Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên THCS huyện an dương thành phố hải phòng đến năm 2015 luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.62 KB, 93 trang )

Bộ giáo dục - đào tạo
Trờng đại học vinh

Dự báo nhu cầu đội ngũ
giáo viên thcs huyện an d ơng
thành phố hảI phòng đến năm
2015

Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục
Chuyên ngành quản lý giáo dục

NGI HNG DN:PGS.TS. INH XUÂN KHOA
NGƯỜI THỰC HIỆN: PHẠM VĂN TĨNH

1


NghÖ an, 2011

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………… 1
1.Lý do chọn đề tài……………………………………………………………. 1
2.Mục đích nghiên cứu ……………………………………………………….. 3
3.Khách thể và đối tượng nghiên cứu ………………………………………….3
4.Giả thiết khoa học ……………………………………………………………3
5.Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu…………………………………………….3
6.Phương pháp nghiên cứu...…………………………………………………...4
7.Đóng góp của đề tài………...………………………………………………...4
8.Cấu trúc luận văn…………………………..…………………………………4
ChươngI: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ DỰ BÁO GIÁO DỤC VÀ DỰ BÁO
NHU CẦU ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN


6
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề……………………………………………….6
1.2. Những khái niệm chủ yếu liên quan đến vấn đề nghiên cứu…………….8
1.3. Một ssố vấn đề lý luận về dự báo………………………………………..15
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến dự báo………………………………...….24
1.5. Vị trí vai trị Trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân……….27
1.6. Vị trí vai trị ủa đội ngũ giáo viên THCS trong phát triển GD-ĐT….…..31
Chương II:THỰC TRẠNG GIÁO DỤC THCS VÀ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
THCS HUYỆN AN DƯƠNG
2.1

Khái quát về vị trí địa lý, dân cư và tình hình kinh tế- xã hội huyện An
Dương…………………………………………………………………… .34

2.2

Thực trạng giáo dục phổ thông huyện An Dương………………………. 36

2.3

Thực trạng đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở huyện An Dương…….…..50

2.4

Đánh giá chung về giáo dục huyện An Dương……………...…….………55

Chương III: DỰ BÁO NHU CẦU GIÁO VIÊN THCS HUYỆN AN DƯƠNG
ĐẾN NĂM 2015
60
3.1 Những căn cứ để dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên THCS……...……….60

3.2 Dự báo giáo viên THCS đến năm 2015…………………………………...64
2


3.3

Một số giải pháp đáp ứng nhu cầu giáo viên THCS huyện An Dương đến
năm 2015………………………………………………………… …......78
3.4 Thăm dị tính đúng đắn thực hiện các giải pháp………………….. ……...86
Kết luận và khuyến nghị………….………………………………...…...88
1
Kết luận…………...………...………………………………...……….88
2
Khuyến nghị………………………………………………...…………90
MỞ ĐẦU
I LÝ DO CHỌN ĐÊ TÀI
Giáo dục có vai trị vơ cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi dân
tộc, mỗi quốc gia. Đất nước thịnh hay suy là do nền giáo dục. Chính vì vậy mà
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, một tấm gương mẫu mực
trong sự nghiệp trồng người đã dạy: “ Vì lợi ích mười năm trồng cây - Vì lợi ích
trăm năm trồng người”. Việc trồng người có tầm quan trọng như vậy, nên ngay sau
cách mạng tháng tám thành công, Bác quan tâm ngay đến giáo dục. Trong thư gửi
học sinh, sinh viên nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ
cộng hồ Bác hồ kính u đã dạy: “ Non sơng việt nam có trở nên tươi đẹp hay
khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc
năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở cơng học tập của các em”.
( Trích trong SGK tiếng việt lớp 5 Nhà XBGD tái bản năm 2002).
Xuất phát từ nhận thức sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định
của yếu tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn
hoá, mọi nền văn minh quốc gia. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến Giáo dục Đào tạo coi GD&ĐT là quốc sách hàng đầu. Đường lối chiến lược của Đảng ta về

Giáo dục-Đào tạo là phát huy nguồn lực con người yếu tố cơ bản của phát triển
nhanh và bền vững Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã khẳng định: “Phát triển Giáo
dục - Đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - Yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.’’ ( Trích văn kiện
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Hà Nội
trang 1008)
Chiến lược giáo dục chỉ có thể thành hiện thực, có tính khả thi cao và được
cụ thể hoá bằng kế hoạch, nếu chiến lược đó được xây dựng trên cơ sở dự báo có
tính khoa học và khả thi.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 BCH Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ rõ
một trong những biện pháp để thực hiện giải pháp đổi mới công tác quản lý Giáo
3


dục - Đào tạo là : “ Tăng cường công tác dự báo và kế hoạch hoá giáo dục, gắn
giáo dục - đào tạo vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của cả nước
và từng địa phương, có chính sách điều tiết quy mơ và cơ cấu đào tạo cho phù hợp
với nhu cầu phát triển Kinh tế- xã hội, khắc phục tình trạng mất cân đối hiện nay,
gắn đào tạo với sử dụng’’
( Trích NQ Hội nghị lần thứ 2 BCH TƯ Đảng khoá VIII trang 15).
Dự báo quy mô phát triển Giáo dục – Đào tạo là một trong những căn cứ để
xây dựng chiến lược giáo dục. Căn cứ vào những mục tiêu định lượng này chúng ta
có cơ sở để tính tốn các điều kiện về quy mơ trường, lớp, sĩ số học sinh, cơ sở vật
chất, đội ngũ cán bộ, giáo viên...đảm bảo cho việc thực hiện chiến lược phát triển
giáo dục trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong thực tế phát triển quy mơ GD-ĐT u cầu địi hỏi phải có một đội ngũ
cán bộ, giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và giỏi về chun mơn nghiệp
vụ, có phẩm chất đạo đức trong sáng. Bởi vì đội ngũ giáo viên giữ vai trò quyết
định chất lượng và hiệu quả giáo dục, là lực lượng nòng cốt trực tiếp biến mục tiêu

Giáo dục- Đào tạo thành hiện thực.
Dự báo phát triển Giáo dục-Đào tạo bao gồm nhiều nội dung, nhưng vấn đề
có tính chất quyết định cho sự phát triển Giáo dục- Đào tạo đó là đội ngũ giáo viên.
Đảng ta đã khẳng định “ Khâu then chốt để thực hiện chiến lược phát triển Giáo
dục- Đào tạo là phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, tiêu chuẩn hóa đội ngũ giáo viên
cũng như cán bộ quản lý giáo dục cả về chính trị, tư tưởng đạo đức và năng lực,
chuyên môn nghiệp vụ. Giáo viên là nhân tố và có vai trị quan trọng trong việc
quyết định sự nghiệp giáo dục trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy,
vấn đề dự báo nhu cầu giáo viên đáp ứng quy mô phát triển Giáo dục -Đào tạo là
yêu cầu cấp thiết.
Vấn đề dự báo đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, nhưng mỗi địa
phương lại có những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc điểm địa lý khác nhau,
nên công tác dự báo cũng mang những sắc thái khác nhau.
Huyên An Dương là một huyện ven nội của thành phố Hải Phịng có diện
tích tự nhiên 986, 83Km 2 , với dân số trên 170 vạn người, có tốc độ đơ thị hóa
nhanh, nhiều khu cơng nghiệp hình thành, nên dân số cơ học tăng nhanh, sĩ số học
4


sinh tăng, Trong những năm qua sự phát triển mạnh mẽ về quy mô trường lớp của
GD-ĐT huyện An Dương cho thấy cần có một quy hoạch tổng thể phát triển Giáo
dục – Đào tạo dài hạn dựa trên những cơ sở dự báo khoa học.
Thực tế đội ngũ giáo viên THCS của huyện An Dương hiện nay còn nhiều
bất cập như cơ cấu đội ngũ giáo viên chưa hợp lý, môn thừa, môn thiếu, chất lượng
đội ngũ giáo viên, chất lượng giáo dục đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế
của địa phương.
Do đó từ những vấn đề dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên THCS làm căn cứ
cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên THCS huyện
An Dương đến năm 2015 là hết sức cần thiết.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi chon đề tài: “Dự báo nhu

cầu đội ngũ giáo viên THCS huyện An Dương thành phố Hải Phòng đến năm
2015” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên THCS của Huyện An Dương từ nay đến
năm 2015; Đồng thời đề xuất các giải pháp đáp ứng nhu cầu đội ngũ giáo viên
THCS của huyện An Dương đến năm 2015.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể
Đội ngũ giáo viên THCS của huyện An Dương.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu đội ngũ giáo viên THCS của huyện An Dương thành phố Hải
Phòng đến năm 2015.
4. Giả thiết khoa học
Dựa trên dự báo của chúng tơi có thể làm công tác quy hoạch, tuyển chọn,
đào tạo và bồi dưỡng, nhằm xây dựng đội ngũ giáo viên THCS huyện An Dương
đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận của dự báo phát triển giáo dục phổ thơng nói
chung và dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên THCS nói riêng.
5


Phân tích đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên THCS của huyện An
Dương.
Dự báo quy mô phát triển THCS của huyện An Dương đến năm 2015.
Dự báo đội ngũ giáo viên THCS của huyện An Dương đến năm 2015.
Đề xuất một số giải pháp đáp ứng nhu cầu đội ngũ giáo viên THCS của
huyện đến năm 2015.
5.2 Phạm vị nghiên cứu

Các trường THCS huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
6. Các phương pháp nghiên cứu
Đề tài này sử dụng 3 nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
6.1 Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, của thành phố, của
huyện An Dương và ngành Giáo dục- Đào tạo có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Nghiên cứu, phân loại và hệ thống hóa các cơng trình khoa học, các sách
báo, tài liệu khoa học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
6.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Khảo sát, phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn về đội ngũ giáo viên THCS
và thu thập tài liệu có liên quan.
6.3 Nhóm các phương pháp nghiên cứu khác:
Các phương pháp dự báo quy mô Giáo dục- Đào tạo; phương pháp điều tra
xã hội học, phương pháp chuyên gia, phương pháp so sánh, phương pháp toán
thống kê và một số phương pháp khác...
7. Những đóng góp của đề tài
Đề tài thực hiện thành công sẽ giúp cho giáo dục huyện An Dương có một
bức tranh tồn cảnh về quy mơ phát triển giáo dục cấp THCS đến năm 2015.
Có đội ngũ giáo viên THCS của huyện An Dương đủ về số lượng, đồng bộ
về cơ cấu, có chất lương cao đáp ứng được yêu cầu giáo dục trong thời đại ngày
nay.
Có được những giải pháp đáp ứng nhu cầu đội ngũ giáo viên THCS của
huyện đến năm 2015 và những năm tiếp theo.
9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN:
6


Ngoài mở đầu và kết luận, khuyến nghị; luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của dự báo giáo dục và dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên
THCS

Chương 2: Thực trạng giáo dục THCS và đội ngũ giáo viên THCS huyện An
Dương.
Chương 3 : Dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên THCS huyện An Dương thành phố
Hải Phịng đến năm 2015.
Cuối luận văn có danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục

7


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ DỰ BÁO GIÁO DỤC VÀ DỰ BÁO NHU CẦU
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:
Trong lịch sử đã có các nghiên cứu về dự báo giáo dục. Các nhà Triết học Văn hoá trong thời đại Phục Hưng (Rabelais, Campanella, Thomas More,
Montaigne...). Các nhà sư phạm trong thời kỳ mới (Komensky, Pestalozzi,
Disterveg, Usinski...). Các nhà xã hội học không tưởng (Saint Simon, Charles,
Fourrier, Robert Owen, ...) đều đã đưa ra những ý kiến về nền giáo dục và nhà
trường tương lai gắn với những mong ước tốt đẹp về một xã hội hợp lý và những
con người toàn thiện, toàn mỹ.
Ở nước ta với lý luận và phương pháp khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin,
khoa học giáo dục đã tiến hành các nghiên cứu dự báo về nền giáo dục và nhà
trường tương lai. Đến giữa thập kỷ 70 của thế kỷ trước, các cơng trình nghiên cứu
về sự phát triển của nhà trường và xu hướng phát triển giáo dục được đẩy mạnh
với sự phối hợp của nhiều quốc gia và thu được nhiều kết quả.
Dự báo giáo dục đã được các nhà giáo dục trong và ngoài nước hết sức quan
tâm. Dự báo xu thế phát triển giáo dục và nhà trường bao gồm: Dự báo về vị trí,
vai trị và mục tiêu của giáo dục và đào tạo, nội dung, phương pháp giáo dục;
phương pháp học tập trong nhà trường hiện đại, các loại hình nhà trường, cơ sở vật
chất của nhà trường... Trong đó dự báo quy mô phát triển giáo dục - đào tạo là một
trong những nội dung được khai thác ở nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau và được

ứng dụng trong thực tiễn, làm cơ sở cho việc xây dựng các chiến lược và các kế
hoạch giáo dục - đào tạo cũng như các chiến lược và kế hoạch khác có liên quan.
Ở các nước tư bản Âu, Mỹ cũng xuất hiện khá sớm những cơng trình nghiên
cứu đề cập đến những dự báo giáo dục. Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá
Liên Hiệp Quốc (UNESCO) cũng tổ chức nhiều cuộc hội thảo, cơng bố nhiều cơng
trình nghiên cứu dự báo giáo dục với quy mơ tồn cầu hoặc từng vùng lãnh thổ. Có
8


thể kể đến một số cuộc hội thảo, cơng trình nghiên cứu dự báo giáo dục tầm cỡ
quốc tế như: Hội thảo về “Tương lai của giáo dục và giáo dục của tương lai” do
Viện quốc tế kế hoạch hoá giáo dục thuộc UNESCO tổ chức năm 1978; cơng trình
nghiên cứu “Suy nghĩ về sự phát triển tương lai của giáo dục” - UNESCO - Paris
1984.
Ở Việt Nam những công trình nghiên cứu và những phát biểu có tính chất dự
báo về nền giáo dục tương lai của đất nước thường được đề xuất trong các quá
trình chuẩn bị cải cách giáo dục và xây dựng chiến lược quốc gia theo từng giai
đoạn 5 năm, 10 năm hoặc 20 năm và tập trung chủ yếu vào các vấn đề phát triển
quy mô giáo dục và mục tiêu đào tạo. “Việc dự báo giáo dục với tư cách là một
hướng hoạt động nghiên cứu chuyên biệt mới được bắt đầu ở Viện Khoa học Giáo
dục từ những năm 1985 - 1986 do đòi hỏi của nhiệm vụ phát triển chiến lược giáo
dục”.
Mặc dù dự báo giáo dục là một ngành khoa học còn mới mẻ ở nước ta, song
kết qủa dự báo của các cơng trình nghiên cứu dự báo của các nhà khoa học, các
cán bộ quản lý giáo dục, đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng các chiến lược,
chính sách, kế hoạch phát triển giáo dục nước ta trong thời gian qua. Có thể kể đến
một số nhà khoa học và các cơng trình nghiên cứu dự báo giáo dục như: Hà Thế
Ngữ (chủ biên), Dự báo giáo dục, vấn đề và xu hướng, Viện KHGD, 1989; Đặng
Quốc Bảo: Về phương hướng phát triển sự nghiệp GD, Tạp chí Nghiên cứu giáo
dục, số 10 - 1987; Dự báo giáo dục và một số vấn đề có liên quan đến công tác dự

báo giáo dục, NXB Hà Nội 2001; Đỗ Văn Chấn: Dự báo phát triển, NXB Hà Nội
2001; Tổng cục thống kê: Dự báo dân số, học sinh đến trường và lực lượng lao
động Việt Nam (1995 - 2005); Phạm Minh Hạc: Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng
cửa thế kỷ XXI, NXB CTQG, 1999... Tuy nhiên, hầu hết các cơng trình nghiên cứu
tập trung dự báo những vấn đề giáo dục ở tầm vĩ mô, tầm khái qt. Rất hiếm cơng
trình nghiên cứu dự báo ở tầm vi mô để phục vụ cho việc xây dựng các chiến lược,
kế hoạch giáo dục của từng địa phương (tỉnh, huyện, xã...) hoặc cơ sở giáo dục nhỏ
(trường, trung tâm...), và chưa có cơng trình nghiên cứu khoa học đề cập đến dự
báo đội ngũ giáo viên THCS của huyện An Dương. Vì thế tơi chọn đề tài nghiên
cứu: “Dự báo nhu cầu giáo viên THCS của huyện An Dương đến năm 2015”.
9


Kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ đóng góp một phần cơ sở khoa học cho
những định hướng phát triển Giáo dục - Đào tạo của huyện An Dương trong thời
kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước những năm đầu thế kỷ XXI.
1.2. NHỮNG KHÁI NIỆM CHỦ YẾU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU.
1.2.1. Khái niệm dự báo.
a. Khái niệm.
Dự báo là yếu tố vốn có của hoạt động con người. Con người ngay từ thuở
mới xuất hiện trên trái đất đã phải dự báo để có thể sinh tồn và phát triển. Từ thời
thượng cổ, ở Á Đông, các sách, vở đạo lý đã ghi: “Suy xưa, ngẫm nay thì khơng
mắc sai lầm, muốn biết tương lai trước hết phải xét dĩ vãng”, ông cha ta cũng từng
nhắc nhở: Ơn cố, tri tân... đó chính là chân lý của dự báo.
Dự báo được hiểu là những kiến giải hoặc những thơng tin có căn cứ khoa
học về các trạng thái khả dĩ của đối tượng dự báo trong tương lai, về các con
đường khác nhau, thời hạn khác nhau để đạt các trạng thái tương lai đó. Từ điển
Tiếng Việt định nghĩa: “Dự báo là báo trước về tình hình có nhiều khả năng sẽ xảy
ra dựa trên cơ sở số liệu đã có” [38,261]. Xét về mặt phản ánh luận, dự báo là sự

phản ánh trước hiện thực. Dự báo dựa trên cơ sở nhận thức những quy luật vận
động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Dự báo là một khâu quan trọng nối
liền giữa lý luận và thực tiễn. Dự báo gắn liền với một khái niệm rộng hơn, đó là
“sự tiên đốn”. Nhìn trước được tương lai là cốt để hành động đúng đắn trong
ngày hôm nay, dù chỉ nhìn trước được tương lai trên những nét phác thảo với
những quan niệm và những xu thế, những tính quy luật thì điều này cũng rất cần
thiết cho những quyết định đối với hiện tại về những mục tiêu trước mắt, về việc
chuẩn bị tiềm năng cho giai đoạn phát triển tới, về thái độ đối xử đối với những đổi
mới và tiến bộ, về việc giữ vững niềm tin vào sự nghiệp trong những hồn cảnh
khó khăn, phức tạp.
Tuỳ theo mức độ cụ thể và đặc điểm tác động đến sự phát triển của hiện
tượng hoặc một quá trình được nghiên cứu, có thể chia ra 3 cấp độ tiên đoán là Giả
thuyết, Dự báo và Kế hoạch.
10


* Giả thuyết: là sự tiên đoán khoa học ở cấp lý luận chung. Cơ sở để xây dựng
các giả thuyết là lý luận về một lĩnh vực nào đó gắn với bản chất và tính quy luật
của đối tượng nghiên cứu. Giả thuyết là những sáng kiến, là hệ thống nhưng tri
thức mới được đề xuất mà khơng có nó thì khơng thể giải quyết được vấn đề
nghiên cứu. Giả thuyết mang tính chất định tính.
* Dự báo: So với giả thuyết, dự báo có tính xác định cao hơn. Dự báo khơng
chỉ mang tính chất định tính, mà cịn có tính định lượng. Dự báo là sự tiên đoán ở
cấp độ ứng dụng cụ thể. Như vậy, dự báo khác với giả thuyết ở tính cụ thể và khả
năng ứng dụng. Mặt khác, dự báo không xác lập những liên hệ chặt chẽ, đơn trị
như giả thuyết mà có tính xác suất cao hơn.
* Kế hoạch: Là sự tiên đoán những sự kiện cụ thể của tương lai bằng việc xác
định các mục tiêu cụ thể, chính xác. Đó chính là hệ thống nhiệm vụ cần thực hiện
để đạt được những mục đích nhất định. Kế hoạch cịn chỉ rõ con đường và phương
tiện, phương pháp phát triển phù hợp với những nhiệm vụ đề ra. Kế hoạch có đặc

trưng xác định và đơn trị.
Dự báo là một tài liệu tiền kế hoạch bao gồm nhiều phương án, trong đó kết
quả dự báo khơng mang tính pháp lệnh mà chỉ mang tính chất của khuyến cáo.
b. Phân loại dự báo.
Có thể phân loại dự báo theo những tiêu thức khác nhau chẳng hạn theo phạm
vi, thời gian, đối tượng. Dưới đây là một số cách phân loại dự báo chủ yếu:
+ Phân loại dự báo theo phạm vi đối tượng:
Theo sự phân loại này, ta có thể có các loại dự báo vĩ mô, dự báo vi mô, dự
báo liên ngành, dự báo khu vực, dự báo xí nghiệp, dự báo sản phẩm...
+ Phân loại dự báo theo thời gian:
Tuỳ theo thời hạn lập dự báo có thể có những loại dự báo như: dự báo tác
nghiệp, dự báo ngắn hạn, dự báo trung hạn và dự báo dài hạn.
- Thời gian dự báo dưới 1 năm được xếp vào loại dự báo tác nghiệp. Trong
giáo dục, những dự báo về sĩ số, số học sinh bỏ học hàng năm cũng được xếp vào
loại dự báo tác nghiệp.
- Thời gian dự báo 1 đến 2 năm thường được coi là dự báo ngắn hạn. Những
dự báo loại này thường được dùng trong những trường hợp ứng dụng những tiến
11


bộ khoa học kỹ thuật có nhiều triển vọng nhất, trong việc dự báo nhu cầu về một
loại sản phẩm mới xuất hiện, dự báo những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp lớn.
- Thời gian dự báo từ 5 đến 7 năm được coi là dự báo trung hạn.
- Thời gian dự báo từ 10 năm trở lên được coi là dự báo dài hạn. Những dự
báo dài hạn chủ yếu dành cho những đối tượng có tầm ảnh hưởng tương đối lớn, có
triển vọng tương lai của một lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật, xã hội.
Những dự báo có thời hạn trên 20 năm thường chỉ xác định ở mức khái quát
khả năng phát triển của đối tượng.
Việc phân loại dự báo theo thời gian như đã trình bày ở trên cũng chỉ mang
tính tương đối. Vì vậy, sự phân chia thời hạn dự báo còn phụ thuộc vào sự phân

loại dự báo theo đối tượng.
+ Phân loại dự báo theo đặc trưng của đối tượng:
- Dự báo sự vận động, phát triển của quan hệ sản xuất.
- Dự báo tiến bộ khoa học - công nghệ.
- Dự báo các tiền đề và điều kiện kinh tế - xã hội, của tiến bộ khoa học - công
nghệ.
- Dự báo tiến bộ xã hội.
- Dự báo động thái kinh tế quốc dân.
- Dự báo tái sản xuất sức lao động, đào tạo cán bộ
- Dự báo sử dụng tài nguyên thiên nhiên
- Dự báo đầu tư xây dựng cơ bản.
- Dự báo nâng cao mức sống nhân dân, dự báo dân số, dự báo sinh thái.
+ Phân loại dự báo theo chức năng:
Theo chức năng dự báo, có các loại dự báo sau:
- Dự báo tìm kiếm: Dựa trên cơ sở tiếp tục trong tương lai những xu thế phát
triển đã có trong quá khứ và hiện tại, khơng tính đến những điều kiện có thể làm
biến dạng những xu thế này. Nhiệm vụ của dự báo tìm kiếm là làm sáng tỏ xem đối
tượng nghiên cứu sẽ phát triển, biến đổi như thế nào trong tương lai nếu giữ
nguyên những xu thế đã có.

12


- Dự báo định chuẩn: Được xây dựng trên cơ sở mục tiêu đã xác định trước.
Nhiệm vụ của dự báo này là phát hiện những con đường và thời hạn đạt tới mục
tiêu đã định của đối tượng dự báo.
1.2.2. Nhu cầu giáo viên.
Nhu cầu giáo viên là số lượng giáo viên cần thiết nhằm đáp ứng sự phát triển
giáo dục của cả ngành, của địa phương, của trường học trong thời kỳ đó cả về mặt
số lượng, chất lượng và cơ cấu trình độ của đội ngũ.

Nhu cầu giáo viên được phân chia ra các loại như sau:
1. Nhu cầu chung (nhu cầu toàn bộ) là tổng số giáo viên cần thiết cho ngành
giáo dục trong thời kỳ kế hoạch (1 năm, 5 năm, 10 năm, ...) để đảm bảo hoàn thành
kế hoạch giáo dục.
2. Nhu cầu phát triển là số lượng giáo viên cần tăng thêm trong suốt thời kỳ
kế hoạch nhằm đảm bảo nhu cầu giáo viên theo nhu cầu toàn bộ.
3. Nhu cầu thay thế là số lượng giáo viên cần để thay thế số giáo viên thuyên
chuyển về hưu, mất sức lao động, thôi việc hoặc vì một lý do nào đó trong thời kỳ
kế hoạch.
4. Tổng số nhu cầu phát triển và nhu cầu thay thế giáo viên trong thời kỳ kế
hoạch được gọi là nhu cầu bổ sung giáo viên.
5. Phụ thuộc vào độ dài của thời kỳ kế hoạch, nhu cầu (toàn bộ và bổ sung)
giáo viên được phân ra nhu cầu thường xuyên và nhu cầu triển vọng.
6. Tỷ lệ giữa số lượng giáo viên có trình độ đại học, cao đẳng và số lượng
giáo viên có trình độ trung học chuyên nghiệp trong tổng số giáo viên gọi là cơ cấu
trình độ giáo viên.
7. Nhu cầu giáo viên có trình độ đại học, cao đẳng và trung học chuyên
nghiệp trên phương diện các ngành được đào tạo trong các trường đại học, cao
đẳng và trung học chuyên nghiệp hình thành cơ cấu giáo viên theo bộ mơn.
Có thể biểu diễn mối liên hệ giữa nhu cầu chung, nhu cầu phát triển, nhu cầu
thay thế, nhu cầu bổ sung bằng sơ đồ sau đây:

13


Số lượng
GV có ở
thời điểm
hiện tại


Nhu cầu bổ sung

Nhu cầu phát
triển

Nhu cầu
toàn bộ
GV ở
thời điểm
dự báo

Nhu cầu
thay thế

Thời điểm hiện tại

Thời điểm dự báo

Thời gian

Sơ đồ 1: Sơ đồ về mối liên quan các loại nhu cầu
Nhu cầu ( Số lượng giáo viên)
1.2.3. Khái niệm dự báo giáo dục, dự báo nhu cầu giáo viên và ý nghĩa của
chúng.
Từ khái niệm dự báo nói chung, chúng ta có thể quan niệm dự báo giáo dục
như sau:
Dự báo giáo dục là xác định trạng thái tương lai của hệ thống Giáo dục - Đào
tạo với một xác suất nào đó. Quá trình dự báo này có thể phác hoạ theo sơ đồ sau:
Các nhân tố
ảnh hưởng


Hiện trạng
GD-ĐT

Trạng tháitương lai
với xác suất P1

Trạng thái quán tính của hệ
thống GD-ĐT

Trạng tháitương lai
với xác suất P2

Các nhân tố
ảnh hưởng

Trạng tháitương lai
với xác suất P3

Sơ đồ 2: Sơ đồ phác hoạ quá trình dự báo
14


Có thể mơ tả q trình dự báo trên bằng mơ hình tốn học với đồ thị dạng
tổng qt sơ đồ sau:
Trạng thái của
hệ thống GD

Trạng thái
tương lai


Hiện trạng

B

A

y=f(x1,x2,...,xn)

Thời điểm
hiện tại

Thời điểm
tương lai

Sơ đồ 3: Sơ đồ mô tả quá trình dự báo
Trong đó:
- y: đại lượng đặc trưng cho đối tượng dự báo
- f(x): là hàm xu thế với n biến số; xi là nhân tố ảnh hưởng thứ i
Trên quan điểm hệ thống chúng ta biết rằng GD - ĐT là môt hệ thống con
trong hệ thống lớn kinh tế xã hội. Hệ thống GD - ĐT được xem xét dưới góc độ
khác nhau như theo số lượng, chất lượng bậc học, mạng lưới phân phối, sở hữu,
ngành nghề đào tạo... Do đó dự báo nhu cầu giáo viên không thể tách rời dự báo
quy mô GD - ĐT nói riêng và dự báo GD - ĐT nói chung.
Dự báo giáo dục có ý nghĩa định hướng, làm cơ sở khoa học cho việc xác
định các phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu của GD - ĐT.
Dự báo GD - ĐT bao gồm một số dự báo chủ yếu sau:
- Về những điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội trong đó hệ thống giáo dục
quốc dân sẽ vận hành và phát triển.
- Về những yêu cầu mới của xã hội đối với người lao động, đối với sự phát

triển nhân cách của con người.
- Về những biến đổi trong tính chất, mục tiêu và cấu trúc của hệ thống giáo
dục do các tác động của quá trình xã hội.
15


- Về những thay đổi trong nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học và giáo dục do địi hỏi của tiến bộ khoa học cơng nghệ và của tăng trưởng,
phát triển kinh tế - xã hội.
- Về những biến đổi dân số: Quy mô, cơ cấu, phân bố dân cư trên địa bàn lãnh
thổ.
- Về những biến đổi của đội ngũ giáo viên (số lượng, cơ cấu, trình độ), của cơ
sở vật chất trường học, thiết bị kỹ thuật dạy học và tổ chức quản lý hệ thống Giáo
dục – Đào tạo.
Như vậy, đối tượng của dự báo GD - ĐT là hệ thống giáo dục quốc dân của
một nước, một địa phương với những đặc trưng về quy mơ phát triển, cơ cấu loại
hình, mạng lưới trường lớp, đội ngũ giáo viên, chất lượng đào tạo, tổ chức sư
phạm...
* Ý nghĩa của dự báo giáo dục và dự báo nhu cầu giáo viên.
Dự báo giáo dục giúp ta nhìn trước tương lai, dù chỉ là những nét phác thảo để
từ đó có những hành động đúng và chủ động những bước đi phù hợp với từng giai
đoạn phát triển, cũng như chuẩn bị các tiềm năng để đón đầu sự phát triển hoặc hạn
chế những khó khăn, trở ngại có thể xảy ra trong tương lai.
Dự báo phát triển GD - ĐT là một trong những căn cứ cần thiết quan trọng và
có ý nghĩa lớn trong xây dựng chiến lược giáo dục, giúp con người thoát khỏi tư
duy kinh nghiệm, trực giác hoặc mơ hồ và là một trong những căn cứ quan trọng
của việc xây dựng quy hoạch Giáo dục – Đào tạo.
Phát triển giáo dục có ý nghĩa là tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Do
vậy dự báo giáo dục cịn có ý nghĩa định hướng trong tồn bộ hệ thống dự báo về
văn hoá và kinh tế xã hội. Dự báo kinh tế xã hội phải tính đến dự báo giáo dục.


16


Chính trị

Giáo

dục

Xã hội

Xã hội

Văn hố

Sơ đồ 4: Giáo dục tác động đến kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội
Đội ngũ giáo viên là một trong những điều kiện cơ bản bên trong, đáp ứng
nhu cầu phát triển GD - ĐT. Do đó, dự báo nhu cầu giáo viên là một trong những
nhu cầu hết sức cần thiết cho việc xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển GD ĐT. Công tác dự báo nhu cầu giáo viên sẽ giúp chúng ta xác định được bước đi
hợp lý, khoa học trong việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, đáp ứng yêu
cầu về số lượng, cơ cấu loại hình giáo viên trước yêu cầu phát triển GD - ĐT, đáp
ứng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỰ BÁO
1.3.1. Những tiếp cận khi lập dự báo:
Phương pháp luận của dự báo nghiên cứu tương lai của đối tượng dự báo dưới
các khía cạnh của bản thể luận, lơgíc học và nhận thức luận.
- Khía cạnh bản thể luận cho biết tương lai của đối tượng sẽ phát sinh, hình
thành như thế nào, mơ tả bức tranh tồn cảnh của tương lai đó, đồng thời chỉ ra
những nhân tố sẽ ảnh hưởng đến tương lai của đối tượng dự báo.

- Khía cạnh lơgic học xem xét dự báo như những khái niệm khoa học chung
nhất nhằm giải thích nội dung khách quan của quá trình và kết quả lập dự báo.
- Khía cạnh nhận thức luận có nhiệm vụ làm sáng tỏ tương lai được phản ánh
như thế nào trong nhận thức của con người, các hình thức phản ánh và tính chính
xác của những phản ánh đó.

17


Phép biện chứng duy vật với những quy luật phổ quát của mình là cơ sở
phương pháp luận của mọi dự báo khoa học. Trong hệ thống các quy luật đó, khi
tiến hành lập dự báo chúng ta đặc biệt lưu tâm đến nguyên lý về mối liên hệ nhân
quả, một mặt là cơ sở khoa học của các tiên đoán, dự báo, mặt khác là nền tảng,
chỗ dựa cho những hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện các mục tiêu dự báo.
Gắn liền với nguyên lý nhân quả là một nguyên lý quan trọng khác của phép
biện chứng duy vật, đó là nguyên lý quyết định luận duy vật, thuyết duy vật về tính
quy định nhân quả của tất cả các hiện tượng. Tính chất quyết định luận duy vật
biện chứng khẳng định rằng tương lai được xác định khơng hồn tồn bởi cái hiện
hữu mà tồn tại một độ nhất định nào đó đối với các sự kiện, đối tượng được dự
báo. Điều đó có nghĩa là ở mỗi thời điểm của sự phát triển, có nhiều khả năng,
nhiều con đường khác nhau để đạt tới trạng thái tương lai. Mặt khác nguyên lý
quyết định luận duy vật cũng khẳng định rằng đặc trưng xác suất của trạng thái
tương lai không ngăn cản việc dự báo các trạng thái đó, mà ngược lại. Cách tiếp
cận xác suất để tiên định tương lai lại là một tiền đề quan trọng của dự báo có tính
khoa học hiện đại.
Trong bất cứ hiện tượng xã hội nào, nếu xem xét trong q trình phát triển
của nó đều có mối liên hệ với quá khứ. Như vậy, từ mối liên hệ giữa quá khứ, hiện
tại và tương lai đòi hỏi phải xem xét tương lai của đối tượng như một khả năng tồn
tại tiếp diễn của cái hiện tại và quá khứ. Điều đó có nghĩa là việc lập dự báo phải
gắn liền với việc dịch chuyển các quy luật, xu thế đã và đang tồn tại vượt ra ngoài

cái ngưỡng của hơm nay, trên cơ sở đó xác định mơ hình tương lai của đối tượng
dự báo. Sự dịch chuyển xu thế, quy luật hay tính quy luật này khơng phải là sự
chuyển dịch cơ giới, mà phải là sự chuyển dịch biện chứng. Vì vậy, phải xem xét
các quy luật ấy, xu thế ấy trong sự biến đổi, phát triển của chúng. Nếu ngược lại,
chỉ là phép ngoại suy đơn giản thì kết quả thu được khơng phải là tương lai của sự
phát triển mà chỉ là khẳng định, nhìn lại những gì diễn ra trong q khứ.
Một khía cạnh khác của cách tiếp cận lịch sử là sự liên hệ của dự báo với thực
tiễn. Thực tiễn là cơ sở cho những dự báo kinh tế - xã hội và các dự báo khác.
Thực tiễn không thể xem xét cơ lập với sự phát triển của nó. Trong mối quan hệ
hữu cơ với thực tiễn, dự báo không dừng lại ở mức độ nhận thức, dù là nhận thức
18


trước, nhận thức đón đầu, mà phải trở thành cơng cụ tác động vào hoạt động thực
tiễn của con người nhằm cải tạo hiện thực khách quan.
Cách tiếp cận này dựa trên nguyên lý của phép biện chứng duy vật về mối
liên hệ phổ quát của các hiện tượng và sự vật. Cách tiếp cận phức hợp xem xét các
hiện tượng sự vật trong mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau bằng cách sử
dụng các thành tựu, các phương pháp của nhiều khoa học khác nhau cùng nghiên
cứu hiện tượng, sự vật làm bộc lộ đầy đủ các khía cạnh của bản chất sự vật, hiện
tượng được nghiên cứu. Cách tiếp cận phức hợp thể hiện đặc biệt rõ rệt trong dự
báo giáo dục. Dự báo giáo dục đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành khoa học và
với các phương pháp nghiên cứu khác nhau. Đó là: triết học, tâm lý học, giáo dục
học, kinh tế học, dân số học, toán học...
Phương pháp tiếp cận cấu trúc - hệ thống là xem xét nghiên cứu đối tượng dự
báo như một hệ thống toàn vẹn trong sự vận động phát triển của nó. Đồng thời, các
đối tượng được nghiên cứu, được xem xét dưới góc độ của mỗi thành tố trong sự
liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Trên cơ sở đó, phát hiện các quy luật vận
động, phát triển của mỗi thành tố, của các quan hệ cũng như của toàn bộ đối tượng
với tư cách là một hệ thống trọn vẹn. Trong dự báo giáo dục, tiếp cận cấu trúc - hệ

thống đóng một vai trò quan trọng. Cách tiếp cận này cho phép tiến hành nghiên
cứu cục bộ cũng như toàn cục sự phát triển giáo dục, làm tiền đề cho việc hoạch
định chính sách phát triển giáo dục của một địa phương hay cả nước một cách khoa
học.
1.3.2. Các nguyên tắc dự báo.
Khi lập dự báo, cần xuất phát từ mục tiêu và lợi ích tồn cục của quốc gia
(cộng đồng, quốc tế) trên cơ sở tính tốn khoa học sự phát triển kinh tế - xã hội và
tiến bộ khoa học công nghệ. Nguyên tắc này đặc biệt quan trọng trong quá trình
soạn thảo các dự báo giáo dục, bởi vì giáo dục có liên quan chặt chẽ đến định
hướng phát triển của tồn xã hội, đến thể chế chính trị, đến mục tiêu và yêu cầu
của sự phát triển kinh tế, đến những khả năng và đòi hỏi của sự phát triển khoa học
công nghệ.
Các dự báo phải được xây dựng trên cơ sở một hệ thống hoàn chỉnh các mơ
hình và phương pháp có mối liên hệ với nhau, làm nền tảng cho nhau. Tính hệ
19


thống của dự báo đòi hỏi phải xây dựng một trật tự chặt chẽ việc hình thành và xây
dựng các mơ hình dự báo cho một dự báo có tính phức hợp của đối tượng.
Các dự báo được xây dựng trên cơ sở những tính tốn, luận chứng khoa học,
có tính đến những quy luật vận động, phát triển của đối tượng dự báo, những quan
sát, dữ liệu khách quan và tin cậy.
Đòi hỏi những dự báo được lập ra phải tương thích với quy luật, với xu thế
phát triển khách quan của đối tượng dự báo. Hơn nữa, các dự báo phải phù hợp với
khả năng thể hiện thực tế chúng trong tương lai.
Dự báo phải gắn liền với khả năng phát triển của đối tượng theo những quỹ
đạo, những con đường khác nhau. Tính đa phương án một bề mặt là thể hiện sức
mạnh của những tiên đoán có cơ sở khoa học, cho phép cơ quan quản lý (người sử
dụng dự báo) có khả năng lựa chọn những phương án hợp lý tối ưu nhằm điều
khiển sự phát triển của đối tượng dự báo theo mục tiêu đã định.

1.3.3. Các phương pháp dự báo.
Phương pháp dự báo là cách thức, là những con đường dẫn tới mục tiêu đã đề
ra trong một nhiệm vụ dự báo cụ thể.
Phương pháp dự báo tập hợp các thao tác và thủ pháp tư duy khoa học, các
kinh nghiệm thực tiễn cho phép đưa ra những tiên đốn, phán đốn có độ tin cậy
nhất định về trạng thái khả dĩ trong tương lai của đối tượng dự báo.
Việc phân loại các phương pháp dự báo có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan
trọng. Có thể phân loại các phương pháp dự báo theo các dấu hiệu như: Mức độ
hình thức hoá, nguyên tắc chung của các thủ tục lập dự báo, cách thức thu nhận
thông tin.
Theo cách thu nhận thông tin, phương pháp dự báo được phân loại:
- Các phương pháp trực quan (các phương pháp đánh giá của chuyên gia).
- Các phương pháp hình thức hố: Gồm các phương pháp ngoại suy và các
phương pháp mơ hình hố.
Để dự báo quy mô phát triển Giáo dục - Đào tạo, thường hay sử dụng các
phương pháp dự báo sau:
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp ngoại suy theo hàm xu thế.
20


- Phương pháp tương quan hồi quy.
- Phương pháp sơ đồ luồng.
- Phương pháp so sánh (trong nước và quốc tế).
1.3.3.1. Phương pháp chuyên gia:
Phương pháp chuyên gia là một trong những công cụ hữu hiệu để dự báo
những vấn đề có tầm bao quát phức tạp nhất định, có nhiều chỉ tiêu và yếu tố liên
quan thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Phương pháp này thường được sử dụng trong các trường hợp sau:
+ Khi đối tượng dự báo phụ thuộc vào nhiều yếu tố cịn chưa có hoặc còn

thiếu những cơ sở lý luận chắc chắn để xác định.
+ Trong những điều kiện thiếu thông tin, thiếu thống kê đầy đủ và chưa đáng
tin cậy về đặc tính của đối tượng dự báo.
+ Trong điều kiện thiếu thời gian hoặc hoàn cảnh cấp bách của việc dự báo.
- Việc áp dụng phương pháp này phải tiến hành theo một trình tự khoa học.
Tuỳ theo hình thức thu thập và xử lý ý kiến chuyên gia, phương pháp chuyên
gia được thơng qua hai hình thức: Hội đồng (lấy ý kiến tập thể các chuyên gia) và
phương pháp DELPHI (lấy ý kiến từng chuyên gia rồi tổng hợp lại).
1.3.3.2. Phương pháp ngoại suy xu thế.
Các phương pháp ngoại suy là những phương pháp thông dụng nhất trong các
dự báo định lượng. Các phương pháp ngoại suy dựa trên luận điểm cho rằng mọi
biến cố trong tương lai đều bắt nguồn từ hôm nay. Các phương pháp ngoại suy
chấp nhận giả định cho rằng các xu hướng của đối tượng nghiên cứu phát triển
theo các quy luật và các quy luật này khơng thay đổi hoặc ít nhất cũng tương đối
ổn định trong thời hạn dự báo. Các quy luật này phản ánh các quan hệ khách quan
và chịu tác động của các nhân tố đó.
a. Phương pháp ngoại suy theo dãy thời gian:
Là một phương pháp ngoại suy thông dụng nhất. Nội dung của phương pháp
như sau: Thiết lập mối quan hệ giữa sự phát triển của đối tượng dự báo theo thời
gian. Các kết quả quan sát đối tượng được sắp xếp trình tự theo các thời gian tương
ứng. Để phản ánh đúng xu thế khách quan đòi hỏi thời gian phải là đại lượng đồng
nhất (ví dụ hàng năm, hoặc 5 năm...) chọn mơ hình tốn học tương thích với các
21


quy luật phác ra theo dãy thời gian (các dạng hàm số dùng để dự báo, xem phụ
lục...)
Phương pháp ngoại suy thường dùng là phương pháp ngoại suy theo quan hệ
tỷ lệ (còn gọi là phương pháp quan hệ tỉ lệ) là một phương pháp ngoại suy theo dãy
thời gian. Đây là phương pháp khá thông dụng trong dự báo giáo dục nói chung và

dự báo nhu cầu phát triển đội ngũ giáo viên nói riêng. Phương pháp này dựa trên
mối quan hệ tỉ lệ giữa 2 đối tượng dự báo trong một khoảng thời gian nhất định đã
biết, để xác lập giá trị hệ số dự báo trong tương lai và đưa ra cơng thức tính giá trị
của đối tượng dự báo. Sử dụng phương pháp này cần chú ý tính chính xác của hệ
số dự báo vì hệ số dự báo càng chính xác thì kết quả dự báo cũng chính xác và
ngược lại.
Nội dung của phương pháp này như sau:
Gọi đối tượng dự báo là Y, gọi nhân tố tác động đến đối tượng dự báo là X.
Người ta thiết lập quan hệ tỷ lệ như sau:
Ki = trong đó i là số lần quan sát với i = 1, ...n.
Dựa vào công thức trên người ta xác định các K i trong quá khứ và xem xét
quy luật phát triển của nó theo thời gian.
Phương pháp tỷ lệ học sinh đến trường:
Phương pháp tỷ lệ học sinh đến trường là một trường hợp cụ thể của phương
pháp quan hệ tỷ lệ nói trên. Để dự báo tỷ lệ học sinh đến trường, người ta thường
sử dụng phương pháp này. Theo cơng thức: Ki =
Trong đó:

Yi là số lượng học sinh đến trường theo từng cấp học.
Xi là số lượng dân trong độ tuổi đi học theo cấp học.
Ki là tỷ lệ học sinh đến trường.

Ta có Yi = Ki . Xi
Để áp dụng phương pháp trên, cần có các số liệu sau:
- Dự báo số người trong độ tuổi đi học.
- Tỷ lệ học sinh của từng cấp theo dự báo theo từng năm. Như vậy, để có
được số liệu thứ nhất (dân số trong độ tuổi) cần phải dự báo số dân trong cả nước
và từng địa phương. Để có được số liệu tỷ lệ đi học, người ta thường sử dụng
phương pháp ngoại suy theo dãy thời gian.
22



b. Phương pháp tương quan:
Phương pháp tương quan là phương pháp giúp ta phát hiện xu hướng biến đổi
của hiện tượng nghiên cứu trong mối liên hệ với một hoặc vài nhân tố khác trên cơ
sở các quan sát thống kê trong quá khứ và từ đó suy cho tương lai.
Hai nhân tố X và Y được gọi là có quan hệ tương quan với nhau nếu ứng với
một giá trị nào đó của X thì Y nhận một trong các giá trị có thể của nó một cách
ngẫu nhiên.
Hàm số tương quan giữa X và Y được biểu diễn một cách tổng quát là
Y = f(x).
Tương tự, nếu Y được xem xét trong mối liên hệ với nhiều nhân tố (X 1, X2,
X3, ...Xn), ta sẽ có mối quan hệ tương quan đa nhân tố. Hàm tương quan đa nhân tố
được biểu diễn tổng quát như sau: Y = f (X1, X2, X3, ...Xn).
Trong đó Y là đối tượng cần dự báo.
f là hàm số; X1, X2, X3, ...Xn là các yếu tố tác động đến đối tượng dự báo.
1.3.3.3. Phương pháp chuyển bậc học (sơ đồ luồng).
Phương pháp này dựa vào 3 tỷ lệ: lên lớp, lưu ban, bỏ học theo từng cấp học.
Đây là phương pháp thường dùng để dự báo quy mô học sinh. Phương pháp này có
thể cho phép ta tính tốn “luồng” học sinh suốt cả hệ thống giáo dục phổ thông,
dựa vào 3 tỷ lệ quan trọng:
- Tỉ lệ học sinh lên lớp P.
- Tỉ lệ học sinh lưu ban R
- Tỉ lệ học sinh bỏ học D.

Năm học

Số học sinh

Số học sinh

23


nhập học
đầu cấp

Lớp 6

Lớp 7

Lớp 8

Lớp 9

T1

N1

E1.1

E2.1

E3.1

E4.1

T2

N2


E1.2

E2.2

E3.2

E4.2

T3

N3

E1.3

E2.3

E3.3

E4.3

T4

N4

E1.4

E2.4

E3.4


E4.4

Sơ đồ 1.5. Biểu diễn sơ đồ luồng
Theo sơ đồ trên thì số lượng học sinh lớp 6 ở năm học T 2 sẽ được tính bằng
cơng thức: E1.2 = N2 + (E1.1 x R1.1)
Trong đó:

E1.2 là số học sinh lớp 6 ở năm học T2
N2 là số lượng học sinh nhập học vào lớp 6 ở năm học T2
E1.1 là số học sinh lớp 6 ở năm học thứ T1
R1.1 là tỉ lệ lưu ban của lớp 6 ở năm học thứ T1

Số lượng học sinh lớp 7 năm học thứ T2 sẽ được tính là:
E2.2 = (E1.1 x P1.1) + (E2.1 x R2.1)
Tương tự như thế ta có thể tính được số lượng học sinh cho các lớp 8, 9,... ở
các năm T2 hoặc tính cho học sinh lớp n ở năm học thứ Tn.
Dùng mơ hình sơ đồ luồng để dự báo ta thấy phương pháp này có thể áp dụng
để dự báo một cách khá chính xác quy mơ học sinh phổ thơng.
Để dự báo được chính xác phải nắm chắc các yếu tố:
+ Dân số trong độ tuổi nhập học trong kỳ dự báo
+ Tỉ lệ nhập học tương lai
+ Tỉ lệ lưu ban, lên lớp, chuyển cấp trong tương lai.
1.3.3.4. Phương pháp định mức.
Phương pháp định mức thường được sử dụng trong dự báo nhu cầu giáo viên.
Đây là phương pháp dựa trên cơ sở định mức giáo viên/ lớp, hoặc định mức số giờ/
lớp của giáo viên. Ta có các phương pháp định mức sau:
a. Phương pháp định mức giáo viên/ lớp.
Nhu cầu giáo viên được tính theo công thức: K = G.D
24



Trong đó:

K là nhu cầu giáo viên cần dự báo;G là số lớp của mỗi thời kỳ;

D là định mức giáo viên/ lớp.
Định mức D tuỳ thuộc vào từng cấp học và sẽ được tăng lên theo sự phát triển
của chất lượng giáo dục. Đối với THCS thì D = 1,90 (theo thông tư số
35/2006/TTLB-BGD&ĐT - BNV ngày 23/8/2006 của Liên Bộ GD&ĐT và Bộ Nội
vụ dành cho giáo viên THCS).
b. Phương pháp định mức học sinh/ giáo viên
Nhu cầu giáo viên được tính theo cơng thức K =
Trong đó: K là nhu cầu giáo viên cần dự báo;Y là số lượng học sinh đến
trường trong từng thời kỳ; D là định mức học sinh/ giáo viên.
c. Phương pháp định mức tải trọng.
Nhu cầu giáo viên được tính theo cơng thức: K =
Trong đó: K là nhu cầu giáo viên cần dự báo; Q là khối lượng công tác hàng
tuần; P là định mức số giờ dạy của một giáo viên / tuần.
Theo Thơng tư mới số 35/2006/TTLB-BGD&ĐT-BNV thì P = 19 tiết.
* Lựa chọn phương pháp dự báo.
Có nhiều phương pháp dự báo, mỗi phương pháp dự báo có những ưu điểm
riêng và đòi hỏi phải đáp ứng những điều kiện nhất định khi áp dụng nó. Do đó
việc lựa chọn phương pháp dự báo có vai trị quan trọng để đảm bảo độ chính xác
của dự báo. Để lựa chọn được các phương pháp phù hợp với nhiệm vụ dự báo nhu
cầu giáo viên thường phải đảm bảo các điều kiện và các nguyên tắc chung sau:
a. Có hệ thống số liệu, tư liệu đáp ứng yêu cầu của phương pháp.
b. Phương pháp phản ảnh tốt nhất những mối liên hệ cơ bản, khách quan của
đối tượng dự báo với các nhân tố ảnh hưởng.
c. Phương pháp phù hợp với khả năng các phương tiện tính tốn hiện có.
d. Cần áp dụng một vài phương pháp dự báo khác nhau để có thể so sánh,

phân tích, tìm ra phương án hợp lý.
Phương án hợp lý là phương án phát huy được khả năng tối đa các nguồn lực
và có tính khả thi cao nhất. Trong dự báo người ta đưa ra các phương án khác
nhau, thường là ở ba mức độ: tối đa, trung bình và tối thiểu. Việc đề xuất nên chọn
phương án dự báo nào thường nhờ vào phương pháp chuyên gia.
25


×