguyễn Huệ sau khi
chinh phục miền bắc được Nguyễn Nhạc phong làm Bắc Bình Vương, làm
chủ từ Nghệ An đến Phú Xuân. Nguyễn Lữ giữ vùng đất phía nam, Gia
Định. Nguyễn Nhạc giữ vùng Quãng Ngãi đến Bình Thuận.
Sau khi Nguyễn Huệ rút đi, miền bắc trở nên rối loạn. Các thế lực của họ
Trịnh ra sức khôi phục lại cơ đồ. Lê Chiêu Thống phải dựa vào sức cửa
Nguyễn Hữu Chỉnh để chống đỡ. Chỉnh dẹp yên được họ Trịnh, cậy mình có
công lớn nên sinh ra lộng quyền, chống lại Tây Sơn, đòi lại đất Nghệ An.
Năm 1787, Nguyễn Huệ sai Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm ra bắc đánh
Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh cùng vua Lê bỏ chạy lên phía bắc. Dọc đường
Chỉnh bị bắt giết, Lê Chiêu Thống thoát sang đất nhà Thanh cầu cứu. Diệt
được Chỉnh, Vũ Văn Nhậm lại lộng quyền. Nguyễn Huệ đích thân ra bắc
giết chết Nhậm, đưa Ngô Văn Sở lên thay, tuyển dụng người giỏi, hiền tài để
trao quyền hành. Nhà Lê mất từ đây.
Năm 1788, vua Thanh là Càn Long cử Tôn Sĩ Nghị, Sầm Nghi Đống… đem
20 vạn quân cùng Lê Chiêu Thống tiến vào nước ta để “tiêu diệt Tây Sơn,
dựng lại nhà Lê”. Ngô Văn Sở bỏ trống Thăng Long rút về xây phòng tuyến
ở Tam Điệp một mặt báo tin cho Nguyễn Huệ. Tôn Sĩ Nghị vào Thăng
Long quá dễ cho là Tây Sơn sợ mất mật nên trốn cả nên hống hách, coi
thường Tây Sơn, cho quân cướp phá hết sức tàn bạo. Lê Chiêu Thống cũng
thực hiện việc trả thù, báo oán cũng không kém phần tàn ác, ti tiện.

Nguyễn Huệ nhận được tin cấp báo, ngày 22/12/1788, lập đàn tế cáo trời đất
lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung rồi hành quân thần tốc ra
bắc. Qua vùng Nghệ An, Thanh Hóa đều tuyển thêm quân lính. Khi đến
phòng tuyến Tam Điệp ngày 15/01/1779 đã có được đại quân hơn 10 vạn
người.
Rạng sáng mùng 5 tết Kỷ Dậu, 30/01/1789, sau khi chuẩn bị kỹ càng, vua
Quang Trung cho quân tấn cống thành Ngọc Hồi, cùng lúc đó cánh quân
khác đánh vào đồn Khương Thượng ở Đống Đa, sát thành Thăng Long. Ở
Ngọc Hồi, trước sức tấn công mãnh liệt, mưu trí của quân Tây Sơn, mặc dù
chống trả kịch liệt nhưng quân Thanh cũng nhanh chóng để mất thành, chạy
tán loạn, nhưng đều bị mai phục chết nhiều vô kể. Ở Đống Đa, quân Tây
Sơn do Đô đốc Đông chỉ huy cũng giành thắng lợi lớn. Thây giặc Thanh
chất cao như núi. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử kéo theo
nhiều bộ hạ thân tín tự sát theo, tàn quân chạy hết về Thăng Long. Quân Tây
Sơn đuổi theo truy sát vào tận Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị lúc đó còn đang mơ
màng trong giấc mộng, giật mình tỉnh giấc thì thấy quanh mình lửa cháy
khắp nơi, sáng rực trời. Không kịp đóng yên cương, nhảy lên ngựa chạy
trốn. Quân lính tranh nhau cướp đường chạy theo tướng về hướng bắc. Chen
lấn xô đẩy qua cầu phao sông Hồng. Cầu chịu không nổi, đứt. Hàng vạn lính
bị cuốn trôi theo nước dòng sông. Số chạy thoát đều bị mai phục, chặn đánh
tơi bời.
Trưa mùng 5, vua Quang Trung tiến vào Thăng Long giữa tiếng hò reo của
ba quân và dân chúng. Chỉ trong vòng một tuần, Vua đã từ Phú Xuân hành
quân thần tốc đánh tan 20 vạn quân Thanh hùng hậu. Vua tiến hành khôi
phục đât nước với nhiều cải cách triệt để giúp đất nước phát triển nhanh
chóng. Đến năm 1792, vua Quang Trung mất, con là Quang Toản lên thay.
Năm 1793, Nguyễn Ánh từ Gia Định đem quân đánh tới tận thành Quy
Nhơn của Nguyễn Nhạc. (Nguyễn Ánh sau khi thất bại cùng với quân Xiêm,
sống lưu vong nhiều năm, tới 1797 đã quay về chiêu mộ được nhiều binh
lính, có cả người một số người Pháp do linh mục Bá Đa Lộc đưa tới, giúp

sức, tái chiếm được thành Gia Định từ 1788 khi Quang Trung đang chuẩn bị
đánh quân Thanh, Nguyễn Lữ chạy về Quy Nhơn). Nguyễn Nhạc bị vây
khốn phải cầu cứu Quang Toản. Quang Toản sai tướng đem quân giải vây
xong thì có ý muốn chiếm luôn. Nguyễn Nhạc vì thế uất ức mà chết. Nguyễn
Ánh rút nhưng từ đó thường đem quân đánh phá. Hai bên giành nhau thành
Quy Nhơn mấy lần.
Sau khi Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc chết, nhà Tây Sơn do Quang Toản lãnh
đạo. Nhưng vua còn non nớt nên bị Thái sư Bùi Đắc Tuyên lộng quyền gây
nên nhiều mẫu thuẫn nội bộ. Các tướng tự đánh giết lẫn nhau. Triều đình suy
yếu. Trong khi đó Nguyễn Ánh đựơc sự giúp sức của người Pháp ngày một
mạnh lên.
Năm 1801, lợi dụng hai tướng Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng của Tây
Sơn đang đánh để giành lại thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh đánh úp Phú
Xuân, lấy được thành, vua Quang Toản chạy ra bắc. Hai tướng Trần Quang
Diệu, Vũ Văn Dũng sau khi chiếm đựơc Quy Nhơn, hay tin ấy quyết định bỏ
thành, mượn đường Ai Lao tính ra bắc hội quân với Quang Toản. Dọc
đường thì bị quân Nguyễn Ánh truy sát, bắt giết. Vua Quang Toản và các
tướng còn lại cũng không chống được. Cuối cùng đều bị bắt giết. Nguyễn
Ánh trả thù nhà Tây Sơn rất dã man. Nhà Nguyễn Tây Sơn hoàn toàn bị diệt.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long, đặt tên
nước là Việt Nam, mở ra triều đại nhà Nguyễn kéo dài cho tới năm 1945 qua
các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, . Tuy nhiên từ 1858
đến 1945, Việt Nam bị thực dân Pháp Xâm lược. Thực dân Pháp ra sức bóc
lột tài nguyên, nhân, vật lực của Việt Nam, dìm các cuộc khởi nghĩa của
nông dân, một số danh sĩ yêu nước trong biển máu. Các vị vua cuối triều
Nguyễn không có quyền quyết định các quốc sách. Họ chỉ là những vị vua
bù nhìn, chỉ biết lo cho thân phận mình được yên ổn. Họ đã bất lực đầu hàng
Pháp, không giúp gì được cho đất nước lại còn bóc lột dân chúng bằng lắm
thứ tô thuế,… nặng nề để phục vụ cho cuộc sống xa hoa của họ.
Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đứng đầu là

Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã lật đổ được chính quyền của
Pháp, Nhật, lật đổ chế độ quân chủ phong kiến của nhà Nguyễn để lập nên
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, một thể chế nhà nước mới mà tất cả
nhân dân lao động được làm chủ đất nước, bình đẳng với nhau, không có ai
bóc lột ai cả.


×