Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phòng ngừa và sàng lọc, phát hiện sớm ung thư pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.51 KB, 7 trang )

Phòng ngừa và sàng lọc, phát hiện
sớm ung thư


Vấn đề chẩn đoán và triệu chứng nhiều loại ung thư đã có nhiều tiến
bộ vượt bậc trong thời gian đây, tuy nhiên số người mắc bệnh và tử vong do
ung thư còn cao và dự báo tiếp tục gia tăng trong thời gian tới. Nếu ung thư
được chữa khỏi hậu quả về tài chính về thể lực và tình cảm vẫn bao trùm
quãng đời còn lại của người bệnh.
Các nhà dịch tể học đã ước lượng có khoảng 70-80% các bệnh ung thư
là do nguyên nhân môi trường, do đó chúng ta có thể dự phòng được bệnh
ung thư bằng cách ngăn cản việc tiếp xúc với các nguyên nhân gây ra ung
thư. Vì thế về lý thuyết chúng ta có khả năng làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ
lệ tử vong do ung thư khoảng hơn 80%.

I. SỰ PHÒNG NGỪA BAN ĐẦU (Phòng bệnh bước một)
Phòng ngừa ban đầu là nhằm cố gắng, loại trừ hoặc giảm tối đa sự tiếp
xúc với các nguyên nhân gây ra ung thư. Đây là phương pháp dự phòng tích
cực nhất.
1. Yếu tố nguyên nhân và phòng ngừa
1.1. Hút thuốc lá:
- Sự nghi ngờ có mối liên hệ giữa hút thuốc lá và ung thư đã được đề
cập đến từ 200 năm về trước. Báo cáo đầu tiên năm 1795 đã nêu ra mối liên
hệ giữa thuốc lá và ung thư môi. Công trình nghiên cứu đầu tiên năm 1928 đã
kết luận là ung thư gặp nhiều hơn ở những người nghiện thuốc lá. Trong thập
niên 50 những công trình nghiên cứu ở Anh và Hoa Kỳ đã chứng minh mối
liên hệ nhân quả giữa hút thuốc lá và ung thư phổi. Từ năm 1960 tỷ lệ hút
thuốc lá ở Mỹ, Canada, Anh, Úc đã giảm từ 42% còn 25% Tuy nhiên theo
thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới tỷ lệ hút thuốc lá ở các nước đang phát
triển gia tăng trung bình hằng năm khoảng 8%.
- Đến nay người ta đã nhận thấy thuốc lá gây ra 30% các loại ung thư,


90% ung thư phổi, 75% ung thư khoang miệng, thanh quản, thực quản, 5%
ung thư bàng quang. Do đó người thầy thuốc phải tổ chức các phong trào
phòng chống thuốc lá nhằm tuyên truyền cho những người nghiện thuốc giảm
dần đến ngừng hút .
+ Khuyến khích những người đang hút thuốc ngừng hút
+ Hỗ trợ cho người bệnh ngừng hút
+ Tổ chức thăm khám theo dõi định kỳ
+ Chú ý tuyên truyền đối với những thanh thiếu niên chưa bao
giờ hút thuốc và phụ nữ mang thai.
1.2. Chế độ ăn:
- Đứng sau thuốc lá nhiều yếu tố dinh dưỡng được xếp nguyên nhân
quan trọng thứ hai gây bệnh ung thư và tử vong.
- Chế độ ăn tiêu biểu Tây phương và một số nước phát triển gồm nhiều
thịt và chất béo có liên quan với ung thư đại tràng. Nhiều nghiên cứu gần đây
đã nhấn mạnh rằng nguy cơ tăng lên với chế độ ăn ít rau, ít trái cây do thiếu
vài loại sinh tố (A,C và E), các chất vi lượng (selen, sắt), và chất sợi trong
chế độ dinh dưỡng đó.
- Ở các nước đang phát triển, aflatoxin, một sản phẩm của nấm mốc
trên thức ăn là nguyên nhân chính gây ra ung thư gan; các Nitrit và Nitrat
trong thực phẩm hong khói có vai trò làm gia tăng tỷ lệ bệnh ung thư thực
quản, dạ dày.
- Mọi cố gắng ngăn ngừa ung thư đã hướng đến việc thay đổi chế độ ăn
ít thịt, tăng cường ăn nhiều hoa quả, rau và các loại vitamin nhất là
betacaroten. Tránh ăn nhiều mở , gia vị và ăn các thức ăn bị mốc.
1.3. Hóa dự phòng:
Hóa dự phòng là uống một hóa chất, các sinh tố chẳng hạn nhằm ngăn
chặn quá trình sinh ung thư. Hóa dự phòng chỉ mới thực sự phát triển nhanh
trong những năm gần đây. Nhiều hóa chất khác nhau đang được dùng nhằm
đánh giá hiệu quả của hóa dự phòng: Retinoid và caroten, nhiều chất chống
ôxy hóa như sinh tố C và E, Selen, calci, thuốc kháng viêm không steroid

(NSAIDS) như aspirin, sulindac và tamoxifen, chất kháng estrogen đã được
sử dụng rộng rãi để điều trị ung thư vú. Ở Hoa Kỳ một thử nghiệm ngẫu
nhiên nhằm ngăn chặn ung thư tiền liệt tuyến bằng finasteride, chất ngăn cản
5-alpha reductase.
1.4. Virus:
- Có 4 virus được biết là nguyên nhân gây ung thư ở người là: Virus
viêm gan B, virus Epstein-Barr, Virus bướu gai ở người (human papilloma
virus-HPV) và virus gây bệnh Bạch cầu T ở người. (HTLV)
- Viêm gan B cùng với nhiễm aflatoxin được xem là nguyên nhân gây
hầu hết ung thư gan nguyên phát ở các nước Châu Phi và Đông Nam Á.
Chủng ngừa rộng rãi viêm gan B cho trẻ mới sinh đã làm giảm tỷ lệ mắc
bệnh và tử vong do ung thư gan nguyên phát.
- Nhiều vacxin cũng đang lưu hành đối với virus Epstein-Barr, loại này
được coi là nguyên nhân chính gây ung thư vòm và limphoma Burkitt. Thuốc
chủng dùng cho HPV và HTLV đang ở giai đoạn khởi đầu.
1.5. Bức xạ mặt trời:
Bức xạ cực tím (UV) do phơi nắng quá độ được xem là tác nhân chính
gây ung thư da (có và không có sắc tố), đặc biệt liên quan với các sắc dân có
màu da sáng. Tỷ lệ ung thư cao nhất ở Úc và Ai-len. Cần tuyên truyền cho
người dân tránh phơi nắng quá mức, dùng các phương tiện che nắng (áo, nón
mũ), dùng thuốc bôi bảo vệ da.
1.6. Tiếp xúc nghề nghiệp:
- Tiếp xúc nghề nghiệp được xác định sớm nhất trong số nguyên nhân
gây ung thư. Số lượng chất sinh ung thư được biết nhiều hơn cả là trong lĩnh
vực công nghiệp. Ví dụ: Asbestos là chất sinh ung nghề nghiệp gây ung thư
phổi và trong mô màng phổi.
- Ở hầu hết các nước vệ sinh công nghiệp và bảo hộ lao động được thực
hiện một cách nghiêm túc nhằm hạ thấp tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh ung thư do
nghề nghiệp.
1.7. Tác dụng phụ do dùng thuốc:

- Một số phương pháp chuẩn đoán hoặc điều trị cũng có tính chất sinh
ung thư, đặc biệt là bằng xạ trị và hóa trị. Vài chất nội tiết dùng ngừa thai hay
điều trị phụ khoa cũng có nguy cơ sinh ung thư về sau. Ví dụ: ung thư âm đạo
ở những bé gái có tiếp xúc với diethylstilbestrol do người mẹ sử dụng vào
đầu thai kỳ để làm giảm cơn buồn nôn và ngừa dọa sẩy thai.
- Thầy thuốc lâm sàng cần phải lưu ý đến các chất sinh ung thư đặc biệt
là các nội tiết tố nữ, các chất chống ung thư nhóm có nhân Alkyl, phải có kế
hoạch theo dõi để phát hiện những ung thư thứ phát do dùng thuốc hoặc các
phương pháp điều trị gây ra.
1.8. Yếu tố di truyền:
Lịch sử gia đình từ lâu cũng được xem là yếu tố nguy cơ hay gặp của
một số loại ung thư như ung thư vú, ung thư đại trực tràng, ung thư võng mặc
mắt, bệnh khô da nhiễm sắc tố. Chiến lược dự phòng bước đầu như dùng
Tanoxifen như thử nghiệm hóa dự phòng cho những phụ nữ có tiền căn gia
đình mắc ung thư vú. Ngoài ra người ta cũng phải lưu ý dự phòng bước hai
(chương trình sàng lọc) đối với người có tiền sử gia đình bị ung thư.
2. Những yếu tố nguy cơ khác.
- Bức xạ ion hóa cũng là yếu tố nguy cơ của nhiều dạng ung thư, ví dụ
sau lần ném bom nguyên tử ở Nhật, hoặc sau tai nạn lò phản ứng nguyên tử ở
Chernobyl.
- Một yếu tố nguy cơ ung thư mới được biết gần đây là ít hoạt động
thân thể, làm việc và giải trí có thể giúp phòng ngừa ung thư đại tràng.
- Nhiều ung thư được biết có liên quan với AIDS. Mọi biện pháp ngăn
ngừa bệnh AIDS cũng là nỗ lực dự phòng một số bệnh ung thư.



×