MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trung Quốc là một trong những quốc gia có lịch sử lâu đời với một
nền văn hóa lớn, rực rỡ, có nhiều đóng góp cho lịch sử nhân loại. Nền văn hóa
ấy là sự hòa trộn những tinh hoa của các dân tộc khác nhau cùng sinh sống
trên lãnh thổ Trung Quốc. Không chỉ có vậy, Trung Quốc còn là mảnh đất
màu mỡ, là nơi các tôn giáo, tín ngưỡng bản địa cũng như tôn giáo ngoại sinh
gieo mầm và phát triển. Hiện nay, trên đất nước Trung Quốc tồn tại 5 tôn giáo
lớn bao gồm: Phật giáo, Tin Lành giáo, Công giáo, Islam giáo và Đạo giáo
“với khoảng 100 triệu tín đồ”[11;59], cùng với đó là rất nhiều các hình thức
tín ngưỡng bản địa. Tuy thời điểm du nhập vào Trung Quốc không đồng nhất,
song các tôn giáo ngoại sinh cùng với những tôn giáo, tín ngưỡng bản địa đã
cùng tồn tại, phát triển tương đối hòa bình và trong một chừng mực nào đó,
nó đã góp phần hình thành nét văn hóa mang đậm màu sắc Trung Quốc.
Trong lịch sử, Phật giáo khi du nhập vào Trung Quốc đã chứng tỏ khả năng
thích nghi tuyệt vời và một sức sống bền bỉ trong lòng dân chúng. Công giáo
cũng đã từng xuất hiện ở Trung Quốc dưới thời Đường, Nguyên và đã có ảnh
hưởng không nhỏ đến tín ngưỡng, văn hóa bản địa. Tuy nhiên, khi triều
Nguyên sụp đổ, Công giáo lại bị tuyệt tích ở nơi đây. Từ giữ thế kỉ XVI, với
vai trò tích cực của các giáo sĩ, Công giáo lại một lần nữa được truyền bá vào
Trung Quốc. Khi du nhập vào đất nước có bề dày truyền thống lịch sử và văn
hóa như Trung Hoa, Công giáo đã vấp phải sự phản kháng rất lớn từ phía
chính quyền phong kiến bởi nó xa lạ với đời sống văn hóa tinh thần của cư
dân “Hoa Hạ” vốn đã thấm đẫm tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo.
Những tôn giáo, tín ngưỡng đó đã ăn sâu, bám rễ trong đời sống tinh thần của
người dân Trung Quốc từ mấy ngàn năm, do đó Công giáo không dễ gì có thể
nhanh chóng đâm chồi, nảy lộc ở nơi đây. Hơn nữa, khi có sự tiếp xúc giữa
các tôn giáo, tất yếu sẽ nảy sinh sự va chạm giữa Công giáo với văn hóa, tín
1
ngưỡng bản địa. Vì thế, quá trình truyền bá Công giáo vào Trung Quốc là một
quá trình phức tạp, kéo dài, có nhiều bước thăng trầm, song nó vẫn có được
một chỗ đứng ở quốc gia này. Việc tạo dựng được một chỗ đứng trong lòng
xã hội Trung Quốc bên cạnh tính lan tỏa của Công giáo, sự nhiệt thành của
các giáo sỹ truyền đạo thì một yếu tố khác giữ vai trò khá quan trọng, đó là sự
ứng xử của chính quyền phong kiến Trung Quốc đối với Công giáo.
Hiện nay, sự ứng xử đối với tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng
là vấn đề rất nhạy cảm đối với chính quyền các quốc gia tiếp nhận các tôn
giáo ngoại sinh. Mục tiêu là, vừa phải đảm bảo quyền tự do tôn giáo, tín
ngưỡng của nhân dân vừa đảm bảo độc lập dân tộc. Do đó, vấn đề “tôn giáo
và dân tộc” luôn được đặt ra với bất cứ quốc gia nào. Lịch sử truyền bá Công
giáo vào Trung Quốc là vấn đề hết sức phức tạp bởi những điều kiện lịch sử
đặc trưng của quốc gia này, trong đó, cách ứng xử của chính quyền phong
kiến Trung Quốc ở mỗi thời kì lại có sự khác nhau. Có thể thấy, hai chính
sách cơ bản của chính quyền phong kiến Trung Quốc đối với Công giáo ở nơi
đây; một là, chính sách nâng đỡ, khoan dung, chấp nhận sự du nhập của Công
giáo; hai là, chính sách cấm đạo. Trước một vấn đề lớn, phức tạp song cũng
rất nhạy cảm, dựa trên khả năng nghiên cứu của bản thân, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu một khía cạnh rất nhỏ, đó là: Tìm hiểu sự ứng xử của chính quyền
phong kiến Minh-Thanh đối với Công giáo từ năm 1552 đến năm 1911. Việc
nghiên cứu, tìm hiểu sự ứng xử của chính quyền phong kiến Trung Quốc đối
với Công giáo trong thời kì này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, giúp
chúng ta trả lời cho các vấn đề: Quá trình du nhập Công giáo vào Trung Quốc
diễn ra như thế nào? Tại sao trong thời kì đầu truyền giáo ở Trung Quốc, các
giáo sỹ lại được sự ủng hộ của chính quyền phong kiến? Nguyên nhân dẫn
đến những thay đổi trong ứng xử với Công giáo của chính quyền phong kiến
Minh-Thanh ?
2
Trên cơ sở tập hợp, xử lí những tài liệu liên quan đến vấn đề Công
giáo ở Trung Quốc, tác giả mạnh dạn chọn vấn đề: Sự ứng xử của chính
quyền Minh-Thanh đối với Công giáo từ năm 1552 đến năm 1911 làm
hướng nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Tuy là vấn đề tương đối mới, song việc tìm hiểu về Công giáo Trung
Quốc đã và đang được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Chúng ta có thể tìm
thấy những nội dung về vấn đề Công giáo Trung Quốc qua các công trình sau:
1. Cuốn “Giáo hội Công giáo Trung Quốc” của Yến Khả Giai,
(Nguyễn Thị Bạch Tuyết dịch), NXB Tôn giáo, 2007. Đây là công trình
nghiên cứu khá toàn diện về Công giáo từ khi du nhập đến nay ở Trung
Quốc. Cuốn sách cũng trình bày về quá trình truyền giáo ở Trung Quốc
trong đó có thái độ của chính quyền phong kiến đối với hoạt động truyền
giáo. Tuy nhiên, do trình bày về nhiều vấn đề của Công giáo ở Trung Quốc
từ khi du nhập đến nay nhưng chỉ được tác giả viết ngắn gọn trong hơn 100
trang nên các vấn đề mới chỉ dừng lại ở mức độ thống kê, khái lược. Song
đây chính là nguồn tài liệu quan trọng nhất giúp chúng tôi có cơ sở để
nghiên cứu nội dung của luận văn.
2. Cuốn “Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc” (3
tập) của Cát Kiếm Hùng, NXB Văn hóa-Thông tin Hà Nội, 2003. Ở tập III,
tác giả đề cập đến lịch sử triều Minh, Thanh, trong đó có trình bày về quá
trình du nhập Tây học vào Trung Quốc, qua đó cũng giúp chúng ta hiểu được
một phần về công cuộc truyền giáo của các giáo sỹ cũng như mối quan hệ
giữa truyền giáo với quá trình Tây học ở Trung Quốc.
3. Cuốn “Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc” của Ngô Vĩnh Chính
(cb) (Lương Duy Thứ dịch), NXB Văn hóa-Thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh,
1994. Tác giả trình bày một cách khái lược các vấn đề thuộc văn hóa Trung
3
Quốc từ cổ đại đến đầu thế kỉ XX, trong đó có thời Minh-Thanh. Cuốn sách có
trình bày khá rõ về sự tiếp xúc của Trung Quốc với văn hóa phương Tây.
4. Cuốn “Hành trình và truyền giáo” của Alexandre de Rhodes, (Hồng
Nhuệ biên dịch) NXB Ủy ban đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh,
1994. Trong cuốn sách này, tác giả có nói về thời gian truyền giáo của mình
tại Trung Quốc từ năm 1630 đến năm 1640. Hoạt động truyền giáo của ông
suốt 10 năm tại đây cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ sự ứng xử của chính
quyền nhà Minh đối với Công giáo.
5. Cuốn “Trung Quốc trên bàn cân” của Nghệ Kiện Trung, (Phạm Đình
Cầu dịch), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998. Cuốn sách trình bày bao
quát nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật. Tác giả đã
dựng lên một bức tranh toàn cảnh của đất nước, con người Trung Hoa, cả quá
khứ, hiện tại và tương lai. Trong đó, ở chương XVI, tác giả trình bày về công
cuộc truyền bá Công giáo ở thời kì đầu vào Trung Quốc. Mặc dù chỉ được
trình bày trong một số trang, song đây cũng là những cứ liệu quan trọng để
chúng ta biết rõ hơn về sự du nhập của Công giáo vào Trung Quốc trong thời
Đường, Nguyên.
6. Cuốn “Giáo hội, chủ nghĩa thực dân và các phong trào độc lập dân
tộc” của Ro-gie ga-ro-di, NXB Sự Thật, 1961. Tác giả đã tập trung phân tích
mối liên hệ mật thiết giữa công cuộc truyền giáo và chủ nghĩa thực dân.
Trong một số trường hợp cụ thể mà tác giả nêu ra để phân tích có trường hợp
Công giáo Trung Quốc.
7. Cuốn “Tôn giáo và đời sống hiện đại”, tập 5, Võ Kim Quyên (chủ
biên), NXB Khoa học Xã hội, 2004. Tập sách này giới thiệu toàn bộ về tôn
giáo ở Trung Quốc trong đó có Công giáo. Tuy nhiên, phần viết về Công giáo
thời kì mới du nhập được viết rất ngắn, chỉ tập trung viết về Công giáo trong
thời kì cải cách.
4
8. Cuốn “Lịch sử văn hóa Trung Quốc”, tập 2, NXB Văn hóa-Thông
tin Hà Nội, 1999. Cuốn sách dày gần 1000 trang, tập hợp nhiều bài viết của
các tác giả về văn hóa Trung Quốc. Trong đó có bài viết của tác giả Trương
Tuy, Phan Nại, trả lời các vấn đề: Đạo Cơ Đốc
*
bắt đầu tryền vào Trung Quốc
từ khi nào? Tình hình phát triển của Công giáo tại Trung Quốc ra sao? Thời
Cận đại, khoa học kĩ thuật của phương Tây đã du nhập vào Trung Quốc như
thế nào?. Những bài viết đó cũng đã phác họa những nét cơ bản về Công giáo
Trung Quốc.
9. Cuốn “Lịch sử truyền giáo” của Lê Hoàng Phu (Tài liệu lưu trữ của
Viện Nghiên cứu Tôn giáo). Đây là bản viết tay của tác giả, mặc dù chỉ hơn
30 trang song đây cũng là một công trình nghiên cứu về công cuộc truyền
giáo của các giáo sĩ Công giáo, mối liên hệ giữa truyền giáo và thực dân ở
Trung Quốc thời Minh-Thanh.
10. Cuốn “Tôn giáo ở Trung Quốc 100 câu hỏi và trả lời” của Lữ Vân,
NXB Văn hóa - Thông tin Hà Nội, 2003. Cuốn sách này được coi là cẩm nang
để giải quyết một số thắc mắc về vấn đề tôn giáo ở Trung Quốc, trong đó có
vấn đề Công giáo.
11. Cuốn “Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc” của Lê Văn Quán,
NXB Giáo dục Hà Nội, 1997. Cuốn sách gồm 22 chương được chia làm 4
thiên, ở thiên thứ 3 tác giả khái quát về xã hội, tư tưởng thời Tống, Nguyên,
Minh, Thanh. Trong đó, tác giả đã phân tích và khẳng định sự thay đổi về xã
hội, tư tưởng thời Minh-Thanh cũng chịu sự tác động của Công giáo. Điều đó
cho ta thấy được vai trò của Công giáo đối với xã hội Trung Quốc.
12. Bài viết: “Lịch sử hình thành và phát triển đạo Công giáo ở Trung
Quốc” của Hải Bằng, Phúc Nguyên đăng trên tạp chí Công tác Tôn giáo số 6
năm 2011. Bài viết cũng nêu khái lược về công cuộc truyền giáo ở Trung
Quốc và thực trạng Công giáo Trung Quốc hiện nay.
5
* Đạo Cơ Đốc: Tên gọi khác của đạo Kitô, đạo Công giáo là một trong ba nhánh chính của Kitô giáo
13. Bài viết: “Vấn đề tiếp thu văn hóa phương Tây của Trung Quốc và
Việt Nam cuối thế kỉ XIX” của Hoàng Văn Hiến đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử số 3, năm 2000. Bài viết này cũng giúp tác giả có được những thông tin
quan trọng về giai đoạn đầu của công cuộc truyền bá Công giáo ở Trung Quốc.
14. Bài viết “Quá trình truyền bá Cơ Đốc giáo và văn hóa cận đại
phương Tây ở Trung Quốc” của Hương Thảo đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
Trung Quốc, số 4, năm 2007. Bài viết đã trình bày một cách khái quát quá
trình truyền bá Cơ Đốc giáo vào Trung Quốc thông qua sự giao lưu văn hóa
giữa Trung Quốc với phương Tây.
Như vậy, các học giả Trung Quốc cũng như học giả các nước khác
cũng đã dành sự quan tâm nhất định để nghiên cứu, tìm hiểu về Công giáo
Trung Quốc. Song, các nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến vấn đề truyền bá
Công giáo và tác động của nó đối với văn hóa Trung Quốc. Trong khi đó, sự
ứng xử của chính quyền phong kiến đối với Công giáo lại chỉ được đề cập đến
một cách tản mạn, chưa hệ thống, chưa có sự đối chiếu, so sánh với các quốc
gia trong khu vực để chỉ ra điểm tương đồng, khác biệt. Đặc biệt, chưa lý giải
vì sao lại có sự thay đổi trong ứng xử đối với Công giáo của chính quyền
phong kiến Minh-Thanh. Tuy nhiên, với phạm vi nghiên cứu của đề tài thì
những công trình kể trên chính là sự gợi mở, là nguồn tài liệu quan trọng giúp
tác giả có cơ sở để hoàn thành đề tài của mình.
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu.
- Nội dung nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung chính sau:
Một là: Quá trình du nhập đạo Công giáo vào Trung Quốc thời Minh-Thanh.
Hai là: Sự ứng xử của chính quyền phong kiến Minh-Thanh đối với
Công giáo từ năm 1552 đến năm 1911.
- Phạm vi nghiên cứu.
6
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu quá trình du nhập Công giáo vào
Trung Quốc và sự ứng xử của chính quyền phong kiến Minh-Thanh đối với
Công giáo từ năm 1552 đến năm 1911.
+ Năm 1552 giáo sỹ Francis Xavier là người đầu tiên tìm cách đưa
Công giáo trở lại Trung Quốc sau nhiều thế kỉ vắng bóng.
+ Năm 1911 với cuộc cách mạng Tân Hợi đã lật đổ vương triều nhà
Thanh, mở ra những điều kiện mới cho lịch sử Trung Quốc nói chung và lịch
sử Công giáo Trung Quốc nói riêng.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu Công giáo ở Trung Quốc (quá
trình du nhập và sự ứng xử của chính quyền phong kiến Minh-Thanh đối với
Công giáo), trong đó có sự liên hệ với Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng hai phương pháp chính là
phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra, còn kết hợp sử dụng
các phương pháp, phân tích, tổng hợp, so sánh để lý giải nguyên nhân dẫn
đến sự thay đổi trong ứng xử của chính quyền phong kiến Minh-Thanh đối
với Công giáo.
5. Đóng góp của đề tài.
Trên cơ sở khái quát công cuộc truyền giáo của các giáo sỹ ở Trung
Quốc, tác giả tập trung tìm hiểu sự ứng xử của chính quyền phong kiến Minh-
Thanh đối với Công giáo từ năm 1552 đến năm 1911. Từ đó luận văn nhằm
giải quyết một số vấn đề:
+ Các giáo sỹ Công giáo đã làm thế nào để tạo được chỗ đứng cho mình ở
một quốc gia có truyền thống “Tam giáo đồng nguyên” như Trung Quốc ?
+ Chính quyền phong kiến Minh-Thanh đã ứng xử như thế nào đối với
Công giáo?
+ Những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi trong cách ứng xử đối với Công
giáo của chính quyền phong kiến Minh-Thanh từ năm 1552 đến năm 1911 ?.
7
6. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm hai chương:
Chương I. Quá trình du nhập đạo Công giáo vào Trung Quốc thời
Minh-Thanh.
Chương II. Sự ứng xử của chính quyền phong kiến Minh-Thanh đối với
Công giáo từ năm 1552 đến năm 1911.
8
B. NỘI DUNG
Chương I: QUÁ TRÌNH DU NHẬP ĐẠO CÔNG GIÁO VÀO
TRUNG QUỐC THỜI MINH-THANH.
1.1. Những tiền đề cho sự du nhập đạo Công giáo vào Trung Quốc.
1.1.1. Tính lan tỏa của Công giáo.
Kitô giáo ra đời vào thế kỉ thứ nhất sau công nguyên, ở một vùng đất
thuộc miền Đông của đế quốc Rôma. Tại đế quốc Rôma thời đó, áp bức giai
cấp vô cùng nặng nề, chẳng những nô lệ bị bóc lột tàn khốc mà ngay cả tầng
lớp dân tự do cũng bị dồn đến bước đường cùng. Để phản kháng, họ đã tiến
hành nhiều cuộc khởi nghĩa, trong đó tiêu biểu nhất là phong trào đấu tranh
của dân tộc Do Thái ở vùng Palextin. Song, vì chính quyền nhà nước chủ nô
khi đó còn quá mạnh nên các phong trào đấu tranh trước sau đều bị đàn áp.
Đông đảo dân chúng thuộc mọi giai tầng, với tâm trạng uất ức, mệt mỏi và
tuyệt vọng, chỉ còn biết trông chờ, hy vọng sẽ có một con đường màu nhiệm
cứu họ thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Đương thời, ở Palestine và Israel đang
thịnh hành Do Thái giáo, tôn sùng và tin tưởng Giêhôva (Yahve) là vị thần
chân chính, duy nhất giáng trần, cứu vớt muôn dân. Trên cơ sở của niềm tin
này, lại hấp thụ những quan niệm về thiên đường, địa ngục và linh hồn bất tử
lưu hành lúc đó, cùng những thuyết giáo của các nhà triết học cổ Hy-La về sự
nhẫn nại, cấm dục…. mà Kitô giáo nguyên thủy dần hình thành. Như vậy,
Kitô giáo được chúa Jesus-con một người thợ mộc bình dân xứ Nazareth, lập
ra ở Palestine trên cơ sở thần học Do Thái và các tín ngưỡng của những địa
phương thuộc đế quốc Rôma. Xuất phát là tôn giáo của những người nô lệ bị
Rôma đô hộ, Kitô giáo sơ kì luôn đứng về những người nghèo, những người
bị áp bức, thậm chí họ còn công khai kêu gọi trả thù kẻ thống trị họ. Song
cùng với việc truyền bá rộng rãi tôn giáo này, nhiều người thuộc tầng lớp giàu
có cũng chủ động trở thành tín đồ của nó. “Bất kể số lượng người theo đạo
9
Cơ Đốc là bao nhiêu trong các tầng lớp dân cư thấp nhất, thì ngay từ thế kỉ
thứ nhất người ta đã thấy họ có mặt cả trong hoàng tộc nữa rồi” [32;11-12].
Họ cổ vũ cho sự nhẫn nại, phục tùng và những hành động cầu xin được
Thượng Đế đền đáp sau khi chết, nhằm mục đích khiến Kitô giáo từng bước
thích ứng với nhu cầu của tầng lớp thống trị. Từ khi trở thành quốc giáo của
đế quốc Rôma (cuối thế kỉ IV) thì quyền lực chính trị và thực lực kinh tế của
đạo Kitô không ngừng được củng cố và phát triển. Giáo hội Rôma trở thành
chúa phong kiến lớn nhất, giàu có nhất ở Tây Âu. Đến năm 756, giáo hội đã
có lãnh thổ riêng, lập nên một nhà nước Kitô giáo độc lập. Như vậy, từ chỗ là
tôn giáo của người nghèo giờ đây Kitô giáo đã trở thành tôn giáo của người
giàu, thành công cụ của giai cấp thống trị. Lịch sử đã cho thấy rằng, từ khi
giáo hội Rôma trở thành quốc giáo thì cây gươm tinh thần của Thánh Paul đã
luôn luôn bị cám dỗ để biến thành cây gươm thép thực sự. “Kinh thánh đã
ghi: Ai lấy hãy vâng phục chính quyền cai trị mình vì chẳng có một quyền lực
nào không do chúa Trời mang đến, quyền lực nào cũng do Chúa Trời tạo
nên… cho nên ai chống lại kẻ cầm quyền là chống lại mệnh lệnh chúa Trời”
[32;14]. Trong suốt lịch sử phát triển của mình, Kitô giáo không ngừng lan
tỏa để tìm kiếm những quê hương mới (để “mở rộng nước Chúa” hay là để
“giải phóng đất Thánh”). Với nhiều cách khác nhau, như thông qua việc buôn
bán, giao lưu văn hóa hay các chiến binh ở lại sau các cuộc chiến tranh, hoặc
một cách chủ động tìm đến những vùng đất mới để truyền giáo, chủ yếu là
thời kì tiền thực dân và thực dân. “Giáo lý Cơ Đốc tuyên bố rằng: Thượng Đế
(Chúa trời) sáng tạo thế giới, là đấng toàn thiện-toàn trí-toàn năng, tín đồ tất
phải tôn kính, phục tùng, chấp nhận sự an bài của Thượng Đế, nếu phục tùng
ý chí Chúa Trời, người ta sau khi chết sẽ được lên Thiên đàng…” [32;15].
Những điều đó là sự đối nghịch với các chính quyền phong kiến và với các
tôn giáo, tín ngưỡng khác ở những nơi mà nó muốn đặt chân đến. Bởi vậy,
10
không dễ gì tôn giáo này có thể có được chỗ đứng và ảnh hưởng tới những
vùng đất nó truyền đến. Trong điều kiện đó, Kitô giáo đã bộc lộ tính lan tỏa
trong quá trình mở rộng ảnh hưởng của mình ở những thời kì khác nhau với
các biện pháp khác nhau. Kitô giáo thời Trung cổ được truyền bá như một
công cụ chống lại quần chúng khi đề cao tình yêu thương lẫn nhau, để nhẫn
nhục chịu đựng và khuất phục. Suốt 10 thế kỉ, ở phương Tây, nhà thờ Kitô đã
sát cánh cùng nhà nước phong kiến gây nên không ít tội ác với nhân dân, góp
phần kéo lùi lịch sử bằng cách chống lại một cách điên cuồng các trào lưu tư
tưởng tiến bộ và các phát minh khoa học. Ga-li-le bị bỏ tù, Bru-nô bị hỏa
thiêu…đó là số phận cay đắng của các nhà khoa học trước tòa án tôn giáo.
“Chỉ riêng ở Tây Ban Nha, trong 350 năm hoành hành của “tòa án tôn giáo”
đã có 15 vạn người bị thiêu sống, 90 vạn người bị tù chung thân, 20 vạn
người bị tàn phế, 5 triệu người bị lưu đày chỉ vì họ nghèo hoặc không vừa ý
nhà thờ. Chưa kể đến các tội ác đẫm máu của các đoàn quân Thập Tự gây ra
ở Trung Cận Đông trong hai thế kỉ XI-XIII dưới chiêu bài “giải phóng đất
thánh” thoát khỏi tay người Hồi giáo mà thực chất là thực hiện tham vọng
bành trướng thế lực chính trị-kinh tế của phong kiến châu Âu” [71;86-87].
Sau khi giai cấp tư sản ra đời, giáo hội lại tiếp tay cho sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản, tô vẽ cho bộ mặt của giai cấp tư sản. Đặc biệt, sau phát kiến
địa lí của Vaxcô đơ Gama - tìm ra con đường sang phương Đông, hay cuộc
hành trình vòng quanh thế giới của Majelan, con đường buôn bán với phương
Tây được khai thông thì các nước tư bản Tây Âu như Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha, sau nữa là Hà Lan, Anh, Pháp ồ ạt sang phương Đông tìm hương liệu, thị
trường phục vụ cho quá trình tích lũy nguyên thủy tư bản. Vì thế, để phục vụ
cho quá trình xâm lược được nhanh chóng, mục đích kinh tế, chính trị sớm
được thực hiện, thì theo sau hoặc đồng hành với các đoàn thương nhân là các
giáo sỹ. Từ đó, quá trình truyền bá Kitô giáo sang phương Đông (trong đó có
11
Trung Quốc) mới bắt đầu diễn ra một cách mau lẹ, mạnh mẽ và có chủ đích. Sự
va chạm về quyền lợi kinh tế, chính trị giữa thực dân phương Tây và giai cấp
thống trị ở phương Đông bắt đầu. Phương hướng hoạt động cơ bản của những
người truyền giáo gắn liền với việc khai thác châu Mĩ, châu Á, châu Phi và
châu Đại Dương.
Những tôn giáo lớn trên thế giới, trong quá trình lan tỏa, cùng lúc với sự
truyền bá đức tin còn có vai trò truyền tải văn hóa nội sinh của tôn giáo đó
cũng như văn hóa của cộng đồng sản sinh ra nó. Bởi vậy, phong trào truyền
giáo đã đóng một vai trò không nhỏ trong lịch sử văn hóa thế giới không hẳn
do nó đem tôn giáo đến với các dân tộc bản địa mà chủ yếu là do phổ biến một
số thành tựu của nền văn minh châu Âu sang phương Đông. Ở mỗi quốc gia,
trong những thời kì khác nhau, các giáo sỹ đã có những phương cách tiếp cận
khá linh hoạt để đưa tôn giáo này thâm nhập và phát triển. Quá trình du nhập
của Công giáo vào Trung Quốc dưới thời phong kiến Minh-Thanh chính là
biểu hiện cụ thể tính lan tỏa của tôn giáo này ở nơi đây.
1.1.2. Trung Quốc - một địa bàn hấp dẫn cho công cuộc mở rộng “nước Chúa”
của giáo hội Công giáo và sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân phương
Tây.
Từ khi trở thành quốc giáo của đế quốc Rôma, Công giáo đã trở thành
công cụ của giai cấp phong kiến châu Âu, khi nó là một bộ phận của thượng
tầng kiến trúc. Đến thế kỉ XV, khi chủ nghĩa tư bản dần hình thành thì nó
nhanh chóng trở thành công cụ hữu hiệu cho giai cấp tư sản trong việc thực
hiện tham vọng của mình. Các cuộc phát kiến địa lý diễn ra ở thế kỉ XV, cùng
tham gia với các đoàn thương nhân còn có mặt thường xuyên và đông đảo các
giáo sỹ để đảm nhiệm sứ mạng chinh phục các linh hồn. Khi giai cấp tư sản ra
đời và đóng vai trò quyết định trong đời sống xã hội phương Tây thì quyền
lực chính trị và kinh tế của giáo hội Công giáo La Mã dần dần bị triệt tiêu,
12
song quyền lực về tinh thần tuy có bị hạn chế nhưng vẫn tồn tại, bởi ngay
chính quyền mới, chính quyền của giai cấp tư sản, vẫn cần có sự quy phục của
nhân dân ở chính quốc cũng như ở thuộc địa mà Công giáo là công cụ tinh
thần đắc lực để duy trì sự qui phục đó. Vì vậy, giai cấp tư sản phương Tây,
mặc dù có lúc muốn thủ tiêu hoàn toàn quyền lực của giáo hội, song ngay sau
đó lại thỏa hiệp không những vẫn để cho giáo hội Công giáo tự do hành đạo ở
chính quốc mà còn ủng hộ và tài trợ cho các tổ chức truyền giáo ra vùng đất
ngoại. Bởi vậy, các giáo sỹ truyền đạo đã trở thành những người môi giới cho
việc buôn bán, cung cấp những thông tin quan trọng về mọi mặt của quốc gia
họ đang truyền giáo về cho chính quốc. Giáo lý của giáo hội về các vấn đề
thuộc địa đã có rất lâu rồi. Ngay từ khi vấn đề được đặt ra, nghĩa là vào cuối
thế kỉ XV, một nhà thần học Tây Ban Nha là Phơ-răng-xoa đơ Vích-tô-ri-a đã
xác lập về quyền thực dân dựa trên nguyên tắc: “Chúa đã tạo ra vũ trụ cho
tất cả mọi người, vậy tuyệt nhiên không được cản trở những người có thể
khai khẩn những tài nguyên của thế giới một cách tốt nhất. Kinh Phúc Âm
truyền phải “giáo dục tất cả các nước” vậy, tuyệt nhiên không được cản trở
những người mang đạo Cơ Đốc đến cho những kẻ vô đạo. Người ta đã không
ngừng sử dụng hai luận điểm chủ yếu đó từ năm thế kỉ nay để biện hộ cho sự
xâm lược của chủ nghĩa thực dân” [55;13]. Từ thế kỉ XV, người ta đã thấy
chính sách của giáo hoàng giao phó cho tín đồ là nghĩa vụ xâm lăng để thu
người vào đạo. Vì thế, với điều kiện mang theo các thầy tư tế mang “thông
điệp của đấng Kitô” đến với các nước. Sự gắn kết giữa giáo hội và chủ nghĩa
thực dân đã bộc lộ rõ. “Thái độ thực tiễn của giáo hội cũng phù hợp với giáo
lý suốt trong thời kì phát triển của chủ nghĩa thực dân, giáo hội đã giúp đỡ
nó một cách thực tiễn cũng như biện hộ cho nó về mặt lý thuyết. Vuốt ve
những kẻ đa cảm bằng những bài kết án thực sự “quá lạm’ của chủ nghĩa
thực dân trong khi vẫn thừa nhận nguyên lý của chủ nghĩa đó là chính đáng,
13
các giáo phái (giáo hoàng và các giám mục) đã bao che cho mọi hành động
xâm lược thuộc địa” [55;15].
Những minh chứng trên đây cho thấy, sự pha trộn giữa động cơ thiêng
liêng với những động cơ phàm tục là điều không thể tránh khỏi trong bối cảnh
của lịch sử phương Tây thời cận đại. Mối quan hệ giữa truyền giáo và chủ
nghĩa thực dân trở thành mối quan hệ gắn bó không tách rời. Những hoạt
động truyền giáo lại trở thành công cụ cho chủ nghĩa thực dân. Chỉ có điều,
sự mật thiết của mối quan hệ đó ở mức độ khác nhau tùy theo các giai đoạn
lịch sử cụ thể, ở từng quốc gia khác nhau.
Trong khi giai cấp tư sản phương Tây, trong quá trình phát triển đã và
đang thiếu những thứ đặc biệt quan trọng, đó là một thị trường rộng lớn để
buôn bán, một nơi để khai thác nguyên liệu phục vụ cho sự phát triển nền
kinh tế công nghiệp, một nơi có nguồn nhân công dồi dào, giá rẻ. Các nước tư
bản phương Tây đã nhanh chóng phát hiện ra điều này ở Trung Quốc. Do đó,
việc tìm đến Trung Quốc đã trở thành tâm điểm, là mục tiêu của chủ nghĩa
thực dân phương Tây. Khi Marcô Pôlô từ Trung Quốc trở về sau cuộc hành
trình dài ngày thì cuốn sánh “Truyện ký về hành trình của Marcô Pôlô” được
công bố, nhiều người truyền tay nhau tập bản thảo ký sự đó. Đến thế kỉ XV,
bộ sánh được lưu truyền trên toàn thế giới. Do đó, người ta có được những
hiểu biết về phương Đông, trong đó có Trung Quốc là nơi có nền kinh tế phồn
vinh với nhiều vàng bạc và có nền văn minh cao lúc bấy giờ. Trong quyển
sách này, Marcô Pôlô đã khen ngợi Trung Quốc: “ là Đế Quốc Trung Hoa, có
thành thị và thôn ấp chạy dài liên miên bất tận và thủ đô của nước này có
mặt bằng rộng lớn, đường đi chi chít như bàn cờ, xinh đẹp không thể tả, còn
cung điện thì tráng lệ nguy nga. Ông cho rằng Tuyền Châu thời bấy giờ là
một hải cảng lớn nhất thế giới, trong thương cảng này có rất nhiều hàng hóa,
bảo thạch, trân châu. Số lượng của những thứ hàng hóa này nhiều đến nỗi ai
14
nhìn cũng phải giật mình” [26;594]. Bởi vậy, một loạt các quốc gia phương
Tây đã tìm cách đến và gây ảnh hưởng của mình ở Trung Quốc. Năm 1553,
người Bồ Đào Nha lấy cớ phơi đồ đạc bị ướt đã đổ bộ lên Áo Môn. Sự kiện
đó đã trở thành sự kiện mở đầu cho các nước thực dân phương Tây tiến vào
Trung Quốc. Từ đó trở đi, Áo Môn đã trở thành đầu cầu và căn cứ địa của
người châu Âu để lấn sâu vào nội địa Trung Quốc. Những hoạt động thực
dân, mậu dịch của người châu Âu được tiến hành đồng bộ với hoạt động
truyền giáo. Thế là, thực dân châu Âu đã bắt đầu mở những cuộc thăm dò vào
Trung Quốc. Thực dân Hà Lan mà đại diện là công ty Đông Ấn đã đổ bộ xâm
chiếm đảo Đài Loan. Họ lấy thành Đài Loan (nay là An Bình) và thành Xích
Khảm (nay là Đài Nam) làm trung tâm, thiết lập sự thống trị thực dân của họ,
đồng thời liên tiếp quấy rối khu vực bờ biển phía đông nam của Trung Quốc.
Cùng với những hoạt động trên, bắt đầu từ buổi giao thời hai triều đại Minh-
Thanh đã xuất hiện quá trình “Tây học Đông tiến” thông qua các hoạt động
truyền giáo.
1.1.3. Sự tiếp nhận cởi mở, ôn hòa đối với các tôn giáo ngoại sinh của
người Trung Quốc trong lịch sử.
Trung Quốc là một trong những quốc gia cổ, rộng lớn ở phương Đông.
Trong lịch sử lâu dài, tôn giáo luôn là một bộ phận của văn hóa các dân tộc ở
đất nước này, mặc dầu ý thức tôn giáo trong phần lớn cư dân là thấp. Các tín
đồ tôn giáo thực thụ luôn là một số nhỏ trong tổng dân số Trung Quốc. Ngoài
một số vùng các dân tộc thiểu số cư trú ra, không có tôn giáo nào chiếm được
địa vị như một quốc giáo, chi phối trên phạm vi toàn quốc bởi nền văn hóa
Hán tộc đã chi phối toàn bộ hệ thống tư tưởng, tín ngưỡng của người Trung
Quốc. Trong nền văn hóa đó, “Nho học đã ở địa vị chi phối, tạo điều kiện cho
việc trị lý đất nước thông qua các quy chuẩn đạo đức và chỉ dựa vào chữ tín.
Nó không coi thường cũng không ủng hộ các quan niệm về quỷ thần và tôn
15
giáo” [53;8]. Tuy nhiên, với giai cấp phong kiến Trung Quốc thì họ vừa muốn
sử dụng tôn giáo như một công cụ thống trị của mình lại vừa muốn kiềm chế
tôn giáo bởi các vua phong kiến thường coi mình là con Trời thì “họ không lệ
thuộc vào một thượng đế tôn giáo nào, họ đã không hạ thấp mình [70;13].
Trái lại, trật tự tôn giáo được vương quyền xem như phụ thuộc. Do vậy,
những kẻ thống trị thuộc mọi triều đại luôn có thái độ khoan dung đối với tất
cả mọi tôn giáo nên các tín đồ tôn giáo có thể tiếp nhận tất cả những gì mà họ
cho là tốt đẹp từ các tôn giáo khác. Vì thế, trong lịch sử Trung Quốc, chiến
tranh tôn giáo đã không xảy ra.
+ Phật giáo
Phật giáo xuất hiện khoảng cuối thế kỉ VI trước Công nguyên, trong
chế độ đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ cổ đại, phát triển mạnh mẽ
dưới thời Asoka (thế kỉ III) và bắt đầu được truyền bá ra ngoài biên giới Ấn
Độ. Có nhiều thuyết khác nhau về thời điểm Phật giáo du nhập vào Trung
Quốc, song về cơ bản đều khẳng định nó được truyền vào Trung Quốc từ rất
sớm, khoảng trước hoặc sau công nguyên mà “con đường tơ lụa” là con
đường chủ yếu đưa Phật giáo đến nơi đây. Khi truyền vào Trung Quốc, Phật
giáo có vẻ xa lạ, song không mâu thuẫn với các tôn giáo, tín ngưỡng vốn có.
Không những thế, Phật giáo còn đem lại cho đương thời những giải thích mới
mẻ về nỗi khổ của con người, về nguyên nhân khổ đau, về con đường thoát
khổ, đồng thời nó kêu gọi lòng từ bi hỷ xả, một chủ trương đáp ứng được khát
vọng muốn cứu vớt của con người vốn nhiều rủi ro và lắm tai ương lúc bấy
giờ. Vì vậy, nó nhanh chóng tìm được chỗ đứng và có điều kiện bám rễ chắc
chắn ở nơi đây. Phật giáo nhanh chóng được chính quyền phong kiến Trung
Quốc tiếp nhận, đến thời nhà Đường thì nó đã đạt đến giai đoạn cực thịnh.
Khi truyền vào, Phật giáo đã hội nhập với truyền thống văn hóa bản địa, dần
phát triển thành một bộ phận quan trọng của văn hóa Trung Quốc. Trong quá
16
trình phát triển ở Trung Quốc, cùng với Nho giáo và Đạo giáo, Phật giáo đã
kết hợp bổ sung, pha trộn vào nhau làm nên những yếu tố chung trong hệ tư
tưởng mới ở đây. Đó chính là cơ sở hình thành truyền thống “tam giáo đồng
nguyên”. Những giáo lý, giáo luật, quy tắc là chất kết dính các tôn giáo này.
“Đối với nhu cầu đức tin, người Trung Quốc ngả về Phật giáo; với nhu cầu
về kĩ thuật, họ đến với Đạo giáo; và với nhu cầu giáo dục xã hội, họ đến với
Nho giáo” [18;56].
Các sách sử Trung Quốc có chép lại rằng: khi hai vị tăng sư Ấn Độ là
Ca Diếp Ma Đằng (Kasypâmtanga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa) đến
Trung Quốc đã được vua Minh Đế rất tôn kính, vua cho dựng chùa Bạch Mã,
là ngôi chùa đầu tiên ở Trung Quốc để phiên dịch kinh điển. Như vậy, cái
cách mà Phật giáo có thể thâm nhập vào Trung Quốc trong giai đoạn đầu chủ
yếu là việc dịch các sách kinh Phật từ chữ Phạn sang chữ Trung Quốc, dần
dần còn có các tăng sư người Trung Quốc tham gia biên dịch sách kinh Phật.
Điều này đã góp phần truyền bá giáo lý Phật giáo trong nhân dân. Mặc dù có
hai thời kì bị “phế Phật” đó là thời Võ Đế Bắc Ngụy (năm 466) và thời Võ Đế
Bắc Chu (năm 560), song Phật giáo về cơ bản vẫn phát triển một cách tương
đối hòa bình ở Trung Quốc. Sang thời nhà Tùy, được sự ủng hộ của các vua
Tùy Văn Đế, Tùy Dưỡng Đế nên Phật giáo tiếp tục có bước phát triển sâu
rộng. Sách lịch sử Phật giáo Trung Quốc viết: “Ngay khi tức vị, vua (Văn Đế)
hạ chiếu dựng chùa ở các danh sơn thuộc Ngũ Nhạc và dựng một chùa công
cộng ở mỗi châu, gồm có 45 châu đều lấy tên là “Đại Hưng Quốc”, nhân dân
được tự do xuất gia nên số tăng ni đã có tới 100.000 người”.[70;128]. Như
vậy, Phật giáo từng bước được truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc và được
“Trung Quốc hóa” về nhiều mặt như: phiên dịch nhiều bộ kinh ra chữ Hán,
cho ra đời các tác phẩm luận bàn về Phật giáo, xác định hệ thống tượng thờ,
nghi thức cúng bái tu tập, xây dựng nơi thờ tự theo quy mô hoành tráng với
17
kiểu thức cung điện Trung Quốc, lập thêm các tông phái…Từ thời Tùy
Đường trở về sau, Phật giáo đã trở thành tôn giáo lớn với kết cấu riêng biệt,
thành hệ thống tôn giáo mang sắc thái dân tộc, một học thuyết lớn, tác động
mạnh mẽ sâu sắc đến lịch trình phát triển của văn hóa tư tưởng Trung Quốc,
cùng Nho giáo và Đạo giáo tạo dựng nên nền tảng vững chắc cho đời sống
tinh thần của xã hội Trung Quốc qua hàng ngàn năm lịch sử.
+ Islam giáo (Hồi giáo)
Islam giáo ra đời gắn liền với tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của
Mohamet. Mohamet sinh năm 570, xuất thân từ một bộ lạc có thế lực ở
Mecca. Năm 40 tuổi, ông tuyên xưng rằng đã được Thượng Đế cho làm sứ giả
của Người. Sau một thời gian, ông bắt đầu đi truyền đạo Islam. Tháng 7 năm
622 được coi là thời gian mở đầu kỉ nguyên Islam giáo (Hồi giáo).
Ngay từ khi xuất hiện, Islam giáo đã nhanh chóng lan tỏa đến nhiều
khu vực, trong đó có Trung Quốc. Từ cuối thế kỉ VII, nhiều thương gia Ả rập
đã đặt chân lên bờ biển Trung Quốc, mở nhiều thương điếm tại các tỉnh ven
biển. Đến Trung Quốc, Islam giáo được gọi là Thanh Chân giáo hay Thiên
Phương giáo. Các nhà sử học Trung Quốc coi năm Vĩnh Thụy 2 (651), đời
Đường là mốc thời gian Islam giáo du nhập vào Trung Quốc.
Quá trình truyền bá Islam giáo vào Trung Quốc chủ yếu thông qua các
hoạt động giao thương giữa các thương nhân Ả rập với người Trung Quốc,
nhiều người trong số họ trở thành dân ngụ cư lâu dài tại kinh thành và một số
thành thị ven biển của Trung Quốc. Trong thời Đường-Tống, Islam giáo ảnh
hưởng chủ yếu ở các vùng thuộc tây bắc Trung Quốc. Do tín ngưỡng Islam
giáo phải thường xuyên làm lễ nên họ sống tương đối tập trung hình thành
nên những khu vực gọi là “phiên phường” (khu người nước ngoài sinh sống).
Tại đó, họ xây dựng nhà thờ, nghĩa trang công cộng. Những người này
thường sống ở Trung Quốc lâu dài, kết hôn với người Trung Quốc, qua nhiều
18
thế hệ và dần trở thành người Hồi giáo Trung Quốc. Một số người Trung
Quốc cũng chịu ảnh hưởng của họ và tin theo Islam giáo. Như vậy, sự du
nhập của Islam giáo vào Trung Quốc trong giai đoạn đầu là từ các thương
nhân, quá trình du nhập không diễn ra một cách ồ ạt, bởi thế nó không tạo ra
sự đối kháng gay gắt với các tôn giáo, tín ngưỡng bản địa.
Từ thế kỉ thứ XIII, khi Thành Cát Tư Hãn đem quân Tây tiến, tín đồ
Hồi giáo ở Tây Vực và một bộ phận người Ba Tư (Iranians) Ả rập buộc phải
chạy sang phía Đông nội địa Trung Quốc, phần lớn trong số họ trở thành binh
lính trong quân đội triều Nguyên, thời chiến ra trận, thời bình khai khẩn đồn
điền. Sau này họ định cư ở Trung Quốc, kết hôn và sinh con đẻ cái với người
địa phương, nhân khẩu cứ thế dần tăng theo năm tháng, cuối cùng hình thành
dân tộc Hồi mà sử sách gọi là “Hồi Hồi”. Thời kì đầu, địa bàn sinh sống của
họ phân bố chủ yếu ở dải hành lang tỉnh Hà Tây và các tỉnh Hà Nam, Sơn
Đông, Thiểm Tây và Vân Nam. Khi đó, những người này còn giữ tên họ vốn
có của dân tộc mình, về sau mới lần lượt đổi sang tên họ của người Hán. Hồi
giáo và những nhân vật cao cấp của tôn giáo này được triều Nguyên khá coi
trọng, có nhiều người đã trở thành quan chức trong chính quyền triều Nguyên.
Vương triều này còn xây dựng Quốc Tử Học dành riêng cho con em dân tộc
Hồi. Ở các địa phương, nhà nước còn cho phép họ xây dựng nhà thờ Hồi giáo
để tín đồ có nơi hành lễ. “Họ phân bố khắp các nơi trong đất Trung Quốc,
được người Mông Cổ trọng dụng nên đạo Islam nhanh chóng bén rễ ở Trung
Quốc và được Trung Quốc hóa. Đạo Islam được truyền bá ở miền Tây nước
ta, tập trung chủ yếu ở vùng các dân tộc thiểu số miền Tây. Ở nước ta đã có
mười mấy dân tộc theo tín ngưỡng đạo Islam, như dân tộc Hồi, Ngô Duy Nhĩ,
Cadac, Udobeck, Tagich, Taitar, Khơrơkhơchư, Sala, Đông Hưng, Bảo An
v.v….”[68;315]. Đến đầu thời Minh, đã hình thành khối cộng đồng dân tộc
Hồi và Hồi giáo chính là tín ngưỡng của khối cộng đồng dân tộc này, có cơ sở
19
rộng rãi và là một bộ phận không thể tách rời trong tín ngưỡng tôn giáo nói
chung ở Trung Quốc.
Như vậy, quy mô truyền bá Islam giáo ở Trung Quốc, tuy không sâu,
rộng như Phật giáo, nhưng cũng đem lại những ảnh hưởng đáng kể với nền văn
hóa Trung Hoa. Dân tộc Hồi có địa bàn cư trú khá rộng, song phân bố chủ yếu
tại các tỉnh: Ninh Hạ, Cam Túc, Hà Nam, Tân Cương, Thiểm Tây, Giang Tô…
Họ sống xen kẽ với người Hán, sử dụng ngôn ngữ Hán, có quan hệ rất mật thiết
với văn hóa Hán, nhưng vẫn bảo lưu được rất nhiều tập tục của Hồi giáo. Đồng
thời, quá trình phổ biến tín ngưỡng Hồi giáo cũng làm xuất hiện những mối
liên hệ văn hóa nhất định với các dân tộc thiểu số khác theo đạo Hồi, từ đó hình
thành khối đại đoàn kết giữa các dân tộc trên phạm vi cả nước.
Tóm lại: Sự hiện diện của hai tôn giáo lớn, có nguồn gốc từ bên ngoài là
Phật giáo và Hồi giáo như đã tình bày trên đây là cơ sở để chúng ta khẳng định
rằng: Người Trung Quốc có thái độ cởi mở, ôn hòa khi tiếp nhận các luồng văn
hóa, tôn giáo ngoại sinh. Đó sẽ là một tiền đề thuận lợi cho sự du nhập Công
giáo vào đất nước rộng lớn này ở giai đoạn muộn hơn.
1.2. Công cuộc truyền giáo dưới triều Minh (từ năm 1552 đến năm 1644).
1.2.1. Công giáo xuất hiện ở Trung Quốc thời Đường, Nguyên đã tạo cơ sở
cho sự xác lập vị trí của nó dưới thời Minh.
Đa số các học giả Trung Quốc đều khẳng định Công giáo xuất hiện
sớm nhất ở Trung Quốc vào năm đầu đời Đường, dựa theo tấm bia “Đại Tần
Cảnh giáo lưu hành Trung Quốc bi”, đào thấy năm 1625 ở Tây An, do các
giáo sỹ Cảnh giáo lập vào năm 871. Xét về mặt giáo lý, Cảnh giáo là một
dòng của Kitô giáo phương Tây. Triều Đường đã có sự giao lưu, tiếp xúc với
Ba Tư và đế quốc Rôma, nên giáo hội Kitô ở Ba Tư đã sai tăng lữ Alaben
người Xyri sang Trung Quốc truyền đạo. Đoàn của Alaben đến Trung Quốc
vào năm Trinh Quán thứ 9 đời Đường (năm 635). Ban đầu, họ xây nhà thờ ở
20
Trường An, tiếp đó mở rộng ra các nơi. Khi đó, đạo Kitô của họ được gọi là
Cảnh giáo, giáo hội gọi là Cảnh Môn, giáo học đường gọi là Cảnh Tự hoặc
Đại Tần Tự. Cảnh giáo được chính quyền phong kiến nhà Đường tiếp nhận và
đối xử rất tốt: “Khi tín đồ Cảnh giáo vừa đến Trường An, Đường Thái Tông
sai tể tướng Phòng Huyền Linh ra ngoại thành phía Tây đón tiếp một cách
long trọng sau đó lại xuống chiếu nói: đạo này “Lời không nói nhiều, lý lẽ có
thể bắt chước, giúp vật lợi người, truyền bá thích hợp trong thiên hạ” và
thưởng cho xây dựng một nhà thờ”[68;317]. Dưới triều vua Đường Cao Tông,
ông đã có nhiều chính sách nâng đỡ cho sự phát triển của tôn giáo này. Như
vậy, do được tầng lớp quan lại triều Đường từ Thái Tông đến Đức Tông cả
sáu triều vua đều tiếp nhận, hậu đãi và ra sức giúp đỡ Cảnh giáo nên giáo lý
được truyền khắp bốn phương, nhà thờ mọc lên khắp thành thị. Các giáo sỹ
phương Tây đến Trung Quốc ngày càng nhiều. “Theo sự ghi chép của bia
Cảnh giáo, đồng thời với Alaben và những người đi sau ông ta có tới 65 tăng
lữ có tiếng của Cảnh giáo. Điều đó đủ thấy Cảnh giáo lúc đó truyền bá ở
nước ta đã có quy mô không nhỏ” [68; 317]. Điều đặc biệt là, thời kì này còn
có sự hợp tác giữa những tín đồ Cảnh giáo với tín đồ Phật giáo trong việc
phiên dịch kinh Phật: “Giáo sỹ Cảnh giáo thường làm công tác phiên dịch,
không những dịch ra một số kinh điển của đạo Cơ Đốc mà còn hợp tác với
tăng nhân đạo Phật phiên dịch kinh Phật. Không những họ tuyên truyền cho
tư tưởng nhất thần luận mà còn tuyên truyền “Thánh Thượng đều do thần
sinh ra” để xu nịnh hoàng đế triều Đường ” [68; 317-318]. Cũng bởi lẽ đó mà
sau sự kiện hoàng đế nhà Đường là Đường Vũ Tông ra lệnh “sùng Đạo phế
Phật” thì Cảnh giáo cũng bị đả kích nặng nề và mất cơ hội truyền bá ở Trung
Nguyên. Tuy nhiên, với các dân tộc du mục ở miền Bắc và miền Tây Bắc thì
tôn giáo này vẫn được duy trì.
21
Dưới triều Nguyên (1271-1368), đạo Kitô lại một lần nữa được truyền
bá vào Trung Nguyên. Lúc đó, ở Trung Quốc, truyền đạo không những chỉ là
Cảnh giáo mà còn có Công giáo. Triều Nguyên gọi chung hai đạo này là
“Thập Tự giáo” hoặc “Êlikhaôn giáo”. Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đã nói:
“Có người kính phục Giêsu, có người thờ đạo Phật, kính trọng Mục Hãn Mặc
Đức, tôi không hiểu ai là lớn nhất, tất cả họ tôi đều kính trọng, mong họ đều
phù hộ cho tôi”. [68;318]. Nhà Nguyên còn ưu đãi các tín đồ Cảnh giáo với
tư cách là người Sắc Mục. Năm 1275, nhà du lịch người Ý là Marcô Pôlô
cùng với cha và chú đã đến Trung Quốc, gặp Thế Tổ nhà Nguyên là Hốt Tất
Liệt và được Hốt Tất Liệt tín nhiệm, trọng dụng làm quan trong triều suốt 17
năm. Biết tin đoàn của Marcô Pôlô tới, Hốt Tất Liệt đã cử các đoàn đi đón và
truyền cho các nhà chức trách dọc đường phải nghênh tiếp chu đáo, bởi Hốt
Tất Liệt muốn tìm hiểu làm thế nào để dùng tôn giáo củng cố địa vị thống trị
của mình. Việc tiếp đón long trọng và ưu ái của vua Nguyên đối với Marcô
Pôlô cũng phần nào phản ánh ý tưởng muốn lợi dụng Công giáo vào mục đích
chính trị của triều đại này.
Sau cuộc hành trình của Marcô Pôlô, sứ giả đầu tiên của tòa thánh
Rôma đã đến Bắc Kinh, đó là John Monte de Corvino (1248-1238) vào năm
1294. Khi đến Trung Quốc, “ông được Hoàng Đế cho phép tiến hành các
hoạt động tôn giáo tại Đại Đô và đã cải đạo Khát Lý Cát Tư, thủ lĩnh phái
Cảnh giáo ở Uông Cổ Bộ và xây dựng ở đó một nhà thờ” [13;9]. Như vậy, từ
một sứ giả của tòa thánh, John Monte de Corvino đã trở thành nhà truyền giáo
thực thụ tại Trung Quốc suốt 34 năm. Hoạt động truyền giáo của ông đã diễn
ra tương đối thuận lợi. “Ông đến Trung Hoa được Nguyên Thành Tông đón
tiếp rất long trọng. Nhiều quý tộc Mông Cổ vốn dĩ thờ Cảnh giáo đổi sang
thờ Thiên Chúa giáo. Ông đã khắc phục hàng loạt khó khăn, được nhà
Nguyên giúp đỡ, được phép ở trong ba ngôi nhà thờ của Trung Quốc và dùng
22
văn tự Mông Cổ phiên dịch Tân ước Thánh kinh và Cựu ước Thành kinh thi
thiên” [68;319]. Năm 1307, John Monte de Corvino được tòa thánh Rôma
phong làm Tổng Giám mục Hãn Bát Lý (Bắc Kinh). Ngoài ra, còn một số
giáo sỹ khác cũng được tòa thánh Rôma cử sang truyền giáo ở đây. Các nhà
thờ và tu viện được xây dựng ở nhiều nơi thuộc miền nam Trung Quốc như
Tuyền Châu, Hàng Châu. “Tổng Giám mục John cai quản Giáo phận Bắc
Kinh trong hơn 30 năm và nói rằng ông đã làm lễ rửa tội cho hơn 6.000
người” [13;10] . “Năm Hoàng Khánh 12(1313), lập giáo khu tại Tuyền Châu
(Phúc Kiến). Lúc bấy giờ Thiên Chúa giáo đã có mặt tại các vùng Ngũ
Nguyên (Nội Mông), Y Lợi (Tân Cương), Dương Châu (Giang Tô) và Hàng
Châu (Triết Giang), tín đồ khoảng 60 nghìn người” [53;37]. Triều Nguyên đã
đặt ra một cơ quan gọi là Sùng Phúc Ty để quản lý đạo này, tín đồ có đến ba
bốn vạn người đều thuộc Mông Cổ hoặc người Tây Á nhập cư vào Trung
Quốc, phân bổ các địa phương trên toàn quốc mà chủ yếu là ở Bắc Kinh, Đại
Đồng, Tuyền Châu. “Năm 1315, trong cả nước có 72 ty quản giáo” [70;114],
do đó đã góp phần mở ra thời kì hoàng kim của Công giáo ở Trung Quốc. Tuy
nhiên, khi triều Nguyên bị diệt vong và triều Minh lên cai trị đất nước thì
Công giáo cũng dần biến mất, đơn giản chỉ vì hầu hết tín đồ đều là người
Mông Cổ hoặc người Tây Á nhập cư Trung Quốc. “Tất cả điều đó chỉ như
một đóa hoa chớm nở, cùng với sự diệt vong của đế quốc Nguyên, đạo Cơ
Đốc lại một lần nữa dần dần mất đi ở đất Trung Nguyên”[68;319].
Như vậy, tôn giáo Trung Quốc đã hoàn chỉnh cùng với bước khải hoàn
của Khổng học trong vai trò hệ tư tưởng quốc gia và việc tế tự của nhà nước,
với sự đua nở mọi hình thức dân gian của Đạo giáo và việc chấp nhận đạo
Phật như một trong những nền tảng khai lập của lịch sử tôn giáo Trung Quốc.
Có thể thấy, vào cuối thời Hán hoặc không bao lâu trước đó, các thành tố bản
sắc văn hóa Trung Quốc đã hội tụ đủ. Nhưng truyền thống Trung Quốc, giống
23
như chính bản thân khái niệm Đạo, năng động, luôn tự thay đổi và tái cấu trúc
theo dòng chảy của thời gian. Tôn giáo trong lịch sử Trung Quốc luôn thể
hiện đặc trưng riêng bởi sự tồn tại của những tư tưởng và thực hành tín
ngưỡng cổ xưa cùng những tương tác qua lại không ngừng giữa các truyền
thống tôn giáo lớn. Sau sự suy tàn của nhà Hán (khoảng năm 220), Trung
Quốc bước vào thời kì phân liệt kéo dài đến cuối thế kỉ VI. Trong thời kì này,
đạo Phật gặt hái thành công, được chấp nhận và phát triển mạnh mẽ ở thế kỉ
VIII. Luồng gió đổi thay nổi lên với triều Nguyên khi người Mông Cổ thống
trị toàn cõi Trung Quốc, Công giáo lại có điều kiện du nhập trở lại. Nền cai trị
Trung Quốc nhất thời trở lại với nhà Minh (1368-1644) và Tống Nho chính
thống ngự trị thời kỳ này. Nhưng ảnh hưởng của phương Tây giờ đây bắt đầu
thâm nhập Trung Quốc. Với nhiều lý do chủ quan và khách quan, Công giáo
đã không còn được truyền bá ở nơi đây cho đến trước khi có sự xuất hiện của
giáo sỹ Francis Xavier (năm 1552). Song chính sự có mặt của Công giáo
trong các triều đại trước đã giúp cho nó, một lần nữa, lại được đâm chồi, nảy
lộc và phát triển mạnh mẽ dưới triều Minh.
1.2.2. Hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây.
Thế kỉ XV, trước những biến động của tình hình kinh tế, chính trị châu
Âu thì Công giáo cũng tiến hành cuộc “cải cách” trong nội bộ giáo hội và cuối
cùng là sự ra đời của giáo hội Tin Lành. Trước những thay đổi của xã hội và
do ảnh hưởng nhanh chóng của cải cách tôn giáo, giáo hội Công giáo bắt đầu
có những thay đổi trong nội bộ bằng cách tổ chức lại các dòng tu. Họ cử
nhiều nhà truyền giáo ra nước ngoài thu phục tín đồ nhằm chống lại ảnh
hưởng của “cải cách”. Theo cách nói của chính họ, giáo hội “tìm cách giành
lại những gì họ đã mất ở châu Âu”. Trong bối cảnh đó, Dòng Tên do Ignatius
Loyola (1491-1556) thành lập đã xuất hiện ở Trung Quốc.
24