Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

30 câu tự luận Triết học cao học UEH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.62 KB, 38 trang )

ĐÁP ÁN 30 CÂU TRIẾT PHẦN 2
Câu 1: Phân tích nội dung và bản chất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng (CNDVBC) với tính cách là hạt
nhân lý luận của Thế gới quan khoa học (TGQKH).
Trả lời:
1. Nội dung: Có 2 nhóm quan điểm:
Quan điểm duy vật về thế giới:
 Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết
thế giới phải tồn tại. Tính thống nhất thật sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, tính vật chất này được chứng
minh bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên.
 Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới, có nội dung như sau:
 Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
 Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các quá trình vật chất cụ thể, có mức độ tổ chức nhất định; đang biến đổi
chuyển hóa lẫn nhau là nguồn gốc, nguyên nhân của nhau; cùng chịu sự chi phối bởi các quy luật khách quan
của TGVC.
 Ý thức, tư duy con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao; thế giới thống nhất và duy
nhất.
 Phạm trù vật chất: vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào
cảm giác.
 Phạm trù ý thức, quan hệ giữa ý thức và vật chất: Ý thức của con người tồn tại trước hết trong bộ óc con người,
sau đó thông qua thực tiễn lao động nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra. Ý thức gồm nhiều
yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí… trong đó tri thức và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Thông qua
hoạt động thực tiễn, ý thức con người xâm nhập vào hiện thực vật chất tạo nên sức mạnh tinh thần tác động lên
thế giới góp phần biến đổi thế giới.
Quan điểm duy vật về xã hội:
1
 Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, nó là kết quả phát triển lâu dài của tự nhiên, có quy luật vận động,
phát triển riêng, sự vận động, phát triển của xã hội phải thông qua hoạt động thực tiễn.
 Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Nền sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử gắn liền với một
phương tiện sản xuất nhất định, sự thay đổi PTSX sẽ làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.
 Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, là lịch sử phát triển các hình thái kinh tế xã hội một cách


đa dạng nhưng thống nhất từ thấp đến cao, mà thực chất là lịch sử phát triển của xã hội.
LLSX   QHSX   PTSX   (CSHT + KTTT)   HTKTXH 
 Quần chúng nhân dân (QCND) là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử: QCND là lực lượng trực tiếp sản xuất
ra của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần, quyết định thành bại của mọi cuộc cách mạng. Vai trò chủ
thể QCND biểu hiện khác nhau ở những điều kiện lịch sử khác nhau và ngày càng lớn dần; sức mạnh của họ chỉ
được phát huy khi họ được hướng dẫn, tổ chức, lãnh đạo.
2. Bản chất của CNDVBC:
 CNDVBC đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn:
CNDV cũ thiếu quan điểm thực tiễn, máy móc  không thấy được tính năng động của ý thức; riêng CNDVBC
khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động thực tiễn ý thức tác động tích cực làm biến
đổi hiện thực vật chất theo nhu cầu của con người.
 CNDVBC đã thống nhất TGQDV với phép biện chứng: CNDV cũ mang nặng tính siêu hình, PBC được nghiên
cứu trong hệ thống triết học duy tâm  Mác cải tạo CNDV cũ, giải thoát PBC ra khỏi tính thần bí, tư biện 
xây dựng nên CNDVBC; thống nhất giữa TGQDV với PBC.
 CNDVBC là CNDV triệt để; nó không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn trong lĩnh vực xã hội.
CNDVLS là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng tư tưởng của loài người: CNDV cũ không triệt để;
CNDV lịch sử ra đời là kết quả vận dụng CNDV vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tổng kết lịch sử, kế thừa có
phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội trên cơ sở khái quát thực tiễn mới của giai cấp vô sản. Với CNDVLS nhân
loại tiến bộ có được một công cụ vĩ đại trong nhận thức, cải tạo thế giới.
 CNDVBC mang tính thực tiễn - cách mạng, nó hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới:
 CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản phù hợp lợi ích nhân loại tiến bộ,
được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học  CNDVBC trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản có
sự thống nhất tính khoa học và tính cách mạng.
 CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.
 CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: nó xóa bỏ cái cũ lỗi thời, xây dựng cái mới tiến bộ.
 CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho mọi hành động.
Câu 2: Anh ( chị) hảy phân tích cơ sở lý luận, nêu ra các yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc
khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào
sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta?
+ Cơ sở lý luận :

Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên lý về tính thống
nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như sau :khi nhận thức khách thể ( đối
tượng ), sự vật,hiện tượng tồn tại trong hiện thực – chủ thể tư duy phải nắm bắt, tái hiện nó trong chính nó mà
không được thêm hay bớt một cách tùy tiện .
- Vật chất là cái có trước tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn và ở một giai đọan phát triển nhất định của mình nó
mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên trong quá trình nhận thức đối tượng ta không
được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta về đối tượng.mà phải xuất phát từ chính bản thân đối
tượng, từ bản chất của nó, không được ”bắt” đối tượng tuân theo tư duy mà phải “bắt” tư duy tuân theo đối
2
tượng. Không ép đối tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ quan hay một “Lôgíc” nào đó, mà phải rút ra những sơ đồ
từ đối tượng, tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng- cái lôgíc phát triển của chính đối tượng đó.
- Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém trong sự tìm kiếm, chọn lựa,
sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện thâm nhập hữu hiệu vào “thế giới” bên trong của sự vật.
“nghệ thuật” chinh phục như thế không mang đến cho sự vật, hiện tượng một cái gì đó xa lạ với chính nó. Điều
này đặt ra cho chủ thể một tình thế khó khăn. Làm như thế nào để biết chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta
về sư vật là khách quan, là phù hợp với bản thân sự vật? Nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu
cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng .
- Giới tự nhiên và xã hội không bao giờ tự phơi bày tòan bộ bản chất của mình ra thành các hiện tượng điển
hình. Con người không phải chỉ nhận thức những cái gì bộc lộ ra trước chủ thể. Do đó để phản ánh khách thể
như một chỉnh thể, chủ thể tư duy không thể không bổ sung những yếu tố chủ quan như đề xuất các giả thuyết,
đưa ra các dự đóan khoa học ….Thiếu những điều này tư duy sẽ không mang tính biện chứng, sẽ không thể hiện
bản tính sáng tạo thông qua trí tưởng tượng của chính mình. Yêu cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ
thể đòi hỏi chủ thể tư duy phải biến đổi, thậm chí cải tạo đối tượng để tìm ra bản chất của nó. Những biến đổi,
cải tạo đó là chủ quan nhưng không phải tùy tiện, mà là những biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp quy luật
của hiện thực thuộc lĩnh vực nghiên cứu .
- Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã
hội. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cái vật chất và cái tinh thần chứa đầy những cái chủ quan, những cái lý
tưởng và luôn chịu sự tác động của các lực lượng tự phát của tự nhiên lẫn lực lượng tự giác ( ý chí,lợi ích, mục
đích, nhân cách, cá tính khác nhau ) của con người. Ơû đây đối tượng, khách thể tư duy quyện chặt vào chủ thể
tư duy bằng hệ thống những mối liên hệ chằng chịt. Do đó cần phải cụ thể hóa nguyên tắc khách quan trong

xem xét các hiện tượng xã hội, tức là phải kết hợp nó với các yêu cầu phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ
thể và nguyên tắc tính đảng. Điều này có nghĩa là nguyên tắc khách quan trong xem xét không chỉ bao hàm yêu
cầu xuất phát từ chính đối tượng, từ những quy luật vận động và phát triển của nó, không được thêm bớt tùy
tiện chủ quan, mà nó còn phải biết phân biệt những quan hệ vật chất với những quan hệ tư tưởng, các nhân tố
khách quan với các nhân tố chủ quan, thừa nhận các quan hệ vật chất khách quan tồn tại xã hội là nhân tố quyết
định.còn những hiện tượng tinh thần, tư tưởng được quy định bởi đời sống vật chất của con người và các quan
hệ kinh tế của họnhưng chúng có ảnh hưởng ngược lại tồn tại xã hội. Phải coi xã hội là một là một cơ thể sống
tồn tại và phát triển không ngừng chứ không phải là cái gì đó kết thành một cách máy móc. Phân tích một cách
khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái kinh tế xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu
những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó.
- Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan tâm và năng lực nhận thức của
các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối với khuynh hướng phát triển của các hiện
tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội ….những đánh giá có giá trị hơn, những cách giải quyết
đúng hơn thường là những đánh giá, những cách giải quyết thuộc về các lực lượng xã hội biết đứng trên lập
trường của giai cấp tiên tiến, của những lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy tính khách quan trong xem
xét các hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc tính đảng. Việc xem thường nguyên tắc này dễ dẫn đến vi
phạm yêu cầu của nguyên tắc khách quan trong xem xét, dễ biến nó thành chủ nghĩa khách quan, cản trở việc
nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội phức tạp.
+ Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan trong xem xét :
Nguyên tắc khách quan trong xem xét có mối liên hệ mật thiết với các nguyên tắc khác của lôgíc biện
chứng. Nó thể hiện ở yêu cầu cụ thể sau :
 Trong hoạt động nhận thức :
Chủ thể phải :
Một là : Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có mà không được tùy tiện
đưa ra những nhận định chủ quan .
3
Hai là : Phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả thuyết khoa học có
giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giả tuyết đó bằng thực nghiệm
 Trong hoạt động thực tiễn :
Chủ thể phải :

Một là : Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi phối nó.
Hai là : Dựa trên các quy luật khách quan đó, chúng ta vạch ra các mục tiêu, kế họach, tìm kiếm các
biện pháp, phương thức để tổ chức thực hiện. Kịp thời điều chỉnh, uốn nắng họat động của con người đi theo lợi
ích và mục đích đã đặt ra .
Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức có nghĩa là phát huy vai trò tri thức, tình cảm, ý chí, lý trí
….tức là phát huy vai trò nhân tố con người trong họat động nhận thức và họat động thực tiễn cải tạo hiện thực
khách quan, vươn lên làm chủ thế giới .
+ Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng của Việt Nam :
Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Cụ thể là :
- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để họach định các đường lối, chiến lược,
sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước .
- Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để hiện thực hóa đường lối, chiến lược,
sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước .
- Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đòan kết tòan dân tộc là động lực chủ yếu để phát
triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các lợi ích khác nhau ( lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích vật chất, lợi
ích tinh thần, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội ….) thành động lực mạnh mẻ thúc đẩy công cuộc đổi
mới .
- Đảng ta rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lằm, thất bại trước đổi mới, Đảng ta kết luận :“
mọi đường lối, chủ trương của đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
Biết phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của các yếu tố chủ quan ( tri thức, tình
cảm … ) tức phát huy vai trò nhân tố con người trong họat động nhận thức và thực tiển :
- Coi sự thống nhất giữa tình cả( nhiệt tình cách mạng, lòng yêu nước, ý chí quật cường ….) và tri thức
( kinh nghiệm dựng nước và giữ nước, hiểu biết khoa học ) là động lực tinh thần thúc đẩy công cuộc đổi mới.
Chống lại thái độ ỷ lại, trì trệ, chỉ biết làm theo cách củ mà không biết dũng cảm làm theo cái mới, biết khơi dậy
lòng yêu nước, ý chí quật cường……phải phổ biến tri thức khoa học, công nghệ hiện đại cho đông đảo cán bộ,
đảng viên và nhân dân, biết nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài.
- Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng. Đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa Mác –Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh cho đông đảo người Việt Nam chúng ta. Phải nâng cao và đổi mới tư duy lý luận mà trước
hết là chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan , duy ý chí,lối suy nghĩa và hành động giản

đơn, nóng vội theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng mà bất chấp quy luật khách quan, coi thường tình hình thực
tế.
Câu 3: Đảng ta khẳng định: “mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan”. Anh chị hãy chỉ ra và phân tích cơ sở triết học của khẳng định đó?
Trả lời:
Ở Việt Nam, do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ & hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan ảo tưởng đã xuất hiện trước Đổi mới có nguyên nhân và gây ra tác hại lớn.
4
Xuất phát từ hiện thực khách quan của nước ta yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về lý luận, ít kinh
nghiệm trong xây dựng và quản lý đất nước; Đồng thời do sai lầm ấu trĩ “tả” khuynh, xảy ra trong một điều kiện
lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta (Biết phát huy tối đa sức mạnh tinh thần, khao khát thoát ra khỏi cuộc sống
lầm than, nô lệ ) nhưng lại không xuất phát từ hiện thực, bất chấp quy bluật, coi thường tri thức KH,… Nên tạo
ra những chính sách sai lầm, gây ra những hậu quả về nhiều mặt (kinh tế, xã hội…) rất nghiêm trọng & kéo dài.
Để có thể khắc phục triệt để chủ nghĩa chủ quan phải quán triệt thực hiện nguyên tắc khách quan. Vì
nguyên tắc khách quan là nguyên tắc đầu tiên của tư duy biện chứng, Vận dụng nguyên tắc khách quan kết hợp
với chủ quan trong hoạt động nhận thức sẽ tránh được những sai lầm trong chính sách phát triển đất nước.
Trên cơ sở quy luật khách quan đó, Đảng ta khẳng định “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Để làm được điều đó Phải tôn trọng hiện thực kh.quan, tôn
trọng vai trò quyết định của VC, tức:
 Xuất phát của hiện thực kh.quan của đất nước, của thời đại để hoạch định chiến lược, sách lược
phát triển đất nước;
 Biết tìm kiếm, khai thác, tổ chức những lực lượng vật chất (cá nhân – cộng đồng, kinh tế – quân sự,
trong nước – ngoài nước, quá khứ – tương lai,…) để hiện thực hóa chúng.
 Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu phát
triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (kinh tế, chính trị, tinh thần, ; cá nhân,
tập thể, xã hội) thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới
Đồng thời phải phát huy tính năng động, sáng tạo của YT, ph.huy vai trò của các yếu tố chủ quan
(t.thức, t.cảm, ý chí, lý trí, ), tức ph.huy vai trò nhân tố CN trong h.động nhận thức & thực tiễn cải tạo đất
nước. Cụ thể:
 Coi sự thống nhất nhiệt tình CM & tri thức KH là động lực tinh thần thúc đẩy công cuộc Đổi

mới; Chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ trì trệ; Bồi dưỡng nhiệt tình, phẩm chất cách mạng; Khơi
dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường, tài trí người Việt Nam,…
 Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng
HCM); Nâng cao và đổi mới tư duy lý luận (về CNXH & con đường đi lên CNXH);
 Phổ biến tri thức KH cho cán bộ, đảng viên, nhân dân.
 Kiên quyết khắc phục & ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ, hành động
giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng; bất chấp quy luật khách quan.
Câu 4: Bằng lý luận và thực tiễn, anh/chị hãy chứng minh rằng ý thức con người không chỉ phản ánh thế
giới mà còn góp phần sáng tạo thế giới?
Trả lời:
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao của sự phản ánh
của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. Ý thức của con người là cơ năng của cái “ khối
vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con người” (theo LêNin).
Ý thức của con người tồn tại trước hết trong bộ óc của con người và sau đó, thông qua thực tiễn lao động,
nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra (vật chất xã hội – vật chất mang/chứa ý thức). Ý thức
bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí…. Trong đó, tri thức (yếu tố cốt lõi) và tình
cảm có vai trò rất quan trọng. Tri thức và tình cảm thống nhất, chuyển hoá lẫn nhau; sự thống nhất của chúng
tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của con người, góp phần làm cho con người trở thành
chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
Thông qua hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động, ý thức con người xâm nhập vào hiện
thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức mạnh của cái tinh thần. Dựa trên sức mạnh này, ý thức tác động đến thế
5
giới, góp phần làm cho thế giới biến đổi. Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng
tạo nên thế giới theo nhu cầu thực tiễn xã hội.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có trước, ý thức có khả năng
tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế, có thể tiên đoán, dự báo tương
lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát
cao. Những khả năng ấy càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú của đời sống tâm lý – ý thức ở con người
mà khoa học còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng ấy.
Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá trình phản ánh hiện thực

khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo, thống nhất 3 mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều,
có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất, đây là quá trình “
sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật chất tạo thành các ý tưởng tinh thần phi
vật chất.
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hoá tư tưởng, thông qua
hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các
dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công
cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật của sự phản ánh mà kết quả bao giờ
cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức.
Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt
động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động tích cực hay tiêu
cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà
biểu hiện ra là vai trò của khoa học, văn hoá và tư tưỏng.
Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật yếu, trong điều kiện sự
biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có thể đạt được những thành công
mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn hay
không? Chúng ta phải làm gì để tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới? Câu
hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công
nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần phải có tri thức vì
tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng nhận thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri
thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả. Chỉ
chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công tác văn hoá- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống
của dân tộc. Chức năng của các giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo
đức thì tất cả các dạng giá trị ( giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Còn cách mạng tư tưởng góp
phần làm biến đổi đời sống tinh thần- xã hội, xây dựng mối quan hệ tư tưởng, tình cảm của con người với tư
cách là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và tạo ra được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con
người.Mà có tự do thì con người mới có thể tham gia xây dựng đất nước.

Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học- văn hoá- tư tưởng có vai trò
vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những biện pháp đúng đắn tạo điều kiện cho sự phát
triển toàn diện xã hội.
Câu 5: Anh/Chị hãy phân tích hoàn cảnh xuất hiện, nội dung và ý nghĩa triết học câu nói của C.Mác:
"Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất
chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một
khi nó thâm nhập vào quần chúng"
6
- Hoàn cảnh xuất hiện: trong Lời nói đầu của bộ “ Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêgen” của
C.Mác - Gồm ba tác phẩm của Mác phê phán quan điểm của Hêghen về nhà nước và pháp quyền. Sự tán dương
của tác giả với chế độ quân chủ lập hiến, chế độ quan liêu và quân chủ Phổ. Nêu vai trò lịch sử của giai cấp vô
sản trong cuộc đấu tranh nhằm cải tổ xã hội.
- Nội dung và ý nghĩa triết học:
+Nội dung: Ở đây, "Vũ khí của sự phê phán" và "lý luận" là khoa học, tư tưởng khoa học, lý luận khoa học, còn
"sự phê phán của vũ khí” và "lực lượng vật chất" là hoạt động vật chất, hoạt động thực tiễn của con người. Như
vậy, C Mác đã giải trình rất rõ ràng, lý luận khoa học phải thông qua hoạt động của con người thì mới trở thành
lực lượng vật chất.
Khoa học vốn là sản phẩm của tư duy, của trí tuệ. Nếu không thông qua hoạt động của người lao động (công
nhân, nông dân, tầng lớp trí thức…), mà chỉ tự bản thân nó thôi, thì như Mác nói khoa học không thể biến thành
cái gì cả, không thể sinh ra tác động tích cực hay tiêu cực.
Theo Mác, triết học phải có nhiệm vụ phản ánh mọi xung đột của đời sống hiện thực, những điều kiện kinh tế,
vật chất của những xung đột hiện thực ấy, đồng thời vạch ra con đường và những cách giải quyết các xung đột
đó. Vì vậy, triết học phải tìm được cho mình một lực lượng nằm ngay trong bản thân hiện thực, có khả năng phủ
định xã hội hiện tại, xây dựng một xã hội mới. Lực lượng ấy chính là giai cấp vô sản. Như vậy theo Mác, triết
học tiên tiến phải gắn liền với các lực lượng tiến bộ.
+ Ý nghĩa triết học: Cho thấy vị trí vai trò của triết học, của lý luận khoa học trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng nhân dân lao động thoát khỏi sự nô dịch của giai cấp bóc lột.
Câu 7: Lý luận? Phương pháp? Anh ( chị) hãy nêu những yêu cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở
lý luận của nguyên tắc toàn diện. Việc tuân thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế gì
trong hoạt động nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.

7.1 Anh ( chị) hãy nêu những yêu cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn
diện
Định nghĩa phương pháp luận: Là học thuyết (lý luận) về phương pháp; nó vạch ra cách thức xây dựng và nghệ
thuật vận dụng phương pháp. Phương pháp luận còn được coi như “ một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc
xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong mọi lĩnh vực
hiện thực.
Mối liên hệ mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quát sự vận động, phát triển của mọi sự vật,
quá trình xãy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.
Mối liên hệ phổ biến được nhận thức trong các phạm trù biện chứng như mối liên hệ giữa: mặt đối lập- mặt đối
lập; chất – lượng, cái cũ – cái mới; cái riêng- cái chung; nguyên nhân- kết quả; nội dung – hình thức; bản chất-
hiện tượng; tất nhiên- ngẫu nhiên; khả năng – hiện thực.
Nội dung nguyên lý:
◊ Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau.
◊ Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến
◊ Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận
động, phát triển của mọi sự vật hiện tượng xãy ra trong thế giới.
7
Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc toàn diện:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…)
đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt
- Phân loại để xác định những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là
bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định ; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định…;
- Dựa trên những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) bên trong cơ bản,
tất nhiên, ổn định…. Để lý giải được những mối liên hệ, quan hệ ((hay những đặc điểm, tính chất, yếu
tố, mặt,…) còn lại. Qua đó xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối liên hệ, quan hệ
(hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…); phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó.

Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) chi
phối sự vật.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà
trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ
(hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc
điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ, quan hệ (…) bên
trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…. của nó.
- Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…)của
bản thân sự vật; kịp thời sử dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn chế
hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp
lợi ích của chúng ta.
- Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ nghĩa phiến
diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện,… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính
mình.
+ Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó mà không
thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật.
+ Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật chứ
không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật, mà coi chúng như nhau,
kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
+ Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái chủ yếu
với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
- Trong xã hội nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà còn
liên hệ nhận thức với cuộc sống; phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các cá nhân hay giai tầng) khác
nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản (sống còn)
và lợi ích không cơ bản; phải biết phát huy (hay hạn chế) mọi tiềm năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh
vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, ) từ các thành phần kinh tế khác, từ các tổ chức, chính
trị xã hội… để có thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp mà không sa vào chủ nghĩa bình
quân, quan điểm dàn điều, tức không thấy được trọng tâm cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp.
7.2 Việc tuân thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức

và trong hoạt động thực tiễn.
8
Việc quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chúng ta khắc phục được chủ nghĩa
phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính
mình.
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó mà không
thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật. thường xem xét dàn trải, liệt kê những tính
quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng mà không làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật
hay hiện tượng đó.
Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật nhưng
không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật mà coi chúng như nhau, kết hợp
chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện. Do đó hoàn toàn bất lực khi cần phải có quyết sách đúng đắn.
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái chủ yếu với
cái thứ yếu… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
Trong đời sống xã hội, nguyên tắc toàn diện có vai trò cực kỳ quan trọng. Nó đòi hỏi chúng ta không chỉ
liên hệ nhận thức với nhận thức mà cần phải liên hệ nhận thức với thực tiễn cuộc sống, phải chú ý đến lợi ích
của các chủ thể (các cá nhân hay các giai tầng) khác nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ bản
(sống còn) và lợi ích không cơ bản, phải biết phát huy hay hạn chế mọi tiềm năng hay nguồn lực từ khắp các
lĩnh vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa…) từ các thành phần kinh tế, từ các tổ chức chính trị - xã
hội… để có thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp mà không sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm
dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp.
Câu 8: Nguyên lý? Nguyên tắc? Mối quan hệ giữa chúng. Anh/Chị hãy nêu những yêu cầu phương pháp
luận và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục
được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
8.1. Nguyên lý là gì?
- Nguyên lý là những luận điểm xuất phát (tư tưởng chủ đạo) của một học thuyết (lý luận) mà tính chân
lý của nó là hiển nhiên, tức không thể hay không cần phải chứng minh nhưng không mâu thuẫn với thực tiễn và
nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết đó phản ánh.
- Nguyên lý được khái quát từ kết quả hoạt động thực tiễn – nhận thức lâu dài của con người. Nó vừa là
cơ sở lý luận của học thuyết, vừa là công cụ tinh thần để nhận thức (lý giải – tiên đoán) và cải tạo thế giới.

- Có hai loại nguyên lý: nguyên lý của khoa học (công lý, tiên đề, quy luật nền tảng) và nguyên lý của
triết học. Phép biện chứng duy vật có hai nguyên lý cơ bản. Đó là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên
lý về sự phát triển.
8.2. Nguyên tắc là gì?
- Nguyên tắc là những yêu cầu nền tảng đòi hỏi chủ thể phải tuân thủ đúng trình tự nhằm đạt mục đích
đề ra một cách tối ưu.
8.3. Mối liên hệ giữa nguyên lý và nguyên tắc
- Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý thể hiện qua các nguyên tắc tương ứng. Nghĩa là cơ sở lý
luận của các nguyên tắc là các nguyên lý: cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện và nội dung nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến, cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển…
8.4. Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phát triển
Trong hoạt động nhận thức yêu cầu chủ thể phải:
- Phát hiện những xu hướng biến đổi, chuyển hóa, những giai đoạn tồn tại của bản thân sự vật trong sự tự
vận động và phát triển của chính nó;
9
- Xây dựng được hình ảnh chỉnh thể về sự vật như sự thống nhất các xu hướng, những giai đoạn thay đổi
của nó; từ đó phát hiện ra quy luật vận động, phát triển (bản chất) của sự vật.
Trong hoạt động thực tiễn yêu cầu chủ thể phải:
- Chú trọng đến mọi điều kiện, khả năng…tồn tại của sự vật để nhận định đúng các xu hướng, những giai
đoạn thay đổi có thể xảy ra đối với nó;
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết
là công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những điều kiện, phát huy hay hạn chế những khả
năng…tồn tại của sự vật nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo hướng hợp quy luật và có lợi cho chúng
ta.
8.5. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển.
• Sự vận động và sự phát triển
- Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động được hiểu như sự thay
đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là
một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể

từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
- Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân sự vật gây ra. Phát triển là một khuynh hướng vận động
tổng hợp của hệ thống sự vật, trong đó, sự vận động có thay đổi những quy định về chất (thay đổi kết cấu – tổ
chức) của hệ thống sự vật theo khuynh hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự vận động có thay đổi những
quy định về chất của sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự vận động chỉ có thay đổi những quy định về lượng của
sự vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo trên.
+ “Hai quan điểm cơ bản…về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên,
như lập lại; và sự phát triển coi như sự thống nhất của các mặt đối lập. Quan điểm thứ nhất thì chết cứng, nghèo
nàn, khô khan. Quan điểm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan điểm thứ 2 mới cho ta chìa khóa của “sự vận
động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn tại”; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của “sự
gián đoạn của tính tiệm tiến”, của “sự chuyển hóa thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra
cái mới”.
- Phát triển như sự chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất và lượng; giữa cái cũ và cái mới; giữa cái
riêng và cái chung; giữa nguyên nhân và kết quả; giữa nội dung và hình thức; giữa bản chất và hiện tượng; giữa
tất nhiên và ngẫu nhiên; giữa khả năng và hiện thực.
- Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng: phát
triển trong giới tự nhiên vô sinh; phát triển trong giới tự nhiên hữu sinh; phát triển trong xã hội; phát triển trong
tư duy, tinh thần.
• Nội dung nguyên lý
- Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển.
- Phát triển mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của một hệ thống vật chất, do việc giải
quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ định.
8.6. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn.
- Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc phát triển sẽ giúp chủ thể khắc phục được quan điểm (tư
duy) siêu hình trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
10
Câu 9. Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Ý nghĩa của nó đối với

quan điểm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong tình hình hiện nay?
1. Đặt vấn đề.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn), là một trong ba quy luật
cơ bản của phép biện chứng duy vật, là hạt nhân của phép biện chứng, nó vạch ra nguồn gốc bên trong sự vận
động và phát triển của sự vật hiện tượng.
2. Các khái niệm.
Trước khi phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được đỉnh cao nhất trong
học thuyết của triết học cổ điển Đức, tiêu biểu nhất là Cantơ và Hêghen. Song, do bị chi phối bởi quan niệm duy
tâm, nên không thể phát triển học thuyết mâu thuẫn biện chứng đến độ triệt để.
Kế thừa một cách có phê phán những thành tựu có giá trị nhất trong toàn bộ lịch sử triết học và dựa trên những
thành quả mới nhất của khoa học hiện đại, C.Mác và PH.Ăngghen đã phát triển học thuyết mâu thuẫn biện
chứng lên một tầm cao mới. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã cho rằng, chúng ta phải tìm xung lực vận
động và phát triển của sự vật trong chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật. Quan điểm lý
luận đó được thể hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của của các mặt đối lập.
Nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được làm sáng tỏ thông qua một loạt
những phạm trù cơ bản: “ mặt đối lập”, “sự thống nhất” và “ đấu tranh của các mặt đối lập”
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Trong nguyên tử có điện
tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa; trong kinh tế thị trường có cung và cầu, v.v Những mặt
trái ngược nhau đó, trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập. Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ
những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược
nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu
thuẫn biện chứng tồn tại khách quan trong cả tự nhiên lẫn trong xã hội và tư duy.
Hai mặt đối lập tuy có tính bày trừ, phủ định nhau, nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau, tồn tại trong sự
thống nhất của chúng. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt
đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao
hàm sự “đồng nhất” của các mặt đó. Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu
thuẫn, đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Như vậy, các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn tác động qua lại với nhau “đấu tranh” với nhau. Đấu

tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
3. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn biện chứng cũng bao
hàm cả "sự thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, sự ổn định
tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là
sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối.
Vậy mâu thuẫn biện chứng có quan hệ như thế nào với nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển?
Mâu thuẫn là sự tác động lẫn nhau của các mặt, các khuynh hướng đối lập. Chính sự tác động qua lại, sự đấu
tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc vận động và phát triển, là xung lực của sự sống. Chẳng hạn, tư tưởng,
nhận thức của con người không thể phát triển, nếu không có sự cọ xát thường xuyên với thực tiễn, không có sự
tranh luận để làm rõ đúng sai
11
Sự vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và sự thay đổi. Thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc
của sự vận động và phát triển.
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại trong tất cả các sự vật và hiện tượng, ở mọi
giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật và hiện tượng.
4. Phân loại mâu thuẫn
a) Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật. Mâu
thuẫn bên ngoài đối với một sự vật là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác
nhau. (Thí dụ, sự tác động qua lại giữa đồng hoá và dị hoá của một sinh vật là mâu thuẫn bên trong, sự tác động
qua lại giữa cơ thể và môi trường - khi xét cơ thể là một sự vật - là mâu thuẫn bên ngoài). Mâu thuẫn bên trong
có vai trò quyết định trực tiếp với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong
và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng tác động nhau.
b) Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật,
quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Mâu
thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và
phát triển của một mặt nào đó của sự vật.
c) Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu:

Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, giải quyết nó
sẽ tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn (những mâu thuẫn thứ yếu). Sự phát triển hơn nữa
của sự vật, chuyển hoá nó sang giai đoạn tồn tại khác của mình phụ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ
yếu.
c) Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi
ích cơ bản đối lập nhau (Thí dụ mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa tư sản và vô sản).
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích
không cơ bản, cục bộ, tạm thời (Thí dụ mâu thuẫn giữa tầng lớp nông dân, giữa các bộ phận công nhân khác
nhau, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, ở nước ta hiện nay).
Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
phương pháp giải quyết mâu thuẫn.
5. Ý nghĩa phương pháp luận.
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng
đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Để phân tích đúng bản chất của sự vật, trước hết phải nhận thức sự vật như một thực thể đồng nhất, tiếp đó
phải nghiên cứu những mặt khác nhau, những mặt đối lập và tác động qua lại giữa các mặt đối lập để nhận biết
mâu thuẫn và nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
- Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi toàn bộ quá trình phát sinh, phát
triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng giai đoạn.
- Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả
năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế.
- Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta không được giải quyết mâu
thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; phải tạo điều kiện thức đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và
điều kiện giải quyết.
12
- Đối với các mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Điều đó tuỳ thuộc vào bản chất
của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ thể. Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn.
Tóm lại, từ những điều trình bày trên đây, chúng ta nhận thấy, mọi sự vật và hiện tượng đều chứa đựng những
mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành mâu thuẫn trong bản thân sự vật; sự thống nhất và đấu tranh của

các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn đến sự mất đi của cái cũ và sự ra
đời của cái mới.
Câu 10: Phân tích nội dung quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược
lại, và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó.
Quy luật chuyển hóa từ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất & ngược lại:
Chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy:
 Chất - tính quy đònh vốn có của sự vật, đặc trưng cho sự vật là nó, giúp phân biệt nó với sự vật khác.
 Lượng - tính quy đònh vốn có của sự vật, biểu thò quy mô, tốc độ vận động, phát triển của sự vật
cũng như của các thuộc tính (chất) của nó.
 Độ - giới hạn mà trong đó sự thay đổi về Lượng chưa làm Chất thay đổi căn bản.
 Điểm nút - mốc (giới hạn) mà sự thay đổi về Lượng vượt qua nó sẽ làm Chất thay đổi căn bản.
 Bước nhảy - sự chuyển hóa về Chất do những thay đổi về Lượng trước đó gây ra; Bước nhảy là giai
đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của sự vật, nó tồn tại khách quan, phổ biến, đa dạng (Bước
nhảy toàn bộ/Bước nhảy cục bộ; Bước nhảy đột biến/Bước nhảy dần dần; Bước nhảy tự nhiên/Bước
nhảy xã hội/Bước nhảy tư duy).
Nội dung quy luật:
 Mọi sự vật đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa Chất và Lượng.
 Sự vật bắt đầu vận động, phát triển bằng sự thay đổi về Lượng (liên tục, tiệm tiến); nếu Lượng thay
đổi trong độ, chưa vượt quá điểm nút thì Chất không thay đổi căn bản; khi Lượng thay đổi vượt qua
độ, quá điểm nút thì Chất sẽ thay đổi căn bản, bước nhảy xảy ra.
 Bước nhảy làm cho Chất thay đổi (gián đoạn, đột biến) – Chất (Sự vật ) cũ mất đi, Chất (Sự vật) mới
ra đời; Chất mới gây ra sự thay đổi về Lượng (làm thay đổi quy mô tồn tại, tốc độ, nhòp điệu vận
động, phát triển của sự vật ).
 Sự thay đổi về Lượng gây ra sự thay đổi về Chất; sự thay đổi về Chất gây ra sự thay đổi về Lượng là
phương thức vận động, phát triển của mọi sự vật trong thế giới; phát triển vừa mang tính liên tục vừa
mang tính gián đoạn.
Phân tích:
Trong quá trình vận động và phát triển, Chất và Lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của
Lượng và của Chất không diễn ra độc lập với nhau, mà chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không
phải bất kỳ sự thay đổi nào của Lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản Chất của sự vật. Lượng của

sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất đònh mà không làm thay đổi căn bản Chất của sự vật đó. Khi
vượt qua giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời (bước nhảy xảy ra).
Vd: Khi xét các trạng thái tồn tại khác nhau của nước với tư cách là những chất khác nhau (chất –
trạng thái), ứng với chất – trạng thái đó, Lượng ở đây là nhiệt độ, thì dù Lượng có thay đổi trong một phạm
vi khá lớn (0 độ C< t<100 độ C), nước vẫn ở trạng thái lỏng (tức là chưa thay đổi về chất – trạng thái). Khi
13
nhiệt độ của nước giảm đến 0 độ C nước sẽ chuyển sang trạng thái rắn và khi đạt đến 100 độ C nước sẽ
chuyển sang trạng thái hơi (bước nhảy xảy ra). Ở đây, 0 độ C và 100 độ được gọi là điểm nút.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt đến điểm nút. Sau khi ra đời, chất
mới có tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm
thay đổi nhòp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Ýùnghóa phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
 Phát hiện chính xác các quy đònh về chất và lượng của sự vật; thấy được sự thống nhất giữa chúng để
xác đònh đúng độ, điểm nút của sự vật;
 Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tại của sự vật để xác đònh đúng tính chất, quy mô, tiến độ của bước
nhảy có thể xảy ra;
 Hiểu rằng, chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt quá độ, quá điểm nút; còn nếu lượng chưa thay
đổi qua độ, chưa qua điểm nút thì bước chưa thể xảy ra, chất chưa thay đổi căn bản được;
 Xác đònh được chất mới (sau khi sự vật thực hiện bước nhảy), qua đó xác đònh lượng độ, điểm nút và
bước nhảy, tức đònh hình được sự vật mới phải ra đời thay thế sự vật cũ như thế nào.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
 Hiểu rõphương thức vận động và phát triển của sự vật; từ đó xây dựng các đối sách thích hợp;
 Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng linh hoạt các công cụ, phương tiện vật chất can thiệp đúng
lúc, đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động và phát triểncủa sự vật, lèo lái nó theo đúng quy
luật và hợp lợi ích cùa chúng ta. Cụ thể:
◊ Muốn có sự thay đổi về chất phải kiên trì tích lũy thay đổi về lượng;
◊ Muốn duy trì sự ổn đònh của chất phải giữ sự thay đổi về lượng trong phạm vi giới hạn độ;
◊ Khi lượng thay đổi đạt tới giới hạn độphải kiên quyết thực hiện bước nhảy.
Câu 11: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phụ định và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận.

a/ KN phủ định biện chứng, phủ định của phủ định:
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ một mắt khâu của q trình tự phát triển của sự vật đưa
đến sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái cũ bị phủ định. Phủ định biện chứng cũng là sự khẳng định. Phủ
định biện chứng gắn liền với giải quyết mâu thuẫn và bước nhảy về chất xảy ra bên trong sự vật; nó mang tính
khách quan – nội tại, tính kế thừa – tiến lên.
Phủ định của phủ định là phạm trù triết học dùng để chỉ sự xác lập lại cái cũ , tức khằng định lại cái bị phủ định,
ở một trình độ cao hơn trong q trình tự phát triển của bản thân sự vật. Trong sự phủ định của phủ định, cái cũ
bị phủ định trong lần phủ địnhthứ nhất đưa đến sự ra đời của cái mớ; cái mới này chứa sự phủ định mình trong
lần phủ định sau đó. Lần phủ định nào làm xuất hiện cái mới, tức ái được khẳng định, nhưng trong cái mới này
có lặp lại (yếu tố) cái cũ, đã bị phủ định trong lần phủ định thứ nhất, ở một trình độ cao hơn thì lần phủ định đó
được gọi là phủ định của phủ định.
Qua nhiều lần phủ định biện chứng ( có cả phủ định của phủ định) sự vật loại dần cái tiêu cực, tích lũy dần cái
tích cực, làm cho cái mới ra đời quay về với cái cũ, cái khẳng định quay trở lại với cái bị phủ định ở một trình
độ cao hơn.
b/ Nội dung quy luật:
14
- Theo quan điểm duy vật biện chứng, triết học Mac thấy rõ sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi
và sự vật mới ra đời. Mỗi sự thay thế ấy làm thành một chuỗi mắc xích phát triển của hiện thực và tư duy. Sự
ra đời cái mới là kết quả của sự phụ định cái cũ, cái lỗi thời. Do đó, mọi sự vật đều liên hệ lẫn nhau và luôn
vận động, phát triển; phát triển là một chuỗi các lần phủ định biện chứng có gắn liền với việc giải quyết mâu
thuẫn và thực hiện bước nhảy về chất xảy ra bên trong sự vật.
- Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình hiểu phủ định là sự can thiệp của những lực lượng bên ngoài
là phá huỷ, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó cả trong tự nhiên và xã hội , làm mất đi cái cũ và
xuất hiện cái mới tiến bộ hơn. Do vậy , phủ định là vòng khâu liên hệ giữa cái mới với cái cũ, cái mới ( cái
được khẳng định) ra đời trên cơ sở laọi bỏ yếu tố tiêu cực, đồng thời lưu giữ, cải tạo những yếu tố tích cực
của cái cũ ( cái bị phủ định).
- Phủ định biên chứng mang tính khách quan - nội tại do mâu thuẫn của bản thân sự vật tự quy định. Hơn
nữa, phương thức phủ định sự vật cũng không tuỳ thuộc ý muốn chủ quan của con nguời. Ngoài ra phủ định
biên chứng không phải là sự thủ tiêu hoàn toàn cái cũ bị phủ định. Trái lại, dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá

trình phủ định biên chứng bao hàm trong nó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định. Do
vậy, phủ định biện chứng là sự phủ định mang tính kế thừa – tiến lên
- Qua một số lần phủ định biên chứng xuất hiện phủ định của phủ định, xác lập lại cái cũ ( khẳng định lại cái
cũ đã bị phủ định ) ở một trình độ cao hơn. Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới như là kết quả tổng
hợp tất cả các yếu tố tích cực, được khôi phục duy trì và phát triển. sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết
thúc một chu kì phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo . Do đó, phủ
định của phủ định mang tính chu kỳ hở.
- Quy luật này nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó , phủ định
biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự
phát triển, nó duy trì và gìn giữ nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của
cái xuất phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn. Do vậy, phủ định của phủ định vạch ra khuynh hướng phát triển
xoắn ốc tiến lên của mọi sự vật trong thế giới.
c/ Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật phủ định của phủ định vạch rõ phương hướng tiến lên của quá trình phát triển. Do đó trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm phát triển.
- Xây dựng cái mới phải đi đôi với xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu và kế thừa có chọn lọc các yếu tố tích cực
của cái cũ , cải biến nó theo yêu cầu của cái mới. Cần chống cả hai khuynh hướng sai lầm là phủ định
sạch trơn hoặc kế thừa nguyên vẹn cái cũ.
- Phát triển là tiến lên nhưng quanh co, phức tạp , do đó phại biết phát hiện cái mới, ủng hộ cái mới, cái
tiến bộ và tạo điều kiện cho nó mau chiến thắng cái cũ.
Câu 12: Bằng lý luậnvà thực tiễn. Anh chị hãy chứng minh rằng cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới
luân là qúa trình khó khăn, lâu dài, phức tạp, cái mới có thể thất bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ
chiến thắng cái cũ.
* Về mặt lý luận:
+ Quy luật phủ định của phủ định của phép tư duy biện chứng chỉ ra rằng: Bất cứ sự vật hiện tượng nào trong
thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật
mới. Sự thay thế đó là tất yếu của quá trình vận động và phát triển của sự vật.
+ Sự vật là một tập hợp các yếu tố tương tác với nhau, trong sự tương tác đó nảy sinhvài yếu tố (biến đổi) trái
ngược nhau, tạo nên cơ sở các mặt đối lập trong sự vật. Các mặt đối lập này không tách rời nhau, chứa những
yếu tố giống nhau cùng tồn tại trong sự vật, tác động qua lại lẫn nhau. Dù vậy, các mặt đối lập luôn đấu tranh

với nhau, tác động qua lại theo xu hướng loại bỏ lẫn nhau.
15
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập nay chỉ mang tính tương đối nhưng sự đấu tranh mang tính tuyết đối. Sự
đấu tranh này gắn liền với sự vận động và thay đổi của sự vật. Mâu thuẫn biện chứng phát triển tương ứng với
quá trình thống nhất giữa các mặt đối lập còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thì chuyển dần từng bước từ
bình lặng tới quyết liệt, làm xuất hiện khả năng chuyển hoá của các mặt đối lập.
+ Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của mọi sự phát triển, chúng đều trải qua các giai đoạn: từ sự xuất hiện
của các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, rồi chuyển hoá các mặt đối lập. Khi mâu
thuẫn được giả quyết , cái cũ mất đi cái mới ra đời tiến bộ, ưu việt hơn cái cũ và tự nó cũng chứa đựng những
mâu thuẫn mới, hay thay đổi những vai trò tác động cảu các mâu thuẫn cũ.
* Về mặt thực tiễn:
+ Thực tế đã chứng minh vận cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới luôn là qúa trình khó khăn, lâu dài, phức
tạp, cái mới có thể thất bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng cái cũ. Điều đó được minh chứng rõ
ràng trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp phong kiến và giai cấp công nhân trong xã hội ta đưa đất nước đi lên từ
chế độ phong kiến bỏ qua tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Cùng là hai giai cấp tồn tại tong cùng một chế độ xã hội nhưng giữa các giai cấp này luôn chứa đựng những
mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau, mâu thuẫn lên đến cao trào chính là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân lao
động lật đổ giai cấp phong kiến. Quá trình đấu tranh ấy diễn ra lâu dài và quyết liệt, mặc dù có gặp phải những
khó khăn chống cự của chế độ cũ nhưng rồi lực lượng lao động mới tiến bộ hơn vẫn chiến thắng. Thay thế chế
độ phong kiến lác hậu, là chế độ xã hội chủ nghĩa với những tiến bộ mới, tuy nhiên trong nó vẫn chứa đựng
những mâu thuẫn chưa thể xoá bỏ giữa tầng lớp nhân dân lao động với tàn dư của chế độ phong kiến, với giai
cấp tư sản đang hình thành trong nền kinh tế.
Câu 13: Anh / Chị hãy giải thích câu nói của V.I.Lênin: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là
học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép chứng, nhưng
điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và sự phát triển thêm”
Trả lời:
- PBC là hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù chuyển hóa lẫn nhau phản ánh mối liên hệ và sự vận động,
phát triển của thế giới vật chất.
* Nguyên lý là những luận điểm xuất phát, những tư tưởng chủ đạo của một học thuyết hay lý luận mà tính chân
lý của chúng là hiển nhiên, không thể hay không cần phải chứng minh nhưng không mâu thuẫn với thực tiễn và

nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết hay lý luận đó phản ánh.
- Với tính cách là một học thuyết triết học, PBCDV được xây dựng dựa trên 2 nguyên lý cơ bản: NL về mối liên
hệ phổ biến và NL về sự phát triển.
- NL về mối liên hệ phổ biến: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của MLH xảy ra trong các lĩnh vực khác
nhau của thế giới, NL về mối liên hệ phổ biến có nội dung như sau:
+ Mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn MLH ràng buộc qua lại lẫn
nhau.
+ Trong muôn vàn MLH chi phối sự tồn tại của SV, HT, QT trong thế giới có MLH phổ biến. MLH phổ
biến tồn tại khách quan – phổ biến, nó chi phối một cách tổng quát sự VĐ và PT của mọi SV, HT, QT trong thế
giới.
- NL về sự phát triển: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của sự phát triển xảy ra trong các lĩnh vực khác
nhau của thế giới, NL về sự phát triển có nội dung như sau:
+ Mọi SV, HT trong thế giới đều không ngừng VĐ và PT.
16
+ PT mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ thống vật chất do việc giải quyết mâu
thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ định.
* Quy luật: là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, chung, lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng và
chi phối sự vận động, phát triển của chúng. PBCDV gồm 3 quy luật cơ bản sau:
1 – QL thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
- Mặt đối lập: SV là một tập hợp các yếu tố (thuộc tính) tương tác với nhau và với môi trường. Kết quả
của sự tương tác này là các yếu tố tạo nên bản thân SV có một sự biến đổi nhất định, trong đó có một vài yếu tố
biến đổi trái ngược nhau. Những yếu tố trái ngược nhau (bên cạnh những yếu tố giống hay khác nhau) tạo nên
cơ sở của các mặt đối lập trong SV. MĐL tồn tại k.quan và phổ biến.
- Thống nhất của các mặt đối lập là các MĐL kg tách rời nhau tức MĐL này lấy MĐL kia làm điều kiện,
tiền đề cho sự tồn tại của mình; là các MĐL đồng nhất nhau tức trong chúng chứa những yếu tố giống nhau cho
phép chúng đồng tồn tại trong SV; là các MĐL tác động ngang nhau, tức sự thay đổi trong MĐL này tất yếu sẽ
kéo theo sự thay đổi trong MĐL kia, và ngược lại.
- Đấu tranh của các MĐL: Dù tồn tại trong sự thống nhất, song các MĐL luôn đấu tranh với nhau, tức
chúng luôn tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định hay loại bỏ lẫn nhau. Hình thức và mức độ đấu

tranh của các MĐL rất đa dạng, trong đó thủ tiêu lẫn nhau là một hình thức đặc biệt của các MĐL.
- Mâu thuẫn BC, tức sự thống nhất và đấu tranh của các MĐL, tồn tại k.quan phổ biến và đa dạng (MT
bên trong – MT bên ngoài; MT cơ bản – MT kg cơ bản; MT chủ yếu – MT thứ yếu; MT trong tự nhiên – MT
trong xã hội – MT trong tư duy). Sự tác động lên bản thân sự vật là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động,
phát triển xảy ra trong thế giới.
- Chuyển hóa của các MĐL (giải quyết MTBC): sự thống nhất mang tính tương đối gắn liền với sự ổn
định của SV; sự đấu tranh mang tính tuyệt đối gắn liền với sự VĐ, thay đổi của SV. MTBC phát triển tương
ứng với quá trình thống nhất các MĐL chuyển từ mức độ trừu tượng sang cụ thể; còn sự đấu tranh các MĐL
chuyển từ mức bình lặng sang quyết liệt từ đó làm xuất hiện các khả năng chuyển hóa của các MĐL. Khi đk
k.quan hội đủ, một trong khả năng đó biến thành hiện thực, các MĐL tự thực hiện quá trình chuyển hóa. MTBC
sẽ được giải quyết khi các MĐL tự phủ định chính mình để biến thành cái khác. Với hai phương thức chuyển
hóa như sau: MĐL này chuyển hóa thành MĐL kia ở trình độ mới và cả hai MĐL cùng chuyển hóa thành một
cái thứ 3 nào đó.
- Nd quy luật: Các MTBC khác nhau tác động kg giống nhau đến quá trình vận động và phát triển của sự
vật. Mỗi MTBC đều trải qua các giai đoạn từ sinh thành (sự xuất hiện của các MĐL) sanh hiện hữu (sự thống
nhất và đấu tranh của các MĐL), rồi giải quyết (sự chuyển hóa của các MĐL). MTBC được giải quyết, cái cũ
mất đi cái mới ra đời với những MTBC mới hay thay đổi vai trò tác động của MTBC cũ. MTBC là nguồn gốc
của mọi sự vận động và phát triển. Do đó, VĐ và PT trong thế giới vật chất là tự bản thân nó.
-> Phép biện chứng đòi hỏi xem xét sự thống nhất của các mặt đối lập một cách cụ thể, xem xét những mối
quan hệ cụ thể. Đây cũng là bản chất của sự đồng nhất mang tính biện chứng, sự đồng nhất có chứa đựng các yếu
tố khác biệt.
-> Nhấn mạnh tính chất quan trọng của sự thống nhất của các mặt đối lập, V.I.Lênin đưa ra một định
nghĩa nữa về phép biện chứng: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của
các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự
giải thích và một sự phát triển thêm”. Phép biện chứng là sự phát triển của nó, các mặt đối lập và mâu thuẫn -
hạt nhân của phép biện chứng.
2 – QL chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại: Mọi SV đều được
đặc trưng bằng sự thống nhất giữa lượng và chất. SV bắt đầu bằng sự thay đổi về lượng một cách liên tục hay
tiệm tiến); nếu lượng chỉ thay đổi trong độ; chưa vượt quá điểm nút thì chất kg thay đổi căn bản; khi lượng thay
đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì chất sẽ thay đổi căn bản, bước nhảy nhất định sẽ xảy ra. Bước nhảy làm cho

17
chất thay một cách gián đoạn hay đột biến; chất cũ mất đi chất mới ra đời. Chất mới gây ra sự thay đổi về
lượng. Sự thay đổi về lượng gây ra sự thay đổi về chất và sự thay đổi về chất gây ra sự thay đổi về lượng là
phương thức VĐ, PT của SV trong thế giới.
3 – QL phủ định của phủ định: Mọi SV đều liên hệ lẫn nhau và luôn vận động phát triển. Phát triển là một chuỗi
các lần phủ định BC có gắn liền với việc giải quyết mâu thuẫn và thực hiện bước nhảy về chất xảy ra bên trong
SV. PĐBC man tính k.quan – nội tại, kế thừa – tiến lên. Qua một số lần PĐBC xuất hiện PĐ của PĐ, xác lập cái
cũ ở một trình độ cao hơn. PĐ của PĐ vạch ra khuynh hướng phát triển xoắn ốc tiến lên của mọi SV trong thế
giới.
* Ngoài những nguyên lý và QL, PBC còn có sáu cặp phạm trù: cái riêng và các chung, nguyên nhân và kết
quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực.
Tóm lại, PBC DV là hệ thống các quan điểm của con người về thế giới, là hệ thống các phương pháp
nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống các giá trị để con người đánh giá và điều chỉnh các hành vi trong hoạt
động của mình.
Câu hỏi 14: Cơ sở nào để khẳng định nguyên tắc lịch sử - cụ thể (LS-CT) là “linh hồn” phương pháp luận
của triết học Mác – Lênin? Nêu những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc LSCT.
a/ - Cơ sở khẳng định nguyên tắc lịch sử - cụ thể (LS-CT) là “linh hồn” phương pháp luận của
triết học Mác – Lênin
- Triết học Mác-Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học trong
lịch sử nhân lọai.
- Triết học Mác-Lênin xem xét lịch sử xuất phát từ con người và cho rằng con người là sản phẩm của
lịch sử.
b/- Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc LS-CT
1.Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại và phát triển cụ thể của những sự
vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nghĩa là:
- Phải biết sự vật đã ra đời và đã tồn tại như thế nào, trong những điều kiện, hoàn cảnh nào, bị chi phối bởi những
quy luật nào;
- Hiện giờ sự vật đang tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh ra sao, do những quy luật nào chi
phối;
- Trên cơ sở đó, phải nắm bắt được sự vật có thể sẽ phải tồn tại như thế nào (trên những nét cơ bản) trong tương

lai
2.Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể, áp dụng cho những sự vật cụ thể,
đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể mà không nên áp dụng những khuôn mẫu
chung chung cho bất cứ sự vật nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào.
3.Nguyên tắc LS-CT được V.I. Lênin cô đọng trong nhận định: “Xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây:
một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, những hiện tượng đó đã trải qua những giai
đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành
thế nào”.
Điều này có nghĩa là nguyên tắc LS-CT đỏi hỏi phải phân tích sự vật cụ thể trong những tình hình cụ thể
để thấy được:
- Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua những độ nào; đang (đã hay sẽ)
thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những chất, lượng mới nào?
- Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu thuẫn đó đang nằm ở giai đoạn nào,
có vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển của sự vật?
18
- Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái cũ nào đang (đã hay sẽ) phải mất đi, cái
mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện?
- Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái riêng hay cái đơn nhất, điều gì
là cái chung hay cái đặc thù / cái phổ biến; chúng quy định nhau, chuyển hóa lẫn nhau như thế nào?
- Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện tượng nào chỉ là giả tượng, hiện
tượng nào là điển hình …
- Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình thức nào; hình thức nào phù hợp với
nội dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp với nội dung, cái gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi?
- Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh ra những khả năng nào; mỗi khả
năng đó, trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất yếu hiện thực hóa ra sao?
4.Nguyên tắc LS-CT đòi hỏi chúng ta phải bao được các sự kiện xảy ra trong nghiên cứu khoa học hay các biến
cố xảy ra trong các tiến trình lịch sử nhân loại.
Tuy nhiên, nó không cho phép chúng ta kết hợp các sự kiện khoa học như những cái ngẫu nhiên thuần
túy của tự nhiên hay mô tả các biến cố lịch sử như những cái vụn vặt đơn lẻ của xã hội, mà nó đòi hỏi chúng
ta phải tái hiện chúng, mô tả chúng trên cơ sở vạch ra được cái tất yếu lô gích, cái chung (quy luật, bản chất)

của chúng, chỉ ra được những trật tự nhân quả quy định chúng.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được bức tranh khoa học về thế giới, để qua đó chúng ta
nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong phú của lịch sử trong sự thống nhất.
5.Nguyên tắc LS-CT đã được các lãnh tụ của giai cấp vô sản vận dụng: Xuất phát từ tình hình cụ thể của CNTB ở
giai đoạn tiền độc quyền, tự do cạnh tranh mà C. Mác cho rằng, cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở tất cả
các nước TBCN tiên tiến.
Sang thế kỷ 20, CNTB đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, đế quốc chủ nghĩa. Khi vận dụng nguyên
tắc này vào xem xét tình hình thế giới lúc này có những thay đổi lớn mà V.I. Lênin đã đi đến kết luận đúng
đắn là: cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở vài nước, ở khâu yếu nhất của CNTB.
Đảng CS Việt Nam, Đảng CS Trung Quốc cũng đang quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc này
vào thực tiễn cách mạng mỗi nước để xây dựng cho quốc gia mình một con đường riêng đi lên CNXH.
Vận dụng nguyên tắc LS-CT, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường CNXH. Ngày nay, để xây
dựng thành công CNXH, Đảng đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định
hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn
hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ
và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Câu 15. Phép biện chứng tư duy, tư duy biện chứng là gì? Mối quan hệ giữa chúng?
Phép biện chứng tư duy là một hệ thống tư tưởng phản ánh những mối liên hệ cơ bản và phổ quát – các
nguyên lý, quy luật biện chứng – chi phối những hình thức tư duy biện chứng. Về nguồn gốc, phép biện chứng
tư duy chính là sự phản ánh của phép biện chứng khách quan vào trong bộ óc con người.
Tư duy biện chứng là một hệ thống các nguyên tắc có quan hệ với nhau điều phối hoạt động của chủ thể
tư duy trong việc nhận thức và cải tạo thực tiễn thế giới. Về nguồn gốc, tư duy biện chứng được xây dựng từ
những nội dung cơ bản của phép biện chứng tư duy, trước hết là từ nội dung của các nguyên lý, quy luật cơ bản.
 Mối quan hệ giữa phép biện chứng tư duy và tư duy biện chứng
Phép biện chứng tư duy có nhiệm vụ giải thích những gì xảy ra trong quá trình tư duy nhận thức, đồng thời
vạch ra những mối liện hệ phổ biến giữa các tiến trình tư duy và diễn đạt điều đó bằng hệ thống các phạm trù
của phép biện chứng duy vật. Trong khi đó, tư duy biện chứng – công cụ nhận thức hiệu quả được xây dựng từ

nội dung của phép biện chứng tư duy nói riêng, phép biện chứng duy vật nói chung – được chủ thể sử dụng để
nắm bắt bản chất của sự vật trong quá trình vận động, phát triển của chính nó.
19
Phép biện chứng tư duy thực hiện chức năng chính là giải thích, nó chỉ ra các quy luật mà tư duy biện chứng
tuân theo, các hình thức mà tư duy biện chứng phải dựa vào. Còn tư duy biện chứng thực hiện chức năng điều
tiết, nó chỉ ra chủ thể tư duy phải xử sự như thế nào, phải thực hiện những thao tác nào để đạt được mục đích là
hiểu thấu bản chất của sự vật trong sự vận động và phát triển của nó – khách thể biện chứng.
Không nên đồng nhất phép biện chứng của tư duy với tư duy biện chứng mặc dù chúng cùng phản ánh một đối
tượng là tư duy lý luận hiện đại. Nói đến phương thức tư duy lý luận khoa học không nên chỉ chú trọng đến các
nguyên tắc chi phối tư duy mà cần phải làm rõ các quy luật, hình thức thể hiện của nó.
Câu 16: Lý luận? thực tiễn? Anh / chị hãy phân tích những yêu cầu cơ bản của
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
1. Phạm trù thực tiễn
Thực tiễn là hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội, nhằm cải tạo tự nhiện và xã hội.
Phạm trù “thực tiễn” là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học Mác- Lê nin nói chung và lý
luận nhận thức mácxít nói riêng.
I.1. Thực tiễn là một hoạt động vật chất
Trong hoạt động vật chất, con người sử dụng các phương tiện, công cụ, sức mạnh vật chất của mình để tác động
vào tự nhiên, xã hội nhằm cải tại, biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Đây là một quá trình tương tác
giữa chủ thể và khách thể. Trong đó, chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể. Cho nên thực tiễn trở thành khâu
trung gian nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.
I.2. Hoạt động thực tiễn có mục đích
1.2.1 Hoạt động thực tiễn là bản chất của con người.
1.2.2 Động vật chỉ hoạt động theo bản năng để phù hợp với thế giới bên ngoài một cách thụ động. Con người
chủ động thích nghi với thế giới bên ngoài bằng cách cải tạo thể giới thoả mãn theo nhu cầu của mình.
1.2.3 Khi hoạt động thực tiễn, để đạt hiệu quả cao, con người tạo ra những vật phẩm không có sẵn trong tự
nhiên, đó chính là những công cụ, và sử dụng chúng.
I.3. Thực tiễn có tính chất lịch sử xã hội
1.3.1 Trình độ và hình thức hoạt động thực tiễn thay đổi qua các giai đoạn khác nhau của xã hội.
1.3.2 Hoạt động thực tiễn không thể được tiến hành không chỉ một vài cá nhân mà là tòan xã hội

I.4. Các dạng cơ bản và không cơ bản của thực tiễn
I.4.1. Dạng cơ bản:
 Hoạt động sản xuất vật chất – là một dạng họat động nguyên thủy và cơ bản và nó quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
 Hoạt động chính trị xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã
hội.
 Hoạt động thực nghiệm khoa học do nhu cầu phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
hiện đại.
I.4.2. Dạng không cơ bản: là những họat động được hình thành và phát triển từ những dạng cơ bản, chúng là
dạng thực tiễn phái sinh. Ví dụ: họat động trong một số lĩnh vực như đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn
giáo …
2. Phạm trù “lý luận”
20
2.1. Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất bản
chất, những quy luật của các sự vật hiện tượng.
2.2. Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm lý luận được
hình thành, không tự phát và cũng không bắt buộc mọi lý luận đều xuất phát từ kinh nghiệm. Muốn hình
thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm. Trong quá trình nhận thức,
con người đi từ nhận thức kinh nghiệm thông thường đến nhận thức kinh nghiệm khoa học.
2.3. Chức năng cơ bản của lý luận là phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp luận chỉ đạo
hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người
2.4. Lý luận có hai cấp độ khác nhau, cấp độ lý luận ngành và cấp độ lý luận triết học ( tùy vào phạm vi phản
ánh của nó và vai trò của phương pháp luận).
3. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
3.1. Thực tiễn và lý luận có mối quan hệ biện chứng cho nhau. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích
và là tiêu chuẩn của lý luận. Lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng được yêu
cầu thực tiễn.
3.1.1 Như ở trên ta đã nói, thực tiễn là cơ sở của lý luận. Con người nhận thức giới tự nhiên đầu tiên bằng
hoạt động thực tiễn . Sự tác động của con người buộc giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, quy luật để
từ đó con người có kinh nghiệm. Quá trình phân tích, tổng hợp, khái quát kinh nghiệm thành một môn

khoa học lý luận. Thực tiễn đề ra những vấn đề mà lý luận phải trả lời.
3.1.2 Thực tiễn là động lực của lý luận. Qua hoạt thực tiễn luôn nảy sinh những vấn đề đòi hỏi lý luận phải
hoàn thiện chính mình để bao quát và giải quyết tốt các vấn đề do thực tiễn đặt ra. Điều này càng làm
cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn.
3.1.3 Thực tiễn là mục đích của lý luận. Không có thực tiễn thì lý luận không thể đem lại lợi ích cao hơn, thỏa
mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người và qua thực tiễn đã giúp cho lý luận hoàn thành được mục
đích của mình. Lý luận hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn làm cho thực tiễn ngày càng hiệu quả hơn.
3.1.4 Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Lý luận chỉ được coi là chân lý khi nó phù hợp với thực tiễn
khách quan mà nó phản ánh, và đồng thời nó được thực tiễn kiểm nghiệm. Thông qua thực tiễn những lý
luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tang tri thức nhân loại.
3.2. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Thực tiễn phải
được chỉ đạo bởi lý luận để làm cho thực tiễn có hiệu quả nhất.
3.2.1. Hoạt động thực tiễn của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi đường. Khi lý luận
đạt đến chân lý thì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện
pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển của các mối quan hệ thực tiễn.
3.2.2. Vận dụng lý luận vào thực tiễn cần phân tích rõ từng tình hình cụ thể, tránh vận dụng lý luận máy móc,
giáo điều kinh viện . Như vậy chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực
tiễn, làm sai lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn
3.2.3. Từ lý luận xây dựng mô hình thực tiễn phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực
nhằm đạt kết quả cao.
3.2.4. Bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời bổ sung những khuyết điểm của lý luận hoặc có thể thay đổi
lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
Câu 17: Dựa vào những yêu cầu của nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lý luận, phân tích câu nói
của Mác: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng
vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật
chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”.
21
Lý luận phải được vận dụng sáng tạo vào trong từng điều kiện cụ thể của thực tiễn để kịp thời chỉ đạo
hoạt động thực tiễn, lý luận phải được kiểm nghiệm trong thực tiễn
-LL được xây dựng không dành cho LL mà để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, sự phát triễn của LL

không tách ra khỏi TT mà bám sát TT, giải đáp các vấn đề do TT đặt ra.
-LL phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm tính chân lý của nó.
-LL đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp để hướng dẫn, dự báo hoạt động TT, cải tạo thế giới. LL
chỉ có sức mạnh khi xâm nhập vào TT, vào hoạt động của con người trong thực tế.
Hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có LL soi đường, nhờ đó mà hoạt động thực
tiễn của con người mới trở thành tự giác, có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn. TT phải được chỉ đạo
bởi LL, vì LL có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. LL còn
dự báo được khả năng phát triển các mối quan hệ thực tiễn, dự báo được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn
chế, những thất bại có thể có trong quá trình hoạt động. Như vậy LL không chỉ giúp con người hoạt động có
hiệu quả mà còn:
-Là cơ sở để khắc phục những hạn chế hiểu biết của con người.
-Là cơ sở để tăng năng lực hoạt động của con người
-LL có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng của con người.
-Liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh cải tạo tự nhiên và xã hội.
Từ LL xây dựng mô hình TT theo những mục đích khác nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn
biến, các mối quan hệ, lực lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong quá trình phát triển để phát huy các
nhân tố tích cực, hạn chế được những yếu tố tiêu cực. Vì vậy có thể nói rằng TT cao hơn LL, vì nó có ưu điểm
không những của tính phổ biến mà cả tính hiện thực trực tiếp.
Chính vì vậy, C.Mác đã nói rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ
trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”.
Câu 18: Anh/Chị hãy nêu ra những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Để
khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải quán triệt nguyên tắc nào
trong triết học Mác – Lênin? Phân tích các yêu cầu cơ bản của nguyên tắc đó.
1/. Những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm:
- Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt tối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học,
khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận.
- Kinh nghiệm là rất quý, góp phần thành công trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định và là cơ sở để khái
quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm một nơi, một lúc nào đó, xem thường lý luận sẽ rơi vào
bệnh kinh nghiệm và sẽ thất bại trong thực tiễn khi điều kiện, hoàn cảnh thay đổi. Nguyên nhân của bệnh kinh

nghiệm là do yếu kém về lý luận, cụ thể:
+ nguyên nhân chủ quan: dễ thỏa mãn với vốn kinh nghiệm bản thân, ngại học lý luận, không chịu nâng
cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ thuật, coi thường giới trí thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ
trì trệ.
+ nguyên nhân khách quan: sự tồn tại phổ biến nền sản xuất nhỏ, trình độ dân trí thấp, khoa học – kỹ
thuật chưa phát triển, Nho giáo phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề.
2/. Những nguyên nhân cơ bản của bệnh giáo điều:
- Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận
khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể, áp dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn, máy móc.
22
- Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ theo kiểu “tầm chương
trích cú”; hiểu lý luận một cách phiến diện, hời hợt, biến lý luận thành tín điều và áp dụng lý luận một cách máy
móc; vận dụng sai lý luận vào thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận. Nguyên nhân của bệnh giáo điều là
do yếu kém về lý luận, cụ thể:
+ hiểu lý luận bằng kinh nghiệm, hiểu lý luận một cách đơn giản, phiến diện, cắt xén, sơ lược…
+ xuyên tạc, bóp méo lý luận…
3/. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả:
Hoàn cảnh giai cấp vô sản của nước ta trong buổi đầu cách mạng vừa giành độc lập tự do làm mảnh đất màu mỡ
cho các bệnh này phát triển nhanh, tuy nhiên chúng ta đã để chúng tồn tại quá dài. Để khắc phục triệt để bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong triết học Mác – Lênin. Cụ thể:
- Bám sát thực tiễn, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, thường xuyên kiểm tra trong thực tiễn và không
ngừng phát triển cùng thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù
hợp với thực tiễn;
- Phải coi trọng lý luận và công tác lý luận; nâng cao dân trí, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo,
phổ biến rộng rãi tri thức khoa học – công nghệ…;
- Phải đổi mới công tác lý luận của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Quán triệt nhiệm vụ, hướng nghiên cứu chủ yếu và phương châm lớn chỉ đạo hoạt động lý luận của
Đảng;
- Hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì kinh tế thị trường luôn vận động và biến

đổi, đòi hỏi mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo, phải thường xuyên bám sát thị
trường để ứng phó cho phù hợp
- Phải đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp khoảng cách giữa lý luận và
thực tiễn bằng cách:
+ từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, tư biện;
+ thường xuyên đối chiếu lý luận với cuộc sống, vận dụng lý luận vào hoàn cảnh thực tế của nước ta;
- Coi trọng và thường xuyên tổng kết thực tiễn, qua đó sửa đổi, phát triển lý luận đã có, bổ sung hoàn chỉnh
đường lối, chính sách, hình thành lý luận mới, quan điểm mới để chỉ đạo sự nghiệm đổi mới xã hội.
Câu 19: Anh/chị hãy phân tích những tiền đề xuất phát mà Các Mác dựa vào để xây dựng lý luận hình
thái kinh tế, xã hội?
Trả lời:
Các nhà triết học duy tâm trước Mác đã tiếp cận các vấn đề xã hội từ góc độ nhân tố tinh thần như: đạo
đức, niềm tin tôn giáo, chính trị…, đã “lấy sự thống trị của tôn giáo làm tiền đề. Và dần dà, người ta tuyên bố
mọi quan hệ thống trị là một quan hệ tôn giáo và người ta biến quan hệ đó thành sự sùng bái: sùng bái pháp luật,
sùng bái nhà nước”. Từ việc phê phán quan điểm duy tâm đó, C Mác đã đưa ra một hướng tiếp cận mới khoa
học và thuyết phục nhằm lý giải các vấn đề của đời sống xã hội và làm tiền đề, xuất phát điểm cho học thuyết
của mình.
Trước hết, Mác nghiên cứu xã hội từ việc xem xét yếu tố con người cụ thể, hiện đang sống đời sống thực
trong từng xã hội cụ thể. Sự tồn tại của con người là một sự tồn tại hiển nhiên và phổ biến trong đời sống xã hội,
quy định sự tồn tại của toàn thể xã hội.
23
Mác cho rằng tiền đề đầu tiên của tất cả mọi sự tồn tại của người, và do đó, cũng là tiền đề của mọi quá
trình lịch sử, đó là:” người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được
thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử
đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật
chất”.
Nhu cầu và lợi ích của con người quy định hành vi lịch sử đầu tiên và là động lực thúc đẩy con người
hoạt động, phát triển. Khi nhu cầu này được thoả mãn thì ngay lập tức xuất hiện nhu cầu mới. Cứ như vậy, nhu
cầu của con người là động lực thúc đẩy sự phát triển của chính con người và qua đó là động lực phát triển của
cả xã hội.

Để thoả mãn nhu cầu, đáp ứng lợi ích cho mình, con người phải liên kết trong các cộng đồng, tức hệ
thống các mối liên hệ giữa cá nhân con người cụ thể, từ đó tạo thành xã hội.
Khi đề cập tới hoạt động sản xuất vật chất với tính cách là hành vi lịch sử đầu tiên của con người, Mác
cũng đồng thời chỉ ra các hoạt động sản xuất khác của con người như hoạt động sản xuất tinh thần và hoạt động
sản xuất ra bản thân con người, cũng như các quan hệ xã hội khác. Trong hoạt động đó, hoạt động sản xuất vật
chất đóng vai trò là nền tảng, là cơ sở cho toàn bộ đời sống xã hội và là điểm đánh dấu sự khác biệt cơ bản giữa
con người và con vật. Mác viết: “ Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người
bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình”. Chính thông qua sản xuất vật chất để duy trì tồn tại và
phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần phong phú của xã
hội. Do đó, việc xuất phát từ con người hiện thực để nghiên cứu đời sống xã hội đòi hỏi phải bắt đầu từ sản xuất
vật chất của họ, qua đó đi đến việc xem xét các mặt khác của xã hội nhằm tìm ra các quy luật vận động và phát
triển khách quan của xã hội.
Từ việc nghiên cứu quá trình sản xuất vật chất, Mác phát hiện ra 2 mặt không tách rời nhau là lực lượng
sản xuất (quan hệ giữa con người với tự nhiên ) và quan hệ sản xuất (quan hệ giữa con người với con người).
Hai mặt này của sản xuất vật chất tồn tại thống nhất với nhau, tạo thành phương thức sản xuất. Sự tác động qua
lại giữa chúng trong một phương thức sản xuất đã tạo nên quy luật: quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động sản xuất, Mác đi tới việc nghiên cứu các mặt của đời sống xã hội như
chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo…có liên hệ ràng buộc với nhau. Ở đây, Mác đã phát hiện ra các quy
luật: cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; phương thức sản
xuất quyết định mọi mặt của đời sống xã hội. Từ kết quả này, trong tư duy Mác hình thành quan niệm cho rằng
xã hội là một hệ thống, trong đó các mặt liên hệ, tác động lẫn nhau làm cho xã hội vận động và phát triển theo
các quy luật khách quan; tuy nhiên các quy luật đó không tác động bên ngoài hoạt động sống có ý thức của con
người cụ thể. Xã hội là sự thống nhất mặt khách quan và mặt chủ quan.
Tóm lại, xuất phát từ vai trò quyết định của sản xuất vật chất, Mác đã phân tích một cách khoa học mối
quan hệ của tất cả các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội; cũng như phát hiện ra các quy luật cơ bản chi phối
sự vận động và phát triển của xã hội. Trên cơ sở đó, Ông đã đi tới sự khái quát khoa học về lý luận hình thái
kinh tế xã hội.
Câu 20: Phân tích nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.

Trả lời:
I Biện chứng giữa lực lượng sản xuất (PTSX) và quan hệ sản xuất (QHSX)
1.1 khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
1.1PTSX : là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã
hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc tưng bằng một PTSX nhất định.
24
PTSX đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội : Kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Sự thay thế kế tiếp nhau của các PTSX trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài ngưòi từ thấp đến
cao.
Trong sản xuất, con người có quan hệ : Một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là LLSX, mặt khác là
quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. PTSX chính là sự thống nhất giữa LLSX ở một trình độ
nhất định với QHSX tương ứng.
1.2 LLSX : là toàn bộ các lực lượng đựoc con người sử dụng trong quá trình sản xuất vật chất. LLSX biểu
hiện quan hệ giữa người với người với giới tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình sản xuất, con người phải chinh
phục giới tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình.
LLSX bao gồm : Con người (CN) và tư liệu sản xuất (TLSX)
* TLSX : bao gồm :
+Đối tượng lao động : một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất.
+ Tư liệu lao động : Công cụ lao động và kho tàng bến bãi, giao thông vận tải.
Trong TLLĐ, công cụ lao động không ngừng đựoc cải tiến, cho nên nó là yếu tố động nhất, cách mạng nhất.
Chính sự cải tiến và hòan thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến
cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
*Con người: là yếu tố có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lươngj tích
cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng được kết hợp với lao động sống, đó chính là con người, với những
kỹ năng, kỷ xảo, với trí tuệ và kinh nghiệm của mình. Hàm lượng trí tuệ trong điều kiện của khoa học công
nghệ hiện nay đã làm cho con người trở thành nguồn lực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực
vô tận.
1.3 QHSX: là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Thể hiện qua 3 mặt :
Quan hệ giữa ngưòi với người đối với việc sở hữu về TLSX, quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức

quản lý, quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quyết định đối với tất
cả những quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những TLSX
chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Có 2 hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.
II. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX:
LLSX và QHSX là hai m?t c?a PTSX, có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau hình thành nên quy luật về sự
phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật nàu vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan
của QHSX vào sự phát triển của LLSX. Đến lượt mình, QHSX tác động trở lại đối với LLSX. Khuynh hướng
chung của SX là không nhừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển
của LLSX, trước hết là CCLĐ.
Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của CCLĐ, của ký thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng của người lao
động, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động… Trình độ của LLSX gắn với tính chất của LLSX. Tính
chất của LLSX : Khi SX còn trình độ thấp kém thì LLSX có tính chất cá nhân, khi SX đạt tới trình độ cơ khí
hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì LLSX có tính xã hội hóa. Trong quá trình sản xuất, để lao
động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn luôn tìm cách cải thiện, hoàn thiện công cụ lao
động và chế tạo ra những công cụ lao động mới, tinh xảo hơn, đồng thời kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao
động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ theo.
Như vậy, sự thay đổi của xã hội bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi LLSX. Cùng với sự phát triển của
LLSX, QHSX cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Sự phù hợp đólà
động lực làm cho LLSX phát trỉen mạnh mẽ.
25

×