Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Đề tài: Triển khai áp dụng TQM trong tổ chức doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.76 KB, 32 trang )

z

MỤC LỤC

LỜI MỞ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
1.1 Lịch sử nghiên cứu về TQM 3
1.2 Cơ sở lý luận 4
CHƯƠNG 2: ỨNG DỤNG TQM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT
NAM 13
2.1 Tổng quan về đặc điểm các doanh nghiệp ở Việt Nam 13
2.2 Tình hình triển khai áp dụng TQM ở Việt Nam 14
2.2.1 Tình hình áp dụng TQM ở Việt Nam 14
2.2.2 Thuận lợi 15
2.2.3 Khó khăn 18
2.3 Đánh giá tính hiệu quả việc ứng dụng TQM ở Việt Nam 19
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI ÁP DỤNG
TQM MỘT CÁCH CÓ HIỆU QUẢ Ở VIỆT NAM 22
3.1 Giải pháp vĩ mô 22
3.2 Giải pháp vi mô 24
3.3 Quan điểm cá nhân 27
KẾT LUẬN 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31




Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
LỜI MỞ


Ngày nay, đứng trước xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa của nền kinh tế thế
giới và xu hướng hội nhập của nền kinh tế quốc gia, khu vực đã đặt các doanh nghiệp
Việt Nam trước nguy cơ bị canh tranh gay gắt bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Khác
với trước đây, các quốc gia cũng như các doanh nghiệp không thể dựa vào các hàng
rào thuế quan và các rào cản kỹ thuật riêng để bảo hộ cho nền sản xuất nội địa. Bên
cạnh đó, càng gặp khó khăn hơn nếu chúng ta áp dụng chính sách cạnh tranh về giá sẽ
không mang lại hiệu quả kinh tế cao khi mà đời sống của người dân ngày càng tăng
lên, lúc đó họ sẽ sẵn sàng trả giá cao để có được sản phẩm có chất lượng cao. Chính vì
vậy, trong bối cảnh này, các doanh nghiệp Việt Nam muốn đủ sức cạnh tranh để tồn
tại trên thị trường không còn ảnh hưởng nào khác là phải nâng cao chất lượng sản
phẩm để tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Và bây giờ chất lượng là một
tiêu chí đặt lên hàng đầu trong chiến lược phát triển của họ. Càng quan trọng hơn nữa
đối với một nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay, chất lượng vừa là một đòi
hỏi khách quan, là mục tiêu có ý nghĩa chiến lược và cũng là phương tiện căn bản để
đảm bảo cho sự phát triển kinh tế xã hội đúng hướng, vững chắc, đạt hiệu quả cao và
hội nhập thị trường quốc tế.
Như chúng ta được biết, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương
Mại Thế Giới (WTO) đồng thời là thành viên của ASEAN và tham gia vào một số
hiệp định tự do thương mại (FTA) và các hiệp định, điều ước quốc tế về thương mại
khác. Các doanh nghiệp Việt Nam có rất nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng phải chấp
nhận sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các công ty
đa quốc gia đến từ những nước phát triển. Không những các doanh nghiệp phải chịu
sức ép lẫn nhau hướng đến sự tồn tại, phát triển và vươn ra bên ngoài mà doanh nghiệp
còn chịu sức ép của hàng hoá nhập khẩu về chất lượng, giá cả, dịch vụ. Vậy nên, các
nhà quản trị coi trọng vấn đề chất lượng như là gắn với sự tồn tại, sự thành công của
doanh nghiệp, đó cũng là tạo nên sự phát triển của nền kinh tế trong mỗi quốc gia. Nhà
nước và các doanh nghiệp cũng đã nhận ra tầm quan trọng của chất lượng và đưa chất
lượng vào nội dung quản lý, điều này còn giúp các doanh nghiệp đứng vững trong thời
buổi cạnh tranh cũng như thu hút được một lượng lớn khách hàng. Ngày nay, hầu hết
các khách hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn đều mong mỏi được cung cấp những




Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
sản phẩm có chất lượng thỏa mãn và vượt sự mong muốn của họ. Trong khi đó, một
trong những vấn đề vướng mắc nhất của các doanh nghiệp nước ta hiện nay là vấn đề
quản lý chất lượng. Vì vậy, đổi mới công tác quản lý chất lượng, đặc biệt là việc áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng, phát huy tính sáng tạo của nhân viên trong các
doanh nghiệp ở Việt Nam là rất cần thiết. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ
yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhận thức cũng như nguồn kinh phí đầu tư vào vấn đề
chất lượng còn rất hạn chế. Xuất phát từ những lý do trên, nhóm 7 đã chọn đề tài
“Triển khai áp dụng TQM trong tổ chức” làm đề tài học tập và nghiên cứu.
Việc áp dụng Hệ thống Quản lý chất lượng đồng bộ (Total Quality
Management – TQM) này sẽ làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm việc cũ nhằm tạo ra một
phong cách hoàn toàn mới cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
Điều đó là nền móng cho doanh nghiệp có thể tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao
và ổn định, góp phần tăng khả năng cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp. Các nhà
sản xuất, phân phối và khách hàng có quyền lựa chọn sản phẩm có chất lượng với giá
cả phù hợp từ mọi nơi trên thế giới.




Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1 Lịch sử nghiên cứu về TQM
Bước khởi đầu hình thành Hệ thống Quản lý chất lượng đồng bộ (Total Quality
Management – TQM) là từ Hệ thống Kiểm soát chất lượng toàn diện (Total Quality
Control - TQC) do ông A.V.Feigenbaum xây dựng từ năm 1950 khi ông làm việc ở
hãng General Electric với tư cách là một người lãnh đạo của hãng chịu trách nhiệm về
quản lý chất lượng và quản lý nghiệp vụ sản xuất. TQC được định nghĩa như “một hệ
thống có hiệu quả để hợp nhất các nỗ lực về triển khai chất lượng, duy trì chất lượng
và cải tiến chất lượng của các bộ phận khác nhau trong một tổ chức sao cho nó có thể
sản xuất và thực hiện dịch vụ ở mức kinh tế nhất thoả mãn được người tiêu dùng”.
Feigenbaum còn khẳng định trách nhiệm của mọi người trong hãng đối với chất lượng
như sau:
Người chịu trách nhiệm về chất lượng không phải là cán bộ kiểm tra mà chính là
những người làm ra sản phẩm, người đứng máy, đội trưởng, khâu giao nhận hàng,
cung ứng v.v tuỳ vào từng trường hợp cụ thể.
Quá trình phát triển từ những hoạt động riêng biệt về kiểm soát chất lượng trong
các công ty của Nhật Bản với những đúc kết trao đổi kinh nghiệm quản lý chất lượng
hàng năm đã dẫn tới hình thành phương thức Quản lý chất lượng đồng bộ Nhật Bản.
TQM là bước hoàn thiện của TQC với những ý tưởng cơ bản sau đây:
 Quản lý chất lượng là trách nhiệm của mỗi người, mỗi bộ phận trong công ty;
 Quản lý chất lượng toàn diện là một hoạt động tập thể đòi hỏi phải có những nỗ
lực chung của mọi người;
 Quản lý chất lượng toàn diện sẽ đạt hiệu quả cao nếu mọi người trong công ty,
từ chủ tịch công ty đến công nhân sản xuất, nhân viên cung tiêu cùng tham gia;
 Quản lý chất lượng tổng hợp đòi hỏi phải quản lý có hiệu quả mọi giai đoạn
công việc trên cơ sở sử dụng vòng quản lý P-D-C-A ( kế hoạch, thực hiện, kiểm
tra, hành động);
 Hoạt động của các nhóm chất lượng là một phần cấu thành của quản lý chất
lượng tổng hợp.




Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
1.2 Cơ sở lý luận
a. Một số khái niệm
 Triển khai: Việc thực hiện cái đã được định sẵn, theo ý đồ đã có từ trước mà
không có sáng tạo hay phát triển thêm cái mới nhằm đưa một nội dung công
việc nào đó vào hành động.
 Áp dụng: Đưa vào vận dụng trong thực tế điều nhận thức, lĩnh hội được.
 Tổ chức: Là một nhóm người làm việc chung với nhau nhằm mục đích điều
hành hay quản lý một công việc nào đó. Ở đây tổ chức được hiểu ở phạm vi
hẹp, đó là các doanh nghiệp, các cơ quan…
b. Vai trò của Quản lý chất lượng
 Quản lý chất lượng: Theo tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO, Quản lý chất
lượng là các hoạt động có phối hợp nhằm định hướng và kiểm soát một tổ chức
về mặt chất lượng.
 Việc định hướng được thể hiện thông qua tầm nhìn, chiến lược, chính sách và
mục tiêu chất lượng.
 Hoạt động kiểm soát được thực hiện thông qua: yếu tố hoạch định, kiểm soát,
đảm bảo và cải tiến chất lượng.
 Ti sao phải Quản lý chất lượng?
Thị trường cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
thì phải cung cấp được sản phẩm/ dịch vụ có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu thị
trường.
Nguyên lý chung: khi doanh nghiệp thực hiện công tác quản lý chất lượng tốt sẽ
tạo ra được những sản phẩm và dịch vụ có chất lượng tốt. Như vậy, muốn tạo ra
sản phẩm, dịch vụ có chất lượng tốt, hiệu quả cao, tổ chức/ doanh nghiệp phải
quản lý chất lượng.
1.3 Các bước triển khai áp dụng TQM trong tổ chức

1.3.1. Am hiểu, cam kết chất lượng
Để triển khai các hoạt động TQM trong DN, đầu tiên cần phải có sự am hiểu và
cam kết chung về chất lượng của tất cả mọi người. Nó phải bắt đầu từ các cán bộ lãnh
đạo, quản lý, từ trên xuống dưới, từ các phòng ban đến các bộ phận sản xuất, dịch vụ



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
trong tổ chức. Từ đó hình thành một cách tiếp cận chất lượng đồng bộ trong hệ thống.
Sự am hiểu sâu sắc và cam kết tự nguyện , có trách nhiệm sẽ tạo ra một lực xung kích
mạnh mẽ nâng cao năng lực của tổ chức về mọi mặt.
a. Cam kết của lãnh đo cấp cao
Sự cam kết của các cán bộ lãnh đạo cấp cao có vai trò rất quan trọng, tạo ra môi
trường thuận lợi cho các hoạt động chất lượng trong doanh nghiệp, thể hiện mối quan
tâm và trách nhiệm của họ đối với các hoạt động chất lượng. Doanh nghiệp không thể
áp dụng được TQM nếu thiếu sự quan tâm và cam kết của các Giám đốc. Họ cần phải
am hiểu về chất lượng, quản lý chất lượng và quyết tâm thực hiện các mục tiêu, chính
sách chất lượng đã vạch ra.
b. Cam kết của quản trị cấp trung gian
Sự cam kết của các cán bộ cấp trung gian (quản đốc, xưởng trưởng, tổ trưởng)
nhằm đảm bảo phát triển các chương trình chất lượng trong các phòng ban và các bộ
phận, liên kết các nhiệm vụ được giao và các mối quan hệ dọc và ngang trong tổ chức.
Nhiệm vụ của họ không chỉ là kiểm tra, theo dõi mà còn bao gồm cả việc huấn luyện,
kèm cặp tay nghề và hướng dẫn các hoạt động cải tiến chất lượng trong doanh nghiệp.
c. Cam kết của các thành viên
Kết quả hoạt động của TQM phụ thuộc rất nhiều vào sự cam kết của các thành
viên ở các phòng ban, phân xưởng trong doanh nghiệp. Nếu họ không cam kết đảm
bảo chất lượng ở từng công việc (thỏa mãn khách hàng nội bộ), thì mọi cố gắng của

các cấp quản lý trên không thể đạt được kết quả mong muốn.
1.3.2. Tổ chức và phân công trách nhiệm
Để đảm bảo việc thực thi, TQM đòi hỏi phải có một mô hình quản lý theo chức
năng chéo. Các hoạt động của các bộ phận chức năng trong tổ chức phải vượt ra khỏi
các công đoạn, các chức năng để vươn tới toàn bộ quá trình nhằm mục đích khai thác
được sức mạnh tổng hợp của chúng nhờ việc kế hoạch hóa, phối hợp đồng bộ, hiệu
quả. Việc phân công trách nhiệm được thực hiện theo các cấp bậc sau:




Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
a. Điều hành cấp cao
Tuy không trực tiếp sản xuất, nhưng đây là bộ phận quyết định hiệu quả hoạt động
của cả hệ thống. Có thể xem đây là giám đốc phụ trách chung về chất lượng, ngang
quyền với giám đốc phụ trách các khâu khác như giám đốc Marketing, sản xuất. Cấp
quản lý ở khâu này thuộc phòng đảm bảo chất lượng phải nhận trách nhiệm soạn thảo
và chỉ huy rành mạch đường lối chất lượng đến mọi người, ngay cả những người thuộc
cấp cao nhất của tổ chức.
b. Cấp giám sát đầu tiên
Là những người phụ trách việc quan sát tiến trình thực hiện hoạt động chất lượng
của tổ chức hay còn gọi là quan sát viên thực tế tại chỗ. Họ có điều kiện nắm vững
những hoạt động thực tiễn, diễn biến tốt hay xấu của cả hai bên: cung ứng và khách
hàng, từ đó có những tác động điều chỉnh. Cấp quản lý này có trách nhiệm hướng dẫn
thuộc cấp những phương pháp và thủ tục phù hợp, chỉ ra những nguyên nhân gây hư
hỏng và biện pháp ngăn chặn.
Để thực hiện tốt vai trò của mình, những thành viên phụ trách phòng đảm bảo chất
lượng phải thực sự nắm vững những hoạt động then chốt của mỗi nhóm trong toàn

công ty: Ai? Làm gì? Làm thế nào? Ở đâu? theo những chức năng tiêu biểu như
marketing, sản xuất, vận chuyển, lưu kho hàng hóa và các hoạt động dịch vụ ,để từ đó
có thể quản lý, thanh tra và phân tích những vấn đề tồn đọng và tiềm ẩn.
c. Đối với các thành viên trong hệ thống
Trọng tâm của TQM là sự phát triển, lôi kéo tham gia và gây dựng lòng tin, gắn
bó, khuyến khích óc sáng tạo cho nhân viên. TQM đòi hỏi sự ủy quyền cho nhân viên
kết hợp với một hệ thống thiết kế tốt và công nghệ có năng lực. Chính vì vậy, để tiến
hành TQM cần thiết phải có một chiến lược dài hạn, cụ thể đối với con người thông
qua đào tạo, huấn luyện, ủy quyền, khuyến khích trên căn bản một sự giáo dục thường
xuyên và tinh thần trách nhiệm, ý thức cộng đồng. Các thành viên trong hệ thống phải
hiểu rõ vai trò của mình dưói 3 góc độ :
 Khách hàng: người tiếp nhận sản phẩm, dịch vụ từ khâu trước.
 Người chế biến sản xuất: Biến đầu vào thành sản phẩm.
 Người cung ứng: Cung cấp sản phẩm cho công đoạn tiếp theo.



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
1.3.3. Đo lường chất lượng
Việc đo lường chất lượng trong TQM là việc đánh giá về mặt định lượng những cố
gắng cải tiến, hoàn thiện chất lượng cũng như những chi phí không chất lượng trong
hệ thống. Xác định được các chi phí chất lượng ta mới có thể đánh giá được hiệu quả
kinh tế của các hoạt động cải tiến chất lượng. Đây là một trong những động lực thúc
đẩy các cố gắng về chất lượng trong các doanh nghiệp. Đây cũng là thước đo căn bản
trình độ quản lý và tính hiệu quả của TQM. Chi phí chất lượng cũng như tất cả các loại
chi phí khác trong doanh nghiệp, cần phải được kiểm soát, theo dõi và điều chỉnh.
Chất lượng công việc quyết định chi phí và chi phí, lợi nhuận là thước đo của chất
lượng.

1.3.4. Hoạch định chất lượng
Công tác hoạch định chất lượng là một chức năng quan trọng nhằm thực hiện các
chính sách chất lượng được vạch ra, bao gồm các hoạt động thiết lập mục tiêu và yêu
cầu chất lượng, cũng như các yêu cầu về việc áp dụng các yếu tố của hệ chất lượng.
Công tác hoạch định chất lượng trong doanh nghiệp cần thiết phải đề cập tới các vấn
đề chủ yếu sau:
a. Lập kế hoch cho sản phẩm
Để đảm bảo chất lượng trong quá trình sản xuất, cần thiết phải xác định, phân loại
và xem xét mức độ quan trọng của các đặc trưng chất lượng, các yêu cầu kỹ thuật cụ
thể cho từng chi tiết, từng sản phẩm một cách rõ ràng, bằng các sơ đồ, hình vẽ, kích
thước ,cũng như các hướng dẫn, những điều bắt buộc phải thực hiện nhằm thỏa mãn
nhu cầu khách hàng bên trong cũng như bên ngoài. Các yêu cầu về nguyên vật liệu
được cung cấp, thời hạn hoàn thành hợp đồng Trong doanh nghiệp cần phải xây
dựng cơ cấu mặt hàng theo các cấp chất lượng cho từng loại thị trường để có chính
sách đầu tư thích hợp.
b. Lập kế hoch quản lý và tác nghiệp
Để có thể quản lý, tác động vào quy trình, người ta phải lập kế hoạch tỉ mỉ mọi
công việc. Thông thường doanh nghiệp phải lập sơ đồ khối và lưu đồ để mô tả toàn
diện về những công việc cần phải quản lý.



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
Trong sản xuất, việc xây dựng các sơ đồ với sự tham gia của mọi thành viên trong
dây chuyền sẽ giúp hình thành và phát triển hoạt động đồng đội, tạo điều kiện để cải
tiến quy trình, nâng cao chất lượng công việc. Việc xây dựng sơ đồ để quản lý có thể
sử dụng cho các yếu tố của sản xuất như: Con người, vật liệu, thiết bị, thông tin…
c. Lập các kế hoch, phương án và đề ra những quy trình cải tiến chất lượng

Chương trình cải tiến chất lượng trong doanh nghiệp cần thiết phải hướng vào các
mục tiêu sau:
 Cải tiến hệ thống chất lượng và công tác quản lý chất lượng.
 Cải tiến các quy trình sản xuất, máy móc, thiết bị và công nghệ.
 Cải tiến chất lượng công việc trong toàn doanh nghiệp.
Tóm lại, lập kế hoạch là một chức năng quan trọng trong TQM. Kế hoạch chất
lượng phải bao trùm lên mọi hoạt động, phải phù hợp với mục tiêu và chính sách của
doanh nghiệp.
1.3.5. Thiết kế chất lượng
Thiết kế chất lượng là một công việc quan trọng, nó không chỉ là những hoạt động
thiết kế sản phẩm, dịch vụ một cách đơn thuần, mà còn là việc thiết kế, tổ chức một
quá trình nhằm đáp ứng những yêu cầu của khách hàng. Thiết kế chất lượng là một
trong những khâu then chốt trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, nó bao gồm các
hoạt động chủ yếu sau: nghiên cứu, phát triển, thiết kế, thẩm định thiết kế…
Với phương châm “làm việc đúng ngay từ đầu”, trong TQM các hoạt động thiết kế
và thẩm kế có vai trò đặc biệt quan trọng, nhằm giảm thiểu những tổn thất chất lượng
do sự không phù hợp gây ra trong suốt quá trình hình thành chất lượng.
1.3.6. Xây dựng hệ thống chất lượng
Trong TQM, hệ thống chất lượng phải mô tả được những thủ tục cần thiết, chính
xác nhằm đạt các mục tiêu về chất lượng. Toàn bộ các thủ tục trong hệ thống chất
lượng phải được thể hiện trong “Sổ tay chất lượng” của đơn vị. Hệ thống chất lượng
phải được viết ra, bao gồm một tài liệu hướng dẫn quản lý chất lượng làm tài liệu ở
mức cao nhất, sau đó được cập nhật và cuối cùng là các thủ tục chi tiết. Kết quả sẽ làm



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
tăng hiệu quả của việc thực hiện phương châm làm đúng, làm tốt ngay từ đầu, tránh

những sai lệch trong việc thực hiện hợp đồng, giảm lãng phí tới mức thấp nhất.
Tuy nhiên, hệ thống chất lượng tự nó cũng sẽ không mang lại lợi ích gì nếu không
có sự tham gia của tất cả mọi thành viên trong tổ chức một cách tự nguyện và tích cực.
Để thành công, hệ thống chất lượng cần phải được xây dựng tỉ mỉ, chính xác, phù hợp
với hoàn cảnh, lĩnh vực hoạt động cụ thể của từng doanh nghiệp và môi trường, đồng
thời phải phối hợp đồng bộ với các hệ thống đã và sẽ có trong doanh nghiệp. Mặt
khác, nó phải được xây dựng với sự tham gia của các thành viên để mọi người có thể
hiểu rõ về hệ thống chất lượng trong doanh nghiệp.
1.3.7. Theo dõi bằng thống kê
Để thực hiện các mục tiêu của công tác quản lý và nâng cao chất lượng, TQM đòi
hỏi không ngừng cải tiến quy trình bằng cách theo dõi và làm giảm tính biến động của
nó nhằm:
 Xác định khả năng đáp ứng được các yêu cầu của quy trình.
 Khả năng hoạt động thường xuyên theo yêu cầu.
 Tìm ra những nguyên nhân gây ra những biến động trong quy trình để tránh lập
lại và xây dựng những biện pháp phòng ngừa.
 Thực hiện các biện pháp chỉnh lý đúng đắn cho quy trình hoặc các đầu vào của
nó khi có các vấn đề trục trặc ảnh hưởng đến chất lượng.
1.3.8. Kiểm tra chất lượng
Quá trình kiểm tra chất lượng trong TQM là một hoạt động gắn liền với sản xuất.
Nó không đơn thuần là công việc kỹ thuật mà còn bao gồm các biện pháp tổng hợp và
đồng bộ về tổ chức, kinh tế, giáo dục, hành chính, nhằm loại bỏ hay kiểm soát những
nguyên nhân của sai sót và trục trặc chất lượng trong hệ thống và cũng trên cơ sở đó
tiến hành các hoạt động cải tiến, nâng cao và hoàn thiện chất lượng.
Kiểm tra chất lượng trước khi sản xuất
 Kiểm tra tình trạng chất lượng và việc cung cấp các hồ sơ tài liệu thiết kế, công
nghệ.
 Kiểm tra tình trạng các phương tiện đo lường, kiểm nghiệm.




Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
 Kiểm tra tình trạng thiết bị công nghệ.
 Kiểm tra các điều kiện đảm bảo chất lượng khác.
Kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu và sản phẩm nhập
 Kiểm tra bên ngoài.
 Kiểm tra phân tích thử nghiệm.
Kiểm tra trong quá trình sản xuất
 Kiểm tra tiêu thụ sản phẩm.
 Kiểm tra phòng ngừa phế phẩm.
 Thống kê, phân tích các chỉ tiêu chất lượng.
 Thống kê, phân tích các dạng và các nguyên nhân gây khuyết tật trên sản phẩm
và trục trặc trong quy trình.
Kiểm tra thăm dò chất lượng trong quá trình sử dụng
 Các hình thức thử nghiệm trên các môi trường, điều kiện sử dụng khác nhau để
kiểm chứng và cải tiến chất lượng.
 Thăm dò khách hàng qua trưng cầu ý kiến, hội nghị khách hàng, trả lời thư của
khách hàng, thống kê, theo dõi khách hàng.
1.3.9. Hợp tác nhóm
Sự hợp tác nhóm trong hoạt động chất lượng có một ý nghĩa rất to lớn đối với các
tổ chức, xí nghiệp Vì sự cố gắng vượt bậc của mỗi cá nhân riêng lẽ trong tổ chức khó
có thể đạt được sự hoàn chỉnh trong việc giải quyết những thắc mắc, trục trặc so với sự
hợp tác của nhiều người, do vậy mà hình thức hợp tác nhóm sẽ mang lại một hiệu quả
cao trong việc cải tiến chất lượng nhất là trong quá trình áp dụng TQM.
Để làm được điều này thì tổ chức phải tạo điều kiện cho mỗi thành viên thấy được
trách nhiệm của mình, của nhóm trong công việc bằng cách trao cho họ quyền tự quyết
và phải thừa nhận những đóng góp, ý kiến, hay những cố gắng bước đầu của họ. Chính
tinh thần trách nhiệm đó làm nảy sinh tính tự hào, hài lòng với công việc và việc làm

tốt hơn. Sự hợp tác nhóm được hình thành từ lòng tin cậy, tự do trao đổi ý kiến và đặc
biệt là sự thông hiểu công việc của các thành viên đối với những mục tiêu, kế hoạch
chung của doanh nghiệp.



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
Các hoạt động quản lý và cải tiến chất lượng đòi hỏi phải có sự hợp tác nhóm và
các mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Mục tiêu hoạt động của các tổ, nhóm chất lượng
thường là tập trung vào các vấn đề cụ thể, qua sự phân tích, thảo luận, hiến kế của các
thành viên sẽ chọn ra các giải pháp tối ưu, khả thi nhất. Hoạt động của các nhóm chất
lượng trong doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú, nếu được quản lý tốt sẽ mang lại
hiệu quả rất lớn trong việc thực hiện chương trình TQM một cách nhanh chóng và tiết
kiệm.
1.3.10. Đào tạo và huấn luyện về chất lượng
Để thực hiện việc cam kết tham gia quản lý, cải tiến chất lượng ở tất cả mọi thành
viên trong doanh nghiệp cần phải có một chương trình đào tạo, huấn luyện cụ thể, tiến
hành một cách có kế hoạch và thường xuyên để đáp ứng những thay đổi về công nghệ
cũng như thích ứng một cách nhanh chóng với những yêu cầu về sản phẩm ngày càng
đa dạng của thị trường. Yêu cầu của việc đào tạo, huấn luyện:
 Phải đảm bảo rằng mọi nhân viên đều được đào tạo, huấn luyện đúng đắn để họ
có thể thực thi đúng nhiệm vụ được phân công.
 Nhân viên hiểu rõ được các yêu cầu của khách hàng.
 Những lĩnh vực nào cần ưu tiên cải tiến hoạt động
 Xây dựng các kế hoạch nhân sự lâu dài, chuẩn bị cho tương lai.
 Cần phải soạn thảo thêm các thủ tục, tiêu chuẩn nào?
Việc đào tạo về chất lượng trong doanh nghiệp cần phải thực hiện cho mọi cấp
quản trị và nhân viên với những nội dung thích hợp:

 Cấp lãnh đạo cấp cao:
Họ là những người quyết định chính sách, chiến lược nên việc am hiểu TQM
đối với họ sẽ có tính chất quyết định thành công hay thất bại của chương trình.
 Cấp lãnh đạo trung gian:
Là những ngưòi quyết định về sách lược hoặc thực thi các chính sách. Họ cần
phải có đủ trình độ để tư vấn cho lảnh đạo về chất lượng trong doanh nghiệp, kể
cả trong việc thiết kế, vận hành và kiểm soát hệ thống chất lượng. Ngoài ra, họ
còn có trách nhiệm huấn luyện và giúp đỡ các đồng nghiệp khác trong việc thiết
kế và vận hành hệ thống quản lý chất lượng trong phạm vi chức năng của họ.



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
 Các cán bộ giám sát chất lượng và lãnh đạo nhóm chất lượng:
Là những người kiểm tra giám sát và quyết định công việc tại chỗ. Họ cần được
trang bị kiến thức để quản lý tại chỗ việc thực thi các hoạt động chất lượng,
phải sử dụng thành thạo các công cụ kiểm soát chất lượng bằng thống kê, phải
có khả năng kiểm soát, hướng dẫn nhân viên tại chỗ.
 Các nhân viên trong doanh nghiệp:
Là những người thực thi các hoạt động chất lượng. Mỗi nhân viên cần được
huấn luyện tỉ mỉ về các thủ tục, tiêu chuẩn chất lượng liên quan đến công việc
của họ cũng như về những kỹ thuật, nghiệp vụ và những khái niệm về tính đồng
bộ trong hệ thống. Hiểu rõ những yêu cầu của khách hàng bên trong cũng như
bên ngoài của mình, biết sử dụng các biểu đồ thống kê và được khuyến khích
tham gia vào các dự án cải tiến chất lượng.
1.3.11. Hoạch định việc thực hiện TQM
Để thực hiện TQM, điều trước tiên đối với tổ chức là phải xây dựng cho được kế
hoạch giúp cho tổ chức tiếp cận với TQM một cách dễ dàng, xác định được ngay trình

tự thực hiện các công đoạn của TQM từ am hiểu, cam kết cho đến việc thiết lập hệ
thống chất lượng, kiểm soát, hợp tác nhóm, đào tạo…




Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
CHƯƠNG 2:
ỨNG DỤNG TQM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
2.1 Tổng quan về đặc điểm các doanh nghiệp ở Việt Nam
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là những doanh nghiệp (DN) có quy mô nhỏ
về vốn, lao động hay doanh thu.
DNNVV có những lợi thế nhất định trong môi trường kinh doanh. Thứ nhất, các
DNVVN năng động, linh hoạt trước những thay đổi của thị trường; đặc biệt là nhu cầu
nhỏ, lẻ, có tính địa phương bởi những doanh nghiệp này có khả năng chuyển hướng
kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh, tăng giảm lao động dễ dàng, nơi làm
việc của người lao động có tính ổn định và ít bị đe doạ mất nơi làm việc. Trong khi đó,
người lao động ở các doanh lớn dễ bị mất việc làm hơn, đặc biệt có suy thoái kinh tế.
Thứ hai, DNNVV tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý linh hoạt, gọn nhẹ, các quyết định
quản lý thực hiện nhanh, công tác kiểm tra, điều hành trực tiếp. Qua đó góp phần tiết
kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp. Thứ ba, lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao,
thu hồi nhanh, điều đó tạo sức hấp dẫn trong đầu tư sản xuất kinh doanh mọi thành
phần kinh tế vào khu vực này.
Bên cạnh những thế mạnh thì DNNVV tồn tại không ít hạn chế. Thứ nhất, nguồn
vốn tài chính hạn chế, đặc biệt nguồn vốn tự có cũng như bổ sung để thực hiện quá
trình tích tụ, tập trung nhằm duy trì hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh. Thứ hai, cơ sở
vật chất kỹ thuật, trình độ công nghệ kỹ thuật thường yếu kém, lạc hậu; nhà xưởng, nơi
làm việc trực tiếp và trụ sở giao dịch, quản lý của đa phần các DN nhỏ rất chật hẹp.

Thứ ba, trình độ quản lý nói chung và quản trị các mặt theo các chức năng còn hạn
chế. Đa số các chủ DN nhỏ chưa được đào tạo cơ bản, đặc biệt những kiến thức về
kinh tế thị trường, về quản trị kinh doanh, họ quản lý bằng kinh nghiệm và thực tiễn là
chủ yếu.
Trong cộng đồng DN Việt Nam thì DNNVV là loại hình DN chiếm đa số và chủ
yếu trong nền kinh tế. Theo đó, loại hình DN này đóng vai trò quan trọng trong tạo
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho
đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo…



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
Những năm qua số lượng các DNNVV tăng lên nhanh chóng, năm 2000 cả nước
chỉ có 40.898 doanh nghiệp, nhưng tới năm 2010 con số ấy lên đến gần 500.000 doanh
nghiệp. Năm 2012, trước những biến động suy thoái mạnh mẽ của tình hình kinh tế thế
giới và trong nước, cả nước đã có khoảng 55.000 doanh nghiệp giải thể. Tuy nhiên, bù
lại, có 65.000 doanh nghiệp thành lập mới, và theo cái nhìn tích cực, lạc quan thì vẫn
còn khoảng 10.000 doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh tế.
Năm 2013 được dự báo vẫn là năm rất khó khăn đối với các DNNVV, tuy nhiên
trong khó khăn vẫn có nhiều thuận lợi và thời cơ mới với mục tiêu gắn với phương
hướng triển khai nhiệm vụ kinh tế - xã hội đã được Quốc hội thông qua. Bên cạnh đó,
những chương trình triển khai toàn diện và thận trọng của Chính phủ nhất là những
chính sách giải pháp tháo gỡ khó khăn cho DN được tăng cường như: tập trung giải
quyết vấn đề tồn kho, nợ xấu, bất động sản, cũng như xây dựng mục tiêu dài hạn, giải
quyết đổi mới cơ cấu kinh tế gắn với tăng trưởng, sắp xếp phân bổ vốn đặc biệt đầu tư
công; sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước; sắp xếp lại hệ thống tài Cùng với đó, tiếp
tục đổi mới hệ thống thể chế và tập trung hướng tới đào to nguồn nhân lực chất
lượng kèm theo sự cải tiến mnh mẽ hệ thống quản trị chất lượng sẽ tạo ra những điều

kiện thuận lợi cho DN trong đó có các DNNVV.
2.2 Tình hình triển khai áp dụng TQM ở Việt Nam
2.2.1 Tình hình áp dụng TQM ở Việt Nam
Các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thấy rằng: Nền kinh tế nước nhà đang trong
quá trình cạnh tranh hội nhập với khu vực và thế giới. Do đó, vấn đề nâng cao chất
lượng sản phẩm của doanh nghiệp là điều hết sức quan trọng. Một mặt để cạnh tranh
với hàng ngoại nhập ồ ạt tràn vào Việt Nam, mặt khác tạo điều kiện để hàng Việt Nam
vươn ra thị trường thế giới.
Từ nhận thức trên, các doanh nghiệp Việt Nam những năm gần đây đã chú trọng
vấn đề chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để
nâng cao hiệu quả của công tác quản lý này. Ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều DN áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế. Một số tiêu chuẩn được áp dụng phổ biến
như ISO 9000, HACCP…đó là những dấu hiệu đáng mừng của chúng tá trong những
bước đi trên con đường tiến tới kỷ nguyên chất lượng.



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
TQM là một hệ thống quản lý chất lượng đem lại những thành công rực rỡ cho
Nhật Bản. Hiện nay, trên thế giới đã có hàng ngàn tổ chức, DN thực hiện thành công
TQM. Nhưng ở Việt Nam con số này còn quá ít do sự mới mẻ của phương thức quản
lý. Những số liệu thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các
DNNVV nói riêng vẫn chưa mấy quan tâm đến hệ thống quản lý chất lượng tổng thể
TQM. Số lượng các doanh nghiệp áp dụng TQM còn rất ít và chủ yếu là các doanh
nghiệp lớn, có quy mô tiềm lực tài chính mạnh như Vinamilk, Cadivi hoặc các công ty
liên doanh hoặc FDI như Toyota, Honda, Sony, Matsushita,… Theo Báo cáo đánh giá
kết quả áp dụng TQM ở các doanh nghiệp áp dụng thí điểm thuộc đề tài “Triển khai áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng toàn diện TQM trong các doanh nghiệp” của Trung

tâm Hỗ trợ Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 2 (SMEDEC 2), có khoảng 20 doanh
nghiệp được chọn áp dụng và đánh giá hiệu quả các mức độ thực hiện TQM. Trong
đó, hầu hết các doanh nghiệp chưa biết đến và 100% chưa áp dụng TQM trước khi
tham gia đề tài.
Như vậy, có thể thấy việc áp dụng TQM tại các doanh nghiệp Việt Nam còn rất
nhiều hạn chế. Trong đó có các DNNVV mới chỉ chú trọng áp dụng các công cụ quản
lý chất lượng thiết yếu cho hoạt động sản xuất kinh doanh như ISO, HACCP, GMP.
Mặc dù đã được giới thiệu và triển khai áp dụng từ những năm 90 nhưng TQM hiện
vẫn chưa phổ biến và được các doanh nghiệp chú trọng.
2.2.2 Thuận lợi
a. Sự quan tâm hỗ trợ của Chính phủ
Việc phát triển của một DN có mối quan hệ rất mật thiết với những quy định,
những chính sách mà chính quyền nước sở tại đề ra. Với việc nỗ lực, cố gắng tạo mọi
điều kiện để các DN có cơ hội phát triển một cách tốt nhất, Chính phủ đã ban hành
hàng loạt các ưu đãi nhằm khuyến khích cho các DN thành lập mới và thúc đẩy sự đi
lên trong hoạt động sản xuất kinh doanh:
 Khuyến khích thành lập, hỗ trợ các thủ tục pháp lý, các ưu đãi về cơ sở hạ tầng
như thuê đất, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ vay vốn, hỗ trợ công nghệ, đào tạo và
nâng cao trình độ đội ngũ quản lý, đội ngũ công nhân viên



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
 Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp ngày càng được hoàn thiện
với việc ban hành, sửa đổi bổ sung liên tục những văn bản luật, những nghị
định, nghị quyết… Ví dụ mới đây nhất 2 sự kiện đã tạo được sự đồng thuận cao
trong các doanh nghiệp:
Thứ nhất, ngày 10/05/2012, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP

về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị
trường như giãn thời gian nộp thuế VAT, giảm tiền thuê đất, tái cơ cấu nợ…
Thứ hai, chiều 20/05/2013, tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 5 khóa XIII, Phó thủ
tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh đã trình bày tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo tờ trình của Chính phủ
trước Quốc hội, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành quy định mức thuế
suất phổ thông là 25%. Để thực hiện chiến lược cải cách thuế đến năm 2020 là
giảm dần mức động viên, tại Khoản 6, Điều 1 Dự thảo luật quy định từ
1/1/2014 áp dụng mức thuế suất phổ thông là 22%; doanh nghiệp sử dụng dưới
200 lao động và có tổng doanh thu năm không quá 20 tỉ đồng được áp dụng
thuế suất phổ thông 20% kể từ 1/7/2013. Nếu luật sửa đổi mới được đưa vào áp
dụng thì những quy định về giảm thuế suất và lộ trình giảm thuế suất sẽ góp
phần rất lớn tạo điều kiện cho DN tích lũy vốn, mở rộng sản xuất, nâng cao tính
cạnh tranh, đẩy mạnh, khuyến khích thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp…v v
Như vậy sự hỗ trợ tích cực, đúng đắn, kịp thời của Chính phủ góp phần quan trọng vào
sự phát triển của DN, đặc biệt là các DNNVV. Có môi trường hoạt động tốt, những
chính sách khuyến khích hỗ trợ mạnh từ phía nhà nước, các DNNVV mới có thể phát
triển bền vững và có điều kiện tốt để ứng dụng công cụ quản lý chất lượng như TQM.
b. Sự phát triển của khoa học công nghệ
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đang làm cho cuộc
sống con người thay đổi từng ngày, từng giờ. Sự đóng góp của khoa học công nghệ đã
tạo ra năng suất lao động cao hơn, chất lượng hàng hóa tốt hơn, giá thành rẻ hơn góp
phần cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường thế giới. Khoa học công nghệ không chỉ
mang lại tiện ích cho cuộc sống con người mà còn vô cùng quan trọng đối với hoạt



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com

BLOG “SHARE TO BE SHARED”
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một công nghệ mới có thể làm thay đổi
cả quy trình sản xuất hay một cải tiến nho nhỏ có thể làm lợi cho công ty rất lớn.
Trong lĩnh vực quản lý chất lượng khoa học công nghệ đóng vai trò rất lớn. Khoa
học công nghệ giúp tạo ra vật liệu mới, công nghệ dây chuyền sản xuất hiện đại nhằm
tiết kiệm nguyên vật liệu, chi phí sản xuất rút ngắn thời gian sản xuất và tăng năng suất
lao động, tăng chất lượng của sản phẩm. Không chỉ vậy, khoa học công nghệ còn giúp
doanh nghiệp quản lý tốt hơn dây chuyền sản xuất, kiểm soát chất lượng dễ dàng hơn,
đồng thời giúp doanh nghiệp kịp thời nằm bắt về thông tin của thị trường và phản hồi
của khách hàng về chất lượng sản phẩm.
Với sự nhanh nhẹn, nhạy bén, Việt Nam là một trong những quốc gia tiếp thu và
thích nghi với khoa học công nghệ mới khá nhanh chóng. Đó là một lợi thế để tin
tưởng vào khả năng ứng dụng những hệ thống quản lý chất lượng hiện đại của các
cường quốc về chất lượng của doanh nghiệp Việt. Ngày nay, xu hướng thị trường hiện
đại là “Bán cái khách hàng cần, chứ không phải bán cái doanh nghiệp có”, tính cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp là vô cùng lớn, không chỉ những doanh nghiệp trong nước
mà còn cả các đối thủ lớn từ các cường quốc kinh tế thế giới. Chính vì vậy, việc có thể
tồn tại và phát triển được hay không trên thương trường của một công ty phụ thuộc rất
nhiều vào sự phát triển sản phẩm mới, chất lượng sản phẩm đó và sự nắm bắt, đáp ứng
được nhu cầu luôn thay đổi của khách hàng.
TQM là một trong những công cụ quản lý chất lượng giúp doanh nghiệp quản lý
hiệu quả nhất nhờ tinh thần nhân văn và phát huy tính sáng tạo của toàn bộ các cấp từ
lãnh đạo đến nhân viên. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, TQM sẽ là
một trợ thủ đắc lực giúp các doanh nghiệp gặt hái được những thành công trên thương
trường khắc nghiệt.
c. Hội nhập kinh tế quốc tế và sự mở cửa thị trường
Mở cửa hội nhập sẽ giúp chúng ta tiếp cận được những cái mới trong lĩnh vực
công nghệ, cả công nghệ quản lý và cả công nghệ trong sản xuất. Bước chuyển biến
trong việc tiếp thu công nghệ sẽ góp phần làm thay đổi hiệu suất sản xuất, tăng năng
suất lao động. Những bước tiến công nghệ sẽ giúp chúng ta tiến xa hơn trong sản xuất

và kinh doanh. Hàm lượng công nghệ trong mỗi sản phẩm sẽ góp phần là tăng tính



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
cạnh tranh cũng như chất lượng của từng sản phẩm. Nhưng bước tiến quan trọng nhất
trong việc hội nhập mở cửa và tiếp thu công nghệ đó là công nghệ quản lý, chính sự
quản lý chuyên nghiệp sẽ làm thay đổi cách thức làm việc và tác phong công nghiệp
trong sản xuất, thay đổi được thói quen tập tục gắn liền với nông nghiệp của Việt
Nam. Như vậy có thể thấy, hội nhập kinh tế quốc tế và mở cửa cửa thị trường tạo ra rất
nhiều cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp Việt Nam, kéo theo đó là sự phát triển
của hoạt động quản lý chất lượng.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều công ty áp dụng thành công TQM. Nước ta hiện
nay cũng có một vài công ty đang triển khai TQM một cách tương đối bài bản như
Công ty liên doanh Toyota Việt Nam, Công ty liên doanh Cotas Tootal Phong Phú,
Công ty Castrol Việt Nam… Đây là môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp Việt
Nam học hỏi kinh nghiệm, áp dụng những cải tiến mới của TQM vào thực tiễn doanh
nghiệp của mình.
2.2.3 Khó khăn
a. Tình hình kinh tế xã hội hiện nay
- Tình hình thế giới: Đến cuối năm 2012 và 4 tháng đầu năm 2013, nền kinh tế thế giới
vẫn tiếp tục có những bấp bênh rất lớn, phản ánh chiều hướng đan xen suy giảm và tạo
đà phục hồi kinh tế trong khó khăn. Ngay từ những tháng đầu năm 2012, tất cả các tổ
chức tài chính quốc tế đều liên tục điều chỉnh dự báo, lúc tăng, lúc giảm. Tổng kết
kinh tế cả năm, các đánh giá đều đi đến một quan điểm chung: năm 2012 là năm có
mức tăng trưởng kinh tế và công nghiệp thấp nhất, thương mại kém nhất trong ba năm
gần nhất trên phạm vi toàn cầu, lẫn các nền kinh tế thu nhập cao và các nền kinh tế
đang phát triển, kể cả các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ.

Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì những
bất ổn của thế giới cũng đang tác động mạnh đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước
ta. Về mặt thương mại, nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của các
doanh nghiệp này sang một số thị trường như Mỹ, Nhật, EU. Đồng thời, các chính
sách thắt chặt của Chính phủ để kiềm hãm mức độ lạm phát, giá cả và thị trường tiền
tệ, ngoại hối… do ảnh hưởng của kinh tế thế giới cũng gây rất nhiều khó khăn cho
doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các DNNVV.



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
- Tình hình trong nước: Khoảng 3 năm trở lại đây, do những tác động tiêu cực của nền
kinh tế thế giới kết hợp với những bất ổn vĩ mô và những yếu kém trong quản lý mà
nền kinh tế Việt Nam đã gây ra khá nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp biểu hiện qua một số điểm chính như: tăng trưởng kinh tế suy giảm,
giá cả và lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán và đầu tư bất động sản ảm đạm,
thị trường vàng và ngoại hối biến động lớn, lãi suất cho vay cao và thắt chặt tín dụng,
nợ xấu tăng mạnh và hàng chục nghìn doanh nghiệp phá sản, kinh tế Việt Nam rơi vào
giai đoạn thực sự khó khăn. Đó là thực trạng hiện nay khiến các doanh nghiệp tồn tại
rất khó khăn và việc thực hiện đầu tư ứng dụng TQM còn khó khăn hơn nữa.
b. Vấn đề quản lý thị trường và nn hàng lậu, hàng giả, hàng nhái
Theo báo cáo của Cục Quản lý thị trường (Cục QLTT), năm 2012 Chi cục QLTT
TP. Hồ Chí Minh đã phát hiện hơn 1.000 vụ nhập lậu với gần 3 triệu đơn vị sản phẩm.
Trong đó đã tạm giữ và xử lý 376.000 kg thực phẩm, quần áo, điện thoại di động, mỹ
phẩm, phụ tùng linh kiện các loại và 8.500 lít các mặt hàng bia, rượu, sữa nước
Riêng mặt hàng thuốc lá ngoại nhập lậu, từ đầu năm đến nay, Chi cục đã kiểm tra 157
vụ, tịch thu 161.000 bao thuốc lá các hiệu, nhiều nhất là Jet, Hero.
Tình trạng buôn bán hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng và gian lận thương

mại trên địa bàn cả nước vẫn diễn biến phức tạp. Trong năm 2012, chỉ riêng thành phố
Hồ Chí Minh, lực lượng QLTT đã kiểm tra xử phạt trên 4.000 vụ vi phạm về hàng
nhập lậu và buôn bán hàng giả, hàng nhái, gian lận thương mại, thu trên 114,4 tỉ đồng,
trị giá hàng tiêu huỷ đạt 12,3 tỉ đồng. Như vậy, có thể thấy tình trạng gian lận thương
mại, hàng nhái, hàng giả đang gây khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp ứng dụng các công cụ quản lý chất lượng và có các sản phẩm đạt chất
lượng tốt. Các doanh nghiệp sẽ không mặn mà với việc bỏ ra rất nhiều chi phí và công
sức để ứng dụng một công cụ quản lý chất lượng, cải tiến sản phẩm khi mà các sản
phẩm và công nghệ của họ có thể dễ bị làm nhái, làm giả trên thị trường.
2.3 Đánh giá tính hiệu quả việc ứng dụng TQM ở Việt Nam
a. Nhận xét:



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
Từ những kinh nghiệm thực tế, người ta nhận thấy rằng những kết quả thu được từ
những hoạt động cải tiến chất lượng ứng dụng TQM của doanh nghiệp sẽ mang lại
những ưu thế sau:
 Nhờ thường xuyên có những hoạt động cải tiến chất lượng, doanh nghiệp có thể
nâng cao uy tín của mình trên thương trường, tăng thu nhập một cách ổn định
nhờ chất lượng sản phẩm, dịch vụ đáp ứng được những đòi hỏi của khách hàng.
 Trong doanh nghiệp có thể thống nhất được mọi nỗ lực của tất cả các cán bộ,
lôi kéo được sự tham gia của mọi thành viên vào các hoạt động cải tiến, nâng
cao chất lượng một cách đồng bộ tạo ra một hệ thống hoạt động nhịp nhàng.
 Trong quá trình thực thi TQM, việc phân tích quá trình sản xuất và chất lượng
bằng các công cụ thống kê cho phép nghiên cứu chính xác hơn các kết quả thu
được và nguyên nhân của chúng.
 Việc áp dụng TQM một cách rộng rãi là một cơ sở vững chắc để tiếp thu, quản

lý và cải tiến các công nghệ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm
trên nhiều lĩnh vực.
Bên cạnh những ưu thế, TQM còn một hạn chế lớn, đó là TQM khó thực hiện, đặc biệt
đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ như ở Việt Nam.
b. Đánh giá:
Có thể nói rằng việc lựa chọn và áp dụng TQM là bước phát triển tất yếu của các
doanh nghiệp Việt Nam. Chính TQM là điều kiện cần cho các doanh nghiệp Việt Nam
để họ áp dụng nâng cao trình độ quản lý chất lượng thấp kém hiện nay. Tiêu chuẩn
ISO 9000 chỉ cho chúng ta biết cần phải làm gì để bảo đảm phù hợp ISO 9000 nhưng
làm thế nào để đạt mức đó thì ISO 9000 không nêu rõ. Nhưng chúng ta đã biết không
phải dễ dàng gì để được chứng nhận ISO 9000 và ít nhất chúng ta phải có hệ thống
chất lượng đáp ứng được ISO 9000. Còn TQM có thể thực hiện trong các doanh
nghiệp nếu các doanh nghiệp muốn dù họ ở mức độ TQM nào.
Vì thế khi nói về sự lựa chọn hệ thống chất lượng áp dụng trong các doanh nghiệp
Việt Nam ta có thể nêu ra ý kiến. Hệ thống TQM nên được tuyên truyền và áp dụng
trong các doanh nghiệp Việt Nam ngay mà không cần chứng chỉ ISO rồi mới áp dụng.
TQM nếu áp dụng đụng đắn sẽ tạo ra nội lực thúc đẩy mạnh mẽ việc cải tiến liên tục



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
chất lượng sản phẩm thỏa mãn khách hàng. Vì thế để tự tin bước vào thế kỉ 21, các
doanh nghiệp việt Nam rất nên áp dụng TQM cho dù có hay không có ISO 9000.



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com

BLOG “SHARE TO BE SHARED”
CHƯƠNG 3:
KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI ÁP DỤNG TQM
MỘT CÁCH CÓ HIỆU QUẢ Ở VIỆT NAM
3.1 Giải pháp vĩ mô
3.1.1 Ổn định kinh tế
Kinh tế nước nhà khó khăn, DN không thể phát triển một cách ổn định và an toàn.
Thời gian qua, một phần do khủng hoảng kinh tế thế giới tác động, nước ta lại phải
ứng phó với nhiều khó khăn kinh tế nội tại kéo dài, quan điểm còn những vướng mắc,
nên cải cách thể chế chậm, nhất là về cạnh tranh chống độc quyền, ngân hàng, doanh
nghiệp nhà nước, đầu tư công, thị trường bất động sản DN trong nước phải chịu ảnh
hưởng ít nhiều bởi những tác động bất lợi từ những bất cập trên.
Để tạo được niềm tin, sự ổn định cho các doanh nghiệp an tâm phát triển, chính
phủ cần có những chính sách thiết thực và hiệu quả để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ
cấu lại nền kinh tế, thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Có như vậy những chiến
lược phát triển của DN nói chung và kế hoạch chất lượng dài hạn mới có thể được thực
hiện một cách suông sẻ, không bị đứt khúc, gián đoạn giữa chừng. Bởi sự thành công
của TQM phải được kiểm chứng qua thời gian dài, với những bất ổn kinh tế vĩ mô tác
động mạnh như hiện nay, việc các DN vẫn còn e dè sử dụng TQM không phải là
không có lý. Chính vì vậy, giải thành công bài toán ổn định kinh tế vĩ mô sẽ là bước
đầu thuận lợi nhất để đem đến sự thành công cho DN áp dụng TQM trong quản trị chất
lượng.
3.1.2 Chính sách quản lý nhà nước về chất lượng
Mục tiêu quản lý chất lượng của Nhà nước Việt Nam là “để đảm bảo nâng cao
chất lượng hàng hóa, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng, sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên và lao động, bảo vệ môi trường, thúc đẩy tiến bộ khoa học và công
nghệ, tăng cường năng lực quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác
kỹ thuật, kinh tế và thương mại quốc tế” (Pháp lệnh Chất lượng Hàng hóa 1999).




Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”

Để thực hiện những mục tiêu nói trên, Chính phủ ta phải đẩy mạnh hơn nữa các
biện pháp: Ban hành và áp dụng tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa; Kiểm tra và chứng
nhận chất lượng hàng hóa, áp dụng và chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng; công
nhận năng lực kỹ thuật và quản lý của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực chất lượng,
thanh tra và xử lý các vi phạm về chất lượng… Các chính sách này phải đề ra định
hướng chiến lược chung cho sự phát triển kinh tế xã hội, cho các ngành chủ chốt, cho
những mặt hàng xuất khẩu và tiêu dùng thiết yếu. Nhìn chung, khi hoạch định chính
sách cơ quan quản lý nhà nước phải nắm bắt được xu hướng phát triển của các hệ
thống chất lượng trên thế giới, các phương pháp mới được ứng dụng để có thể đưa ra
định hướng và các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp về chất lượng.
3.1.3 Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về TQM
Luật luôn đi sau một bước so với thực tế cuộc sống xã hội. Chúng ta không thể
ban hành luật khi các vấn đề bất cập chưa nảy sinh, vì vậy, mối quan tâm của xã hội
đối với nhà nước đó là việc các cấp lãnh đạo cập nhật luật nhanh chóng, kịp thời và
hợp lý như thế nào. Pháp luật về quản lý chất lượng cũng vậy, nhà nước cần xem xét
bổ sung những quy định cho những vấn đề mới nảy sinh trong quan hệ thương mại,
trong vấn đề chống hàng nhái, hàng giả… loại bỏ các quy định không còn phù hợp và
bổ sung, đổi mới các quy định về công tác xây dựng, áp dụng và chứng nhận phù hợp
tiêu chuẩn cho các đối tượng có liên quan.
Ngoài các bộ tiêu chuẩn của ISO về hệ thống quản lý chất lượng (ISO 9000),
nhiều các hệ thống khác cũng đang được các doanh nghiệp Việt Nam xem xét áp dụng,
như ISO 14001 – hệ thống quản lý môi trường, HACCP – Hệ thống Phân tích các
nguy cơ và Kiểm soát các điểm trọng yếu trong lĩnh vực nông sản thực phẩm, GMP –

Quy chế thực hành sản xuất tốt trong lĩnh vực dược và thực phẩm, OHSAS 18001 –
Hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, SA 8000 Hệ thống trách nhiệm xã
hội và các hệ thống quản lý chất lượng tích hợp hoặc đặc thù như ISO 22000 Hệ thống
quản lý an toàn thực phẩm (food chain), ISO/TS 29001 Công nghiệp dầu khí và hóa
dầu – Hệ thống quản lý chất lượng trong các ngành công nghiệp đặc thù - yêu cầu đối
với các tổ chức cung cấp sản phẩm và dịch vụ. Tuy nhiên, đối với hệ thống TQM,
chúng ta mới chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền phổ biến và một vài dự án hỗ trợ áp



Blog “Share to be shared” – Blogger Phạm Lộc
Facebook: facebook.com/phamloc120893 | Website: phamloc120893.blogspot.com
BLOG “SHARE TO BE SHARED”
dụng chứ chưa xây dựng được hệ thống đánh giá và chứng nhận cho các doanh nghiệp
thực hiện hệ thống này. Mặc dù chỉ là một chứng nhận trong nước và do các cơ quan
quản lý nhà nước cấp chứ không đươc công nhận rộng rãi trên phạm vi toàn cầu như
ISO nhưng nếu được chứng nhận nó sẽ tạo môi trường khuyến khích và động lực thúc
đẩy các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các DNNVV triển khai công cụ này.
3.1.4 Nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp về TQM
Việc TQM là một hệ thống quản lý chất lượng được đánh giá tính hiệu quả rất cao
lại ít phổ biến tại Việt Nam một phần do nhận thức về TQM của các DN Việt Nam còn
rất sơ khai. Trong xu thế chất lượng ngày càng được chú trọng như hiện nay, sự cần
thiết áp dụng TQM ngày càng được thúc đẩy. Vì vậy, nhà nước nên thông qua các
phương tiện thông tin để tuyên truyền, quảng bá lợi ích của việc áp dụng hệ thống
TQM trong các doanh nghiệp, cho họ nhận thức được rằng việc thực hiện các biện
pháp quản lý chất lượng là thiết thực cho sự tồn tại và đi lên của doanh nghiệp. Khi
các DN nắm bắt chậm, nhà nước có vai trò quan trọng để thay đổi, truyền bá những
thông tin cần thiết tới DN; các cấp lãnh đạo phải tổ chức thực hiện việc tuyên truyền
một cách tích cực vì lợi ích của DN cũng là vì lợi ích của kinh tế nước nhà. Nói như
vậy không có nghĩa tuyên truyền ồ ạt, thiếu hợp lý, cũng không phải chỉ tiến hành theo

hình thức suông, làm theo phong trào; ở đây cần phải có những kế hoạch định trước về
cách thức, mục tiêu, đối tượng hướng đến, có như vậy mới mang lại hiệu quả cho công
tác tuyên truyền, mới có thể biến hoạt động triển khai ứng dụng TQM thành phong
trào rộng lớn trong DN.
3.2 Giải pháp vi mô
3.2.1 Xác định chính sách và mục tiêu chất lượng của doanh nghiệp
Việc áp dụng TQM không phải là chuyện một sớm một chiều là có thể làm được.
Cần có thời gian và thực hiện liên tục, hơn thế nữa, để thực hiện một cách có hiệu quả
các DN phải hoạch định những chính sách ngắn hạn và dài hạn cho mình. Do đặc điểm
DN Việt Nam phần lớn là các DNNVV nên các DN này thường chỉ quan tâm đến hoạt
động sản xuất thực tế với các kế hoạch đặt ra về sản lượng và doanh thu mà không chú
trọng đến các chính sách và mục tiêu chất lượng. Họ chú tâm đến những mục tiêu
trước mắt mà không định hướng đến giải pháp tồn tại phát triển lâu dài của DN, trong

×