Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Dự báo nhu cầu giáo viên trung học phổ thông huyện an biên tỉnh kiên giang giai đoạn 2011 đến năm 2015 luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.15 KB, 109 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Vấn đề con người và chiến lược con người đã được đề cập nhiều trong các
văn kiện của Đảng và Nhà nước. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu tồn
quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định rõ mục tiêu của chiến lược phát triển KT–
XH đến năm 2010 là: “đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực
kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường XHCN
được hình thành về cơ bản; vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
[6]
Để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững thì phải có
nguồn lực tương xứng. Do đó, công tác giáo dục và đào tạo được coi là một
động lực quan trọng thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước.
Chiến lược giáo dục chỉ có thể thành hiện thực, có tính khả thi cao và
được cụ thể hố bằng kế hoạch nếu như chiến lược đó được xây dựng trên cơ sở
dự báo có tính khoa học và khả thi. Dự báo giúp chúng ta thấy được những xu
hướng phát triển, từ đó có thể nhận thức và chủ động đón nhận tương lai.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII đã chỉ rõ một trong những biện pháp để thực hiện giải pháp đổi mới công
tác quản lý Giáo dục – Đào tạo là: “tăng cường công tác dự báo và kế hoạch hoá
giáo dục, gắn GD và Đào tạo vào quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của cả
nước và từng địa phương, có chính sách điều tiết quy mơ và cơ cấu đào tạo cho
phù hợp với nhu cầu phát triển KT-XH, khắc phục tình trạng mất cân đối hiện
nay, gắn đào tạo với sử dụng”. [5]
Dự báo phát triển GD-ĐT bao gồm nhiều nội dung, nhưng vấn đề có tính
chất quyết định cho sự phát triển GD-ĐT là vấn đề đội ngũ giáo viên. Đảng ta

1



cũng đã khẳng định “Khâu then chốt để thực hiện chiến lược phát triển GD-ĐT
là phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, tiêu chuẩn hoá đội ngũ giáo viên cũng như
cán bộ quản lý giáo dục cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức và năng lực chưyên
môn, nghiệp vụ”. Giáo viên là nhân tố có vai trị quan trọng và quyết định sự
nghiệp giáo dục trong thời kỳ CNH, HĐH. Vì vậy vấn đề dự báo nhu cầu giáo
viên đáp ứng quy mô phát triển GD-ĐT là yêu cầu cấp thiết.
Sự phát triển nhanh về quy mô, cơ cấu và mạng lưới trường, lớp của
huyện An Biên tỉnh Kiên Giang những năm qua địi hỏi cấp thiết có một quy
hoạch tổng thể phát triển GD - ĐT dài hạn dựa trên những dự báo khoa học. Tuy
nhiên, vấn đề dự báo đội ngũ giáo viên trung học phổ thông huyện An Biên tỉnh
Kiên Giang chưa có ai nghiên cứu sâu sắc, đội ngũ giáo viên THPT An Biên
hiện nay vẫn cịn nhiều bất cập, tình trạng cơ cấu đội ngũ giáo viên theo từng bộ
môn chưa hợp lý; chất lượng đào tạo và bồi dưỡng chưa đáp ứng được yêu cầu
giáo dục của địa phương.
Do đó, vấn đề dự báo nhu cầu giáo viên THPT làm căn cứ cho việc xây
dựng kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên THPT đến năm 2015 là
hết sức cần thiết, trong khi đó, ở An Biên chưa có cơng trình nào nghiên cứu về
vấn đề này.
Với cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu trên, tôi chọn đề tài: “Dự báo nhu cầu
đội ngũ giáo viên THPT huyện An Biên tỉnh Kiên Giang từ năm 2010 đến năm
2015”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở hệ thống hố các vấn đề lý luận về công tác dự báo, quy hoạch, kế
hoạch phát triển giáo dục và thực trạng của quy mô học sinh, đội ngũ giáo viên
THPT của huyện An Biên tỉnh Kiên Giang, dự báo nhu cầu giáo viên THPT
huyện An Biên tỉnh Kiên Giang từ nay đến năm 2015; đồng thời đề xuất các giải
pháp đáp ứng nhu cầu giáo viên THPT đến năm 2015.
3. Giả thuyết khoa học:


2


Đội ngũ giáo viên trung học phổ thông huyện An Biên tỉnh Kiên Giang sẽ
phát triển cân đối, đồng bộ, đáp ứng đầy đủ số lượng và có cơ cấu hơp lý đáp
ứng nhu cầu sự nghiệp phát triển giáo dục trung học phổ thông, giáo dục của địa
phương, nếu xây dựng được dự báo nhu cầu giáo viên THPT huyện An Biên có
căn cứ khoa học và khả thi trong thực tiễn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn này thực hiện các nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về dự báo phát triển giáo dục phổ thông nói
chung và dự báo nhu cầu giáo viên THPT nói riêng.
- Phân tích đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên THPT của huyện An Biên
tỉnh Kiên Giang.
- Dự báo quy mô phát triển học sinh THPT của huyện An Biên tỉnh Kiên
Giang đến năm 2015.
- Dự báo nhu cầu (nhu cầu chung và nhu cầu bổ sung) đội ngũ giáo viên
THPT của huyện An Biên tỉnh Kiên Giang (cả về số lượng và cơ cấu) đến năm
2015.
- Đề xuất một số giải pháp đáp ứng nhu cầu giáo viên THPT đến năm 2015.
5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
5.1.Khách thể:
Đội ngũ giáo viên THPT của huyện An Biên tỉnh Kiên Giang
5.2.Đối tượng nghiên cứu
Dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên THPT của huyện An Biên tỉnh Kiên Giang
đến năm 2015.
6. Phạm vi nghiên cứu:
Cấp THPT của huyện An Biên tỉnh Kiên Giang. Cấp học này đặt trọng tâm
vào dự báo nhu cầu giáo viên THPT chủ yếu về số lượng và cơ cấu đến năm
2015.

7. Các phương pháp nghiên cứu:

3


Đề tài này sử dụng 3 nhóm phương pháp chủ yếu sau:
7.1. Nhóm các phưong pháp nghiên cứu lý luận:
Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp…
Nghiên cứu các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, tỉnh, huyện
ngành và các sách báo, tài liệu khoa học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Khảo sát điều tra, phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn về đội ngũ giáo
viên THPT và thu thập các số liệu, tài liệu có liên quan, trao đổi với chuyên
gia….
7.3. Nhóm các phương pháp nghiên cứu khác:
Phương pháp toán thống kê, phương pháp định mức, một số phương pháp
khảo nghiệm….
8. Cấu trúc luận văn:
Ngoài mở đầu và kết luận, kiến nghị; luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của dự báo giáo dục và dự báo nhu cầu đội ngũ giáo
viên.
Chương 2: Thực trạng giáo dục THPT và đội ngũ giáo viên THPT huyện An
Biên tỉnh Kiên Giang.
Chương 3: Dự báo nhu cầu giáo viên THPT huyện An Biên tỉnh Kiên Giang
đến năm 2015.
Cuối luận văn có danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục.

4



CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ BÁO GIÁO DỤC VÀ DỰ BÁO
NHU CẦU ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
1.1. Sơ lược về lịch sử của vấn đề nghiên cứu:
Trong lịch sử giáo dục học, những yếu tố dự báo sư phạm được tìm thấy
trong hệ thống sư phạm của các nhà giáo dục học xuất sắc. Các nhà triết học –
Văn hóa trong thời đại Phục Hưng (Rabelais, Campanella, Thomas More,
Montaigne…). Các nhà sư phạm trong thời kỳ mới (Komensky, Pestalozzi,
Disterveg, Usinski…). Các nhà xã hội học không tưởng (Saint Simon, Charles,
Fourrier, Robert Owen…) đều đã đưa ra những ý kiến về nền giáo dục và nhà
trường tương lai gắn với những mong ước tốt đẹp về một xã hội hợp lý và những
con người toàn thiện, toàn mỹ.
Với lý luận và phương pháp khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, khoa học
giáo dục đã tiến hành các nghiên cứu dự báo về nền giáo dục và nhà trường
tương lai. Đến giữa thập kỷ 70 của thế kỷ trước, các cơng trình nghiên cứu về sự
phát triển của nhà trường và xu hướng phát triển giáo dục được đẩy mạnh với sự
phối hợp của nhiều quốc gia và thu được nhiều kết quả.
Dự báo giáo dục đã được các nhà giáo dục trong và ngoài nước hết sức
quan tâm. Dự báo xu thế phát triển giáo dục và nhà trường bao gồm: dự báo về
vị trí, vai trị và mục tiêu của GD-ĐT, nội dung, phương pháp giáo dục; phương
pháp học tập trong nhà trường hiện đại, các loại hình nhà trường, cơ sở vật chất
trong nhà trường… Trong đó dự báo quy mô phát triển GD-ĐT là một trong
những nội dung được khai thác ở nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau và được ứng
dụng trong thực tiễn, làm cơ sở cho việc xây dựng các chiến lược và các kế
hoạch GD-ĐT cũng như các chiến lược và kế hoạch khác có liên quan.
Ở các nước tư bản Âu Mỹ cũng xuất hiện khá sớm những cơng trình
nghiên cứu đề cập đến những dự báo giáo dục. Tổ chức giáo dục, khoa học, văn

5



hoá Liên hiệp Quốc (UNESCO) cũng tổ chức nhiều cuộc hội thảo, cơng bố
nhiều cơng trình nghiên cứu dự báo giáo dục với quy mơ tồn cầu hoặc từng
vùng lãnh thổ. Có thể kể đến một số cuộc hội thảo như: Hội thảo về “tương lai
của Giáo dục và Giáo dục của tương lai” do Viện quốc tế kế hoạch hố giáo dục
thuộc UNESCO tổ chức năm 1978; cơng trình nghiên cứu “Suy nghĩ về sự phát
triển tương lai của giáo dục” – UNESCO – Paris 1984.
Ở Việt Nam những cơng trình nghiên cứu và những phát biểu có tính chất
dự báo về nền giáo dục tương lai của đất nước thường được đề xuất trong các
quá trình chuẩn bị cải cách giáo dục và xây dựng chiến lược quốc gia theo từng
giai đoạn: 5 năm, 10 năm, 20 năm và tập trung chủ yếu vào các vấn đề phát triển
quy mô giáo dục và mục tiêu đào tạo. “Việc dự báo giáo dục với tư cách là một
hướng hoạt động nghiên cứu chuyên biệt mới được bắt đầu ở Viện khoa học
Giáo dục từ những năm 1985-1986 do đòi hỏi của nhiệm vụ phát triển chiến
lược giáo dục”.
Mặc dù dự báo giáo dục là một ngành còn mới mẽ ở nước ta, song kết quả
dự báo của các công trình nghiên cứu dự báo của các nhà khoa học, các cán bộ
quản lý giáo dục, đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng các chiến lược,
chính sách, kế hoạch phát triển giáo dục nước ta trong thời gian qua. Tuy nhiên,
hầu hết các cơng trình nghiên cứu tập trung dự báo những vấn đề giáo dục ở tầm
vĩ mơ, tầm khái qt. Rất hiếm cơng trình nghiên cứu dự báo ở tầm vi mô để
phục vụ cho việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch giáo dục của từng địa
phương (tỉnh, huyện, xã…) hoặc cơ sở giáo dục nhỏ (trường, trung tâm…), và
chưa có cơng trình nghiên cứu khoa học đề cập đến dự báo đội ngũ giáo viên
THPT của tỉnh Kiên Giang. Vì thế tơi chọn đề tài nghiên cứu: “Dự báo nhu cầu
giáo viên THPT tỉnh Kiên Giang đến năm 2015”
Kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ đóng góp một phần cơ sở khoa học
cho những định hướng phát triển GD-ĐT của tỉnh Kiên Giang trong thời kỳ
CNH, HĐH đất nước những năm đầu thế kỷ XXI.


6


1.2. Những khái niệm chủ yếu liên quan đến vấn đề nghiên cứu:
1.2.1. Khái niệm dự báo:
Dự báo là yếu tố vốn có của hoạt động con người. Con người ngay từ
thuở mới xuất hiện trên trái đất đã phải dự báo để có thể sinh tồn và phát triển.
Từ thời thượng cổ, ở Á Đông, các sách vở đạo lý đã ghi: “Suy xưa, ngẫm nay thì
khơng mắc sai lầm, muốn biết tương lai trước hết phải xét dĩ vãng”, ơng cha ta
cũng từng nhắc nhở: Ơn cố, tri tân… đó chính là chân lý của dự báo.
Dự báo được hiểu là những kiến giải hoặc những thông tin có căn cứ khoa
học về các trạng thái khả dĩ của đối tượng dự báo trong tương lai, về các con
đường khác nhau, thời hạn khác nhau để đạt các trạng thái khác nhau đó. Từ
điển tiếng Việt định nghĩa: “Dự báo là báo trước về tình hình có nhiều khả năng
sẽ xảy ra dựa trên cơ sở số liệu đã có”. Xét về mặt phản ánh luận, dự báo là sự
phản ánh trước hiện thực. Dự báo dựa trên cơ sở nhận thức những quy luật vận
động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Dự báo là một khâu quan trọng
nối liền giữa lý luận và thực tiễn. Dự báo gắn liền với một khái niệm rộng hơn,
đó là sự tiên đốn. Nhìn trước được tương lai là cốt để hành động đúng đắn
trong ngày hôm nay, dù chỉ nhìn trước được tương lai trên những nét phát thảo
với những quan niệm và xu thế, những tính qui luật thì điều này cũng rất cần
thiết cho những quyết định đối với hiện tại về những mục tiêu trước mắt, về
chuẩn bị tiềm năng cho giai đoạn phát triển tới, về thái độ đối xử với những đổi
mới và tiến bộ, về việc giữ vững niềm tin vào sự nghiệp trong những hồn cảnh
khó khăn, phức tạp [12]
* Giả thuyết: là sự tiên đoán khoa học ở cấp lý luận chung, cơ sở để xây
dựng các giả thuyêt là lý luận về một lĩnh vực nào đó gắn với bản chất và tính
quy luật của đối tượng nghiên cứu. Giả thuyết là những sáng kiến, là hệ thống
những tri thức mới được đề xuất mà khơng có nó thì khơng thể giải quyết được
vấn đề nghiên cứu. Giả thuyết mang tính chất định tính, giả định.


7


* Dự báo: So với giả thuyết, dự báo có tính xác định cao hơn. Dự báo
khơng chỉ mang tính chất định tính, mà cịn có tính định lượng. Dự báo là sự
tiên đoán ở cấp độ ứng dụng cụ thể. Như vậy, dự báo khác với giả thuyết ở tính
cụ thể và khả năng ứng dụng. Mặt khác, dự báo không xác lập những liên hệ
chặt chẽ, đơn trị như giả thuyết và có tính xác xuất cao hơn.
* Kế hoạch: là sự tiên đoán những sự kiện cụ thể của tương lai bằng việc
xác định các mục tiệu cụ thể, chính xác. Đó chính là hệ thống nhiệm vụ cần thực
hiện để đạt được những mục đích nhất định Kế hoạch còn chỉ rõ con đường và
phương tiện, phương pháp phát triển phù hợp với những nhiệm vụ đề ra. Kế
hoạch có đặc trưng xác định và đơn trị.
Dự báo là một tài liệu tiền kế hoạch bao gồm nhiều phương án, trong đó
kết quả dự báo khơng mang tính pháp lệnh mà chỉ mang tính chất của khuyến
cáo.
1.2.2. Nhu cầu giáo viên:
Nhu cầu giáo viên của một thời kỳ nào đó là số lượng giáo viên cần thiết
nhằm đáp ứng sự phát triển giáo dục của cả ngành, của địa phương, của trường
học trong thời kỳ đó cả về mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu trình độ của đội
ngũ.
Hoặc nhu cầu giáo viên được hiểu là những đặc trưng về số lượng, về chất
lượng và cơ cấu đội ngũ giáo viên xuất phát từ yêu cầu của ngành giáo dục, của
từng địa phương và các đơn vị trường học.
1.2.3. Khái niệm dự báo giáo dục, dự báo nhu cầu giáo viên:
Trên quan điểm hệ thống chúng ta biết rằng GD-ĐT là một hệ thống con
trong hệ thống lớn kinh tế xã hội. Hệ thống GD-ĐT được xem xét dưới góc độ
khác nhau như theo số lượng, chất lượng bậc học, mạng lưới phân phối, sở hữu,
ngành nghề đào tạo… Do đó dự báo nhu cầu giáo viên không thể tách rời dự báo

quy mô GD-ĐT nói riêng và dự báo GD-ĐT nói chung

8


Dự báo giáo dục có ý nghĩa định hướng, làm cơ sở khoa học cho việc xác
định các phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu của GD-ĐT.
1.3. GIÁO DỤC THPT TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN:
1.3.1. Vị trí vai trò của giáo dục THPT trong hệ thống GD quốc dân:
Từ sau đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta
tiến hành cuộc cải cách giáo dục theo đường lối mới của Đảng và được thực
hiện trong hệ thống giáo dục và đào tạo. Hệ thống giáo dục phổ thơng với
chương trình học 12 năm đã được thống nhất và phát triển rộng khắp cả nước.
Trong bối cảnh của thời đại mới với những xu thế ngự trị nổi bật ở những
năm đầu thế kỷ XXI là: “Tồn cầu hóa kinh tế tri thức, cơng nghệ thơng tin, văn
minh trí tuệ”, Đảng ta tiếp tục khẳng định phát triển đường lối đổi mới trên mọi
mặt đời sống KT-XH, GD-ĐT được coi là nhân tố cơ bản và vững bền để hình
thành và phát triển nhân cách, phát huy yếu tố con người trong giai đoạn CNHHĐH đất nước. Chính từ những quan điểm, định hướng đổi mới đã đặt giáo dục
ở trung tâm của sự phát triển, vừa của con người, vừa của cộng đồng, từ đó địi
hỏi phải thiết lập vị trí, vai trị của giáo dục phổ thông trong hệ thống GDQD.
Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam bao gồm: giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học và giáo dục thường
xuyên. Giáo dục phổ thơng giữ vị trí bản lề chuẩn bị tri thức phổ thơng, hình
thành nhân cách để sau khi tốt nghiệp HS có thể tiếp tục học lên hoặc trực tiếp
tham gia lao động sản xuất, có khả năng góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc
XHCN trong thời kỳ CNH, HĐH
Trường THPT trong hệ thống GDQD được thành lập theo quy hoạch, kế
hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và được tổ chức theo
các loại hình: cơng lập, dân lập và tư thục.


9


Trường THPT có nhiệm vụ tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động
giáo dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo dục do Nhà nước ban hình.
Trường THPT phải đảm bảo đủ đạt chuẩn trở lên và được quy hoạch xây dựng
CSVC trường học, trang thiết bị dạy và học, cung cấp nguồn tài chính…theo
quy mơ phát triển của trường.
Với vị trí, vai trị mới của giáo dục nói chung, của giáo dục THPT nói
riêng trong giai đoạn mới địi hỏi phải có những quan điểm, định hướng mới xây
dựng, quy hoach phát triển, xác định mục tiêu, đổi mới nội dung, phương pháp,
kế hoạch dạy học, cách kiểm tra, đánh giá, tăng cường CSVC trường…theo quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương, từng vùng và cả nước.
1.3.2. Mục tiêu, nội dung, phương pháp và kế hoạch của giáo dục
THPT
1.3.2.1. Mục tiêu của giáo dục phổ thông
“Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển tồn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân
cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động,
tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. [2]
“Mục tiêu giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và
những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao
động”. [2]
Như vậy, mục tiêu giáo dục là thể hiện tập trung nhất của yêu cầu xây
dựng những con người mới và thế hệ mới phù hợp với cơ chế mới, năng động,

10



thích ứng với sự phát triển và tiến bộ xã hội, biết tiếp thu giá trị, tạo ra giá trị
mới cho xã hội.
Xác định đúng đắn mục tiêu giáo dục có vai trị, ý nghĩa quan trọng trong
việc hồn thành các mục tiêu xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển KT–XH.
Mục tiêu giáo dục như là một phần của định hướng : “Chỉ đường cho các khuôn
mẫu phát triển các xu hướng giá trị làm nền tảng cho sự vận động của tình hình
hiện tại đi đến tương lai và phần khác trong việc dự báo các tương lai đó trong
hành động hiện thực của nó”. [2]
Đảm bảo phần lớn thanh, thiếu niên trong độ tuổi ở thành thị và nông thôn
đồng bằng học hết THPT, trung học chuyên nghiệp hoặc đào tạo nghề; tạo điều
kiện cho mỗi người, ở mỗi lứa tuổi được học thường xuyên, học tập suốt đời.
1.3.2.2. Nội dung giáo dục THPT
Khoản 1, điều 28 luật giáo dục năm 2005 quy định: “Nội dung của giáo dục
THPT là: Giáo dục THPT phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở
trung học cơ sở, hồn thành nội dung giáo dục phổ thơng. Ngồi nội dung nhằm
đảm bảo kiến thức phổ thông, cơ bản, tồn diện và hướng nghiệp cho học sinh
cịn có nội dung nâng cao ở một số một học để phát triển năng lực đáp ứng
nguyện vọng của học sinh”. [2]
Nội dung chương trình THPT mới được thiết kế theo hướng: Giảm lý
thuyết hàn lâm, tăng tính thực tiễn, thực hành, đảm bảo vừa sức, khả thi, giảm số
tiết học trên lớp, tăng thời gian tự học và ngoại khóa. Học xong THPT, học sinh
có được năng lực thích ứng, năng lực hành động trên cơ sở kiến thức, biết sống
cùng gia đình, tập thể, năng lực tự học “suốt đời”
Trong giai đoạn phát triển mới của đát nước, việc đổi mới nội dung giáo
dục nhằm “loại bỏ nhũng nội dung không thiết thực, bổ sung những nội dung
theo hướng đảm bảo kiến thức cơ bản, cập nhật mới tiến bộ khoa học – công

11



nghệ, tăng nội dung khoa học, công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục kỹ
thuật tổng hợp và năng lực thực hành ở bậc học phổ thông”. [2]
Trong chiến lược phát triển giáo dục hiện nay, nâng cao chất lượng giáo
dục THPT là cơ sở để thực hiện thành công quá trình phổ cập giáo dục THPT
của nước ta trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước.
1.3.2.3. Phương pháp và kế hoạch giáo dục trung học phổ thông
Trong Luật Giáo dục khoản 2, điều 28 có ghi: “Phương pháp giáo dục phổ
thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học,
khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
[15]
Kế hoạch giáo dục là một văn bản có tính pháp lý của Nhà nước do Bộ
trưởng Bộ GD-ĐT ban hành trong toàn quốc, mọi cán bộ quản lý, giáo viên phải
thực hiện nghiêm túc.
Kế hoach giáo dục phải phản ánh mục tiêu giáo dục toàn diện bao gồm
những yêu cầu về giáo dục đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, lao động kỹ
thuật. Kế hoạch giáo dục phản ánh tính hài hịa, cân đối giữa các mặt giáo dục
đảm bảo tính hệ thống, kế tiếp. Xác định hệ thống môn học với thời lượng phù
hợp. Đảm bảo coi trọng nội dung giáo dục: khoa học tự nhiên, xã hội và nhân
văn, kỹ thuật và công nghệ.
Mục tiêu, nội dung, phương pháp, kế hoạch giáo dục là những thành tố
của q trình giáo dục và chúng có quan hệ hữu cơ gắn bó và tác động qua lại
lẫn nhau. Đối với mục tiêu giáo dục không những phải đổi mới nội dung,
phương pháp, kế hoạch giáo dục mà còn phải xây dựng các chỉ tiêu, điều kiện đủ
để thực hiện mục tiêu giáo dục, nhất là trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước.

12



1.4. NHỮNG CÁCH TIẾP CẬN KHI LẬP DỰ BÁO
1.4.1. Cơ sở triết học của dự báo
Phương pháp luận của dự báo nghiên cứu tương lai của đối tượng dự báo
dưới các khía cạnh của bản thể luận, logic học và nhận thức luận.
-Khía cạnh của bản thể luận cho biết tương lai của đối tượng sẽ phát sinh,
hình thành như thế nào, mơ tả bức tranh tồn cảnh tương lai của đối tượng dự
báo.
-Khía cạnh logic học xem xét dự báo như những khái niệm khoa học
chung nhất nhằm giải thích nội dung khách quan của q trình và kết quả lập dự
báo.
-Khía cạnh nhận thức luận có nhiệm vụ làm sáng tỏ tương lai được phản
ánh như thế nào trong nhận thức của con người, các hình thức phản ánh và tính
chính xác của phản ánh đó.
Phép biện chứng duy vật với những quy luật phổ quát của mình là cơ sở
phương pháp luận của mọi dự báo khoa học. Trong hệ thống các quy luật đó, khi
tiến hành lập dự báo chúng ta đặc biệt lưu tâm đến những nguyên lý về mối liên
hệ nhân quả, một mặt là cơ sở khoa học của các tiên đoán, dự báo, mặt khác là
nền tảng, chỗ dựa cho những hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện các mục tiêu
dự báo.
Gắn liền với nguyên lý nhân quả là một nguyên lý quan trọng khác của
phép biện chứng duy vật, thuyết duy vật về tính quy định nhân quả của tất cả các
hiện tượng. Tính chất quyết định luận duy vật biện chứng khẳng định rằng tương
lai được xác định khơng hồn toàn bởi cái hiện hữu mà tồn tại một độ nhất định
nào đó đối với các sự kiện, đối tượng được được dự báo. Điều đó có nghĩa là ở
mỗi thời điểm của sự phát triển, có những khả năng, nhiều con đường khác nhau
để đạt tới trạng thái tương lai. Mặt khác nguyên lý quyết định luận duy vật cũng

13



khẳng định rằng đặc trưng xác suất của trạng thái tương lai không ngăn cản việc
dự báo các trạng thái đó, mà ngược lại. Cách tiếp cận xác suất để tiên định tương
lai lại là một tiền đề quan trọng của dự báo có tính khoa học hiện đại.
1.4.2. Tiếp cận lịch sử.
Trong bất cứ hiện tượng xã hội nào, nếu xem xét trong q trình phát triển
của nó đều có mối liên hệ với quá khứ. Như vậy, từ mối liên hệ giữa quá khứ,
hiên tại và tương lai đòi hỏi phải xem xét tương lai của đối tượng như một khả
năng tồn tại tiếp diễn của cái hiện tại và quá khứ. Điều đó có nghĩa là việc lập
dự báo phải gắn liền với việc dịch chuyển các quy luật , xu thế đã và đang tồn
tại vượt ra ngồi cái ngưỡng của hơm nay, trên cơ sở đó xác định mơ hình của
tương lai của đối tượng dự báo. Sự dịch chuyển xu thế, quy luật hay tính quy
luật này khơng phải là sự chuyển dịch cơ giới mà phải là sự chuyển dịch biện
chứng. Vì vậy, phải xem xét các quy luật ấy, xu thế ấy trong sự biến đổi, phát
triển của nó.
1.4.3. Tiếp cận phức hợp
Cách tiếp cận này dựa trên nguyên lý của phép biện chứng duy vật về mối
liên hệ phổ quát của các hiên tượng và sự vật. Cách tiếp cận phức hợp xem xét
các hiện tượng sự vật trong mối liên hệ qua lại và tác động lẫn nhau bằng cách
sử dụng các thành tựu, các phương pháp của nhiều khoa học khác nhau cũng
nghiên cứu hiện tượng, sự vật làm bộc lộ đầy đủ các khía cạnh của bản chất sự
vật, hiên tượng được nghiên cứu. Cách tiếp cận phức hợp thể hiện đặc biệt rõ rệt
trong dự báo giáo dục. Dự báo giáo dục đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành
khoa học và với các phương pháp nghiên cứu khác nhau. Đó là: triết học, tâm lý
học, giáo dục học, kinh tế học, dân số học, toán học….
1.4.4. Tiếp cận cấu trúc – hệ thống

14



Phương pháp tiếp cận cấu trúc – hệ thống là xem xét, nghiên cứu đối
tượng dự báo như một hệ thống toàn vẹn trong sự vận động, phát triển của nó.
Đồng thời, các đối tượng nghiên cứu được xem xét dưới góc độ của mỗi thành
tố trong sự liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Trên cơ sở đó, phát hiện các quy
luật vận động, phát triển của mỗi thành tố. của các quan hệ cũng như của toàn
bộ đối tượng với tư cách là một hệ thống trọn vẹn. Trong dự báo giáo dục, tiếp
cận cấu trúc – hệ thống đóng một vai trị quan trọng. Cách tiếp cận này cho phép
tiến hành nghiên cứu cục bộ cũng như toàn cục sự phát triển giáo dục, làm tiền
đề cho việc hoạch định các chính sách phát triển giáo dục của một địa phương
hay cả nước một cách khoa học.

1.5.CÁC NGUYÊN TẮC DỰ BÁO
1.5.1. Nguyên tắc thống nhất chính trị, kinh tế
Khi lập dự báo cần xuất phát từ mục tiêu và lợi ích tồn cục của một quốc
gia (cộng đồng, quốc tế) trên cơ sở tính tốn khoa học sự phát triển kinh tế - xã
hội và tiến bộ khoa học công nghệ. Nguyên tắc này đặc biệt quan trọng trong
quá trình soạn thảo các dự báo giáo dục, bởi vì giáo dục có liên quan chặt chẽ
đến định hướng phát triển của xã hội, đến thể chế chính trị, đến mục tiêu và yêu
cầu sự phát triền kinh tế, đến những khả năng và đòi hỏi của sự phát triên khoa
học cơng nghệ.
1.5.2. Ngun tắc tính hệ thống của dự báo
Các dự báo phải được xây dựng trên cơ sở một hệ thống hồn chỉnh các
mơ hình và phương pháp có mối liên hệ với nhau, làm nền tảng cho nhau. Tính
hệ thống của dự báo đòi hỏi phải xây dựng một trật tự chặt chẽ việc hình thành
và xây dựng các mơ hình dự báo cho một dự báo có tính phức tạp của đối tượng
1.5.3 Nguyên tắc tính khoa học của dự báo

15



Các dự báo được xây dựng trên cơ sở những tính tốn, luận chứng khoa
học, có tính đến những quy luật vận động, phát triển của đối tượng dự báo,
những quan sát và dữ liệu đủ khách quan và tin cậy.
1.5.4 Ngun tắc tính thích hợp của dự báo
Địi hỏi những dự báo được lập ra phải tương thích với quy luật, với xu
thế phát triển khách quan của đối tượng dự báo. Hơn nữa, các dự báo phải phù
hợp với khả năng thể hiện thực tế chúng trong tương lai.
1.5.5 Nguyên tắc đa phương án của dự báo
Dự báo phải gắn liền với khả năng phát triển của đối tượng theo những
quỹ đạo, những con đường khác nhau. Tính đa phương án một mặt là thể hiện
sức mạnh của những tiên đốn có cơ sở khoa học, cho phép cơ quan quản lý
(người sử dụng dự báo) có khả năng lựa chọn những phương án hợp lý tối ưu
nhằm điều khiển sự phát triển của đối tượng dự báo theo mục tiêu đã định.
1.6 CÁC PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO
Phương pháp dự báo là cách thức, là những con đường dẫn tới mục tiêu
đã đề ra trong một nhiệm vụ dự báo cụ thể.
1.6.1 Phương pháp chuyên gia:
Phương pháp chuyên gia là một trong những công cụ hữu hiệu để dự báo
những vấn đề có tầm bao quát phức tạp nhất định, có nhiều chỉ tiêu và yếu tố
liên quan thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Phương pháp này thường được sử dụng trong các trường hợp sau:
+ Khi đối tượng dự báo còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố cịn chưa có hoặc
cịn thiếu những cơ sở lý luận chắc chắn để xác định.
+ Trong những điều kiện thiếu thông tin, thiếu thống kê đầy đủ và chưa
đáng tin cậy về đặc tính của đối tượng dự báo.

16



+ Trong điều kiện thiếu thời gian hoặc hoàn cảnh cấp bách của việc dự
báo.
1.6.2 Phương pháp ngoại suy xu thế.
Các phương pháp ngoại suy là những phương pháp thông dụng nhất trong
các dự báo định lượng.Các phương pháp ngoại suy dựa trên các luận điểm cho
rằng mọi biến cố trong tương lai đều bất đầu từ hôm nay. Các phương pháp
ngoại suy chấp nhận giả định cho rằng các xu hướng của đối tượng nghiên cứu
phải phát triển theo các quy luật và các quy luật này không thay đổi hoặc ít nhất
cũng tương đối ổn định trong thời gian dự báo. Các quy luật này phản ánh các
quan hệ khách quan và chịu tác động của các nhân tố đó.
1.6.3. Phương pháp ngoại suy theo dãy thời gian:
Là phương pháp ngoại suy thông dụng nhất. Nội dung của phương pháp
như sau: Thiết lập mối quan hệ giữa sự phát triển của đối tượng dự báo theo thời
gian. Các kết quả quan sát đối tượng được sắp xếp trình tự theo các thời gian
tương ứng. Để phản ánh đúng xu thế khách quan đòi hỏi thời gian phải là đại
lượng đồng ứng (ví dụ hàng năm hoặc năm năm…) chọn mơ hình tính tốn
tương thích với các quy luật phát ra theo dãy thời gian.
Phương pháp ngoại suy thường dùng là phương pháp ngoại suy theo quan
hệ tỷ lệ (còn gọi là phương pháp quan hệ tỷ lệ) là một phương pháp ngoại suy
theo dãy thời gian. Đây là phương pháp khá phổ biến trong dự báo giáo dục nói
chung và dự báo nhu cầu phát triển nhu cầu giáo viên nói riêng. Phương pháp
này dựa trên mối quan hệ tỷ lệ giữa hai đối tượng dự báo trong một khoảng thời
gian nhất định đã biết, để xác lập giá trị hệ số dự báo trong tương lai và đưa ra
cơng thức tính giá trị của đối tượng dự báo
Nội dung của phương pháp này như sau:

17


Gọi đối tượng dự báo là Y, gọi nhân tố tác động đến đối tượng dự báo là

X. Người ta thiết lập quan hệ tỷ lệ như sau:

Y i trong đó i là số lần quan sát với i = 1,…,n

Ki
X

i

Dựa vào công thức trên ta xác định các K i trong quá khứ và xem xét quy
luật phát triển của nó theo thời gian.
1.6.4. Phương pháp tỷ lệ học sinh đến trường:
Phương pháp tỷ lệ học sinh đến trường là một trường hợp cụ thể của phương
pháp quan hệ tỷ lệ nói trên. Để dự báo tỷ lệ học sinh đến trường, người ta

thường sử dụng phương pháp này. Theo cơng thức:

Yi

Ki
X

i

Trong đó: Yi là số lượng học sinh đến trường theo từng cấp học, bậc học.
Xi số lượng dân trong độ tuổi đi học theo cấp, bậc học.
Ki là tỷ lệ học sinh đến trường.
Ta có Yi = Ki.Xi
Để áp dụng phương pháp trên, cần có các số liệu sau:
-Dự báo số người trong độ tuổi đi học.

-Tỷ lệ học sinh của từng cấp theo dự báo theo từng năm. Như vậy, để có
được số liệu thứ nhất (dân số trong độ tuổi đến trường) cần phải dự báo số dân
trong cả nước và từng địa phương. Để có được số liệu tỷ lệ đi học, người ta
thường sử dụng phương pháp ngoại suy theo dãy thời gian.
1.6.5. Phương pháp tương quan:

18


Phương pháp tương quan là phương pháp giúp ta xác định xu hướng biến
đổi của hiện tượng nghiên cứu trong mối quan hệ với một hoặc một vài nhân tố
khác trên cơ sở các quan sát thống kê trong quá khứ từ dó suy cho tương lai.
Hai nhân tố X và Y được gọi là có quan hệ tương quan với nhau nếu ứng
với một giá trị nào đó của X thì Y nhận được một trong các giá trị có thể có của
nó một cách ngẫu nhiên.
Hàm số tương quan giữa X và Y được biểu diễn một cách tổng quát là Y
= f(X).
Tương tự, nếu Y được xem xét trong mối quan hệ với nhân tố X 1, X2,
….,Xn, ta sẽ có mối quan hệ tương quan đa nhân tố được biểu diễn tổng quát
như sau: Y = f(X1, X2,….,Xn)
Trong đó Y là đối tượng cần dự báo, f là hàm số , X 1, X2,….,Xn là các yếu
tố tác động đến đối tượng dự báo.
1.6.6. Phương pháp định mức:
Phương pháp định mức thường được sử dụng trong dự báo nhu cầu giáo
viên. Đây là phương pháp dựa trên định mức giáo viên/lớp, hoặc định mức số
giờ/lớp của giáo viên. Ta có phương pháp định mức sau:
1.6.6.1. Phương pháp định mức giáo viên / lớp:
Nhu cầu giáo viên được tính theo cơng thức: K = G.D, trong đó:
K là nhu cầu giáo viên cần dự báo.
G là số lớp của mỗi thời kỳ.

D là định mức giáo viên/lớp
Định mức D tùy thuộc vào từng cấp học và sẽ được tăng lên theo sự phát
triển của chất lượng giáo dục. Đối với THPT thì D = 2.25 (theo thơng tư mới số

19


35/2006/TTLB – BGD&ĐT –BNV ngày 23/8/2008 của liên bộ GD&ĐT và bộ
Nội Vụ dành cho giáo viên THPT).
1.6.6.2. Phương pháp định mức học sinh / giáo viên
Nhu cầu giáo viên được tính theo cơng thức:

K

Y
D

, trong đó:

K là nhu cầu giáo viên cần dự báo.
Y là số lượng học sinh đến trường trong từng học kỳ
D là định mức học sinh / giáo viên.
c. Phương pháp định mức tải trọng
Nhu cầu giáo được tính theo cơng thức:

K

Q
P


, trong đó:

K là nhu cầu giáo viên cần dự báo.
Q là khối lượng công tác hàng tuần.
P là định mức số giờ dạy của một giáo viên / tuần.
Theo thông tư mới số 35/2006/ TTLB – BGD&ĐT – BNV thì P = 17 tiết.
Trong phạm vi nghiên cứu nhu cầu giáo viên THPT huyện An Biên tỉnh
Kiên Giang đến năm 2015, chúng ta sử dụng 4 phương pháp: Phương pháp
ngoại suy, phương pháp sơ dồ luồng, phương pháp chuyên gia và phương pháp
định mức.
1.7 NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DỰ BÁO GIÁO DỤC VÀ
LỰA CHỌN CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐƯA RA BÀI TOÁN DỰ BÁO
NHU CẦU GIÁO VIÊN
1.7.1 Những yếu tố ảnh hưởng đến dự báo giáo dục
Hệ thống GD–ĐT nói chung cũng như giáo dục phổ thơng nói riêng trong
q trình phát triển chịu sự tác động của các yếu tố sau:

20



×