Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Ánh sáng sân khấu lý thuyết và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 111 trang )

Thiết kế và Thực hiện Ánh sáng Sân khấu Ca nhạc Thính phịng
(Tơi đã và đang soạn thảo một bộ giáo trình tổng hợp về Âm thanh và Ánh sáng chun nghiệp,
sẽ cơng bố nay mai trên website này. Nó sẽ có đầy đủ những kiến thức chun ngành khơng thể
thiếu, nhưng nó sẽ có những điều mà các bạn đang ở trong nước chưa thể tiếp cận ngay được,
trong điều kiện thiếu thốn thiết bị hi-tech, và nhất là những bạn chưa biết phải vận hành các
thiết bị sẵn có như thế nào để cho ra một chương trình ánh sáng (Lighting Show). Bài viết nhỏ
sau sẽ những hướng dẫn về những kỹ, nghệ thuật khá đơn giản để thực hiện một show tương đối
nhỏ, phù hợp với điều kiện ở VN.
Sân khấu Ca nhạc Thính phịng (SKCNTP), nói nôm na là biểu diển ca nhạc trong một không
gian kín, kích thước, lượng khán già hạn chế. Ở VN ta, điều này tương đương với những loại
hình như: Phịng trà ca nhạc, Cà phê nhạc sống, Hát với nhau cao cấp v.v. Các loại hình khác
như sân khấu ca nhạc nghiệp dư, event, cây nhà lá vườn v.v. cũng có thể tham khảo bài viết này
như một sự gợi ý.)
Khác với Sân khấu Ca nhạc chuyên nghiệp, có rất nhiều nhân viên để chỉ làm trong một bộ
môn Ánh sáng, SKCNTP thường chỉ có một người kiêm tồn bộ các mục AS như thiết kế, kỹ
thuật, lập trình, vận hành bộ điều khiển hằng đêm. May ra thì có thêm người điều khiển đèn
follow có thể phụ bạn lúc ngồi giờ, nhưng khi biểu diễn chỉ có độc nhất một mình bạn đứng
(ngồi) trước bàn điều khiển. Thêm nữa, show AS chuyên nghiệp người ta có list bài hát, ca sĩ,
thời điểm tiết mục, cịn bạn thì đến giờ biểu diễn bạn cịn chưa chắc nắm rõ hơm nay SK của
mình có bao nhiêu ca sĩ?, hát bài gì?, thứ tự những bài hát như thế nào? Và cuối cùng là bạn xử
lý từng tình huống một như thế nào? Một lơ những câu hỏi hóc búa.
Những hướng dẫn cơ bản: Theo thứ tự: Thiết kế, Lập trình, Vận hành, Nghệ thuật cảm
tính (feeling).
(Phần thiết kế và lập trình có thế có nhiều người cùng thực hiện).

1


THIẾT KẾ: (cho sân khấu 4 x 8 mét, khán giả < 200 người)
o Thiết bị:
- PAR: Bạn nên thiết kế để có khoảng vài chục (16 trở lên) đèn PAR 56 hay 64,


được gắn 4 màu cơ bản như đỏ, vàng, xanh, xanh lục (có thể bỏ màu xanh sẽ hơi
bị tối nếu cùng số lượng với các màu khác, như vậy sẽ tốn kinh phí hơn và thay
bằng màu xanh ngọc (cyan), sáng và rực rỡ hơn) sao cho mỗi màu có khoảng 4 –
6 PAR. Nếu treo cách SK > 8 mét, bạn nên chọn loại VNSP.
- PAR LED: Nếu có điều kiện, nên tăng cường thêm một số PAR LED (6 – 8), số
lượng nhiều thì chọn loại có vỏ khá dài (Gần như PAR thường), luồng sáng sẽ bị
gom lại, dễ điều chỉnh hướng hơn. Nếu PAR LED là loại cao cấp sẽ có hiệu ứng
màu UV, tối cần cho loại hình ca nhạc này.
- Scanner: Khoảng 10 cái, công suất ≥ 575watt.
- Movie head: trong SKCNTP, xử dụng MH ít hiệu quả bằng scanner vì tốc độ
vào scene chậm (mất thời gian vì phải quay trên 360 độ), độ sáng, hiệu ứng kém
hơn. Và quan trọng nhất là giá thành của nó mắc gần gấp đơi scanner, như vậy
thay vì dùng 6 MH, bạn đổi lấy 12 scanner, sáng đẹp và hiệu quả hơn. Nếu có,
chỉ cần khồng 4 cái, chun dùng cho những hiệu ứng đặc biệt.
- Follow spot: 1 cái, ≥ 575watt, có kính lọc màu và Iris. Nếu chương trình có
nhiều nhóm nhạc, có thề tăng số lượng phù hợp.
- Máy khói: SKCNTP ít dùng máy tạo khói vì trong biểu diễn trong phịng kín,
mùi khói đơi khi bị khét sẽ ảnh hưởng đến khán giả. Nhưng nếu SK lớn, thiết bị
AS quá yếu, nên có máy khói để tăng độ sáng. Nếu xử dụng, nên dùng máy cao
cấp, dung dịch tạo khói loại nhẹ và có thêm một quạt thổi, kích cỡ B300->400,
loại quạt vng đặt dưới sàn, có cánh tỏa luồng gió.
- Bộ điều khiền AS (Controller): Ít nhất 2 cái. Một cho PAR, có dimmer, hiệu
ứng lập nhóm (group) và phải có nhiều button nhấn để có thể điều khiển bằng
cảm tính (feeling). Cái thứ hai dùng cho moving light, phải là loại có thể chồng
nhiều scene, program lên nhau, thay đổi tốc độ cho từng chase. Nếu có Pulsar
Master Piece 256 hay tương đương thì rất tốt, hay loại PC interface như Sun
Light, DMX Creator cũng tốt nhưng khi thao tác sẽ chậm hơn.
o Bố trí:
- Treo đèn:


2


Bạn có thể theo sơ đồ trên để bố trí đèn cho phù hợp với địa thế SK của bạn.
Đèn PAR các loại thường treo trên đầu khán giả (nhớ xử dụng cable an tồn).
Nếu khơng có chỗ treo, bạn phải làm giàn khung hay dùng chân đứng để treo đèn
càng cao càng tốt. Vị trí có thể thay đổi nhưng phải có thể chỉnh được hướng
đèn. Đèn PAR hướng vào phơng nền SK, Scanner và MH có thể bao quát cả hai:
phông lẫn địa điểm ca sĩ trên SK (4 chữ thập màu đỏ). Scanner thì treo ngược,
phần gắn kính quay xuống như trong hình vẽ, vì đây là tư thế treo hoàn hảo nhất
cho scanner, vừa thẩm mỹ lại có độ bao quát cao nhất. Bốn scanner trên sân khấu
đặt hơi xéo ra ngoài một chút để luồng sáng có thể hướng vào lưng ca sĩ vừa
hướng vào phông đều tốt. Follow spot đặt sau hàng khán già cuối, nếu thính
phịng có lầu thì đặt ngay giữa balcon.
3


- Điều chỉnh (focus) đèn:
Sau khi đã treo và cung cấp dây nguồn, tín hiệu cho tồn bộ thiết bị đèn.
Bạn sẽ sang phần điều chỉnh hướng đèn.
Scanner và MH: Tuần tự từng cặp đèn đối xứng một, bạn chỉnh sao cho
luồng sáng của cặp đèn phải giao nhau tại đường tâm đối xứng dọc SK, tạo ra
những tam giác cân hồn hảo. Trước đó, bạn phải set tất cả đèn moving light có
chức năng pan về chế độ reverse hay opposite. Điều này giúp bạn về sau lập trình
được dễ dàng hơn.
PAR: Lần lượt từng màu 4 đèn một, bạn hướng vào góc xa SK, từng cặp
đèn đối xứng lẫn nhau, sao cho nó phủ lên phơng diện tích càng lớn càng tốt.
PAR LED: Cũng như trên nhưng chia làm hai, một nửa đèn hướng lên
phần trên phông SK, nửa cịn lại hướng xuống dưới.
LẬP TRÌNH (PROGRAM) TỔNG QT:

Lập trình cho từng loại đèn riêng biệt.
o PAR:
- Lập từng nhóm (group) đèn PAR cùng màu, như vậy bạn sẽ có 4 nhóm hay
scene.
- Lập nhóm nhiều màu, số lượng nhóm hay cách pha trộn (mix) màu là tùy ý bạn,
miễn sao bạn thấy đẹp là được.
- Lập vài chương trình chạy đuổi (chase). Lưu ý: phải điều chỉnh độ sáng của các
scene trong chase thật cân bằng, để khi chạy đổi scene sẽ không bị giật độ sáng tối
tương phản quá rõ, gây rối mắt khán giả.
- Lập khoảng 2 chase với tốc độ thật chậm (5 => 10 giây), fade in-out cho scene
thật mượt mà, dùng cho những bài hát thật chậm.
o PAR LED:
- Cũng như PAR thường, một nửa số lượng bạn dùng để làm đầy phông, nửa còn
lại xuống sàn sân khấu. Lập khá nhiều scene đổi màu, phát huy tính năng pha màu
của loại này để tạo ra những màu thật lạ mà loại thường khơng có.
o SCANNER:
- Follow:
Áp dụng ngun tắc rất quan trọng của ánh sáng: “Khi chiếu sáng một đối
tượng bằng nhiều màu sắc khác biệt, sẽ làm nổi bật đối tượng đó lên so với những
đối tượng khác được chiếu sáng bằng ánh sáng đơn sắc, dù tất cả đều có chung
một cường độ chiếu sáng”.
Trên sân khấu, bạn dùng băng keo trắng hay màu sáng dán trên sàn sân
khấu, tạo thành những hình chữ thập (hay X). Ca sĩ chuyên nghiệp bây giờ rất tinh
ý, khi ra sân khấu, nếu thấy, họ sẽ tự động đứng trên một trong những chữ thập đó
4


vì họ biết rằng đó là lợi ích của chính họ, khỏi cần bạn nhắc nhở. Bạn nhờ một
người nào đó có tầm vóc trung bình đứng trên những chữ thập này làm mẫu để
bạn chỉnh vị trí đèn. Vị trí này có thể thay đổi tùy theo địa hình của sân khấu.

Bạn dùng 4 scanner treo trên sân khấu để làm follow hậu. Mỗi scene dùng
1 cặp đèn đối chiếu, như đèn 2 bìa 1 cặp, 2 giữa 1 cặp. Chỉnh sao cho luồng sáng
chiếu từ cách đầu khoảng 20cm xuống thân. Thay đổi vị trí và dời đèn đi theo sẽ
tạo ra 1 scene khác. Tạo scene cho tình huống song, tam ca v.v. Tương tự như vậy
với 6 đèn trước mặt, cũng lập cứ 2 đèn thành 1 scene.
Tất cả scene follow này đều lập trình ở chế độ đổi màu, tốc độ đổi giữa 2
màu khoàng 2 giây. (Cũng có những scene lập trình màu trắng, nhưng dùng để tạo
hình, khơng phải để follow). Bây giờ bạn đã có trên 10 scene cho phần follow, sở
dĩ phải có nhiều như vậy vì hiếm khi bạn dùng trên 4 đèn 1 lúc. Bạn sẽ xử dụng
từng cặp một, mỗi bài hát lại thay đổi vị trí cho đỡ đơn điệu. Khi cần đối tượng
sáng hơn thì chồng scene, tăng số lượng cho đến khi dùng cả 10 đèn, tạo sự nổi
bật rực rỡ tuyệt đối cho đối tượng.
- Tạo hình:
Dùng 10 scanner một lúc, bắt đầu bằng màu trắng, di chuyển đèn từng cặp
một, hướng chiếu của đèn sẽ thay đổi bất kỳ, vào phơng, góc SK, vịm, ngay cả
viền màn bên ngồi SK (nhưng khơng được chiếu xuống khán giả). Bạn có thể có
rất nhiều vị trí đối xứng có thể chiếu đèn vào đó (chiếu xuống sàn là tạo luồng,
một hiệu ứng khác). Sau khi save vào scene đầu tiên, bạn lại thay đổi góc chiếu
từng cặp đèn sao cho nó lại tạo một hình khác. Bạn cố gắng dùng óc sáng tạo của
bạn để tạo ra càng nhiều scene càng tốt, nhưng phải thật đẹp, cân đối, hài hịa. Có
thể lợi dụng vị trí gần phông của 4 scanner hậu, chiếu xéo vào phông để tạo ra
những vệt sáng hình bầu dục, khá đặc sắc. Đôi khi, muốn thêm nhiều scene, bạn
chỉ cần giữ ngun vị trí những hình này, nhưng thay đổi góc chiếu bằng cặp đèn
khác, sẽ tạo ra hiệu ứng khác.
Ở trên là những scene chỉ có màu trắng, bây giờ bạn đổi tất cả sang hiệu
ứng đổi màu thật chậm (3 => 5 giây / mỗi màu) rồi save (hay save as) tất cả sang
một tên khác. Thí dụ: những scene màu trắng, bạn đặt tên theo vị trí, hình nó tạo
ra, hay theo số thứ tự như “vị trí 1, 2 , 5…” v.v. Khi đặt tên mới cho scene bạn chỉ
cần thêm chữ “đổi màu” hay “color change” là được.
Rồi đến chế độ gobo. Từ những scene đổi màu trên, bạn gán cho từng

scene đều có một hay nhiểu loại gobo tùy ý, chọn những gobo nào bạn thấy đẹp
nhất. Nếu sân khấu khá lớn, bạn có thể thêm chế độ prism (lăng kính), gobo sẽ
bung ra thành 3 hay 4 hình, sẽ phủ diện tích lớn hơn. Save những scene này với
tên khác như cộng thêm chữ “gobo” chẳng hạn.
Cuối cùng, bạn lập thêm 1 chế độ nữa là “quay gobo- gobo rotate” cũng
cùng thao tác như những mục trên.
(Trong SKCNTP bạn nên điều chỉnh tất cả thiết bị đèn sang chế độ chuyển
gobo dứt khoát, từ gobo này sang gobo khác, không qua trạng thái fade trung
gian. Chế độ này có sẵn trong nhiều loại đèn, vài controller cao cấp cũng có thể
5


làm được, những hình gobo sẽ có sự biến hóa bất ngờ hơn).
- Tạo luồng:
Nói chung, SKCNTP ít dùng hiệu ứng luồng sáng, vì nếu muốn dùng phải
thêm hiệu ứng khói khá dày, khơng thích hợp cho thính phịng. Bạn có thể kết hợp
4 scanner hậu và 4 MH để tạo những luồng sáng ngang, dọc, xéo trên SK theo ý
bạn. Để làm dịu cường độ sáng, bạn có thể chọn những gobo nhỏ như chấm vòng
tròn hay 1 thanh, quay với tốc độ chậm.
- Lập chase – sequence (chạy đuổi):
Bây giờ bạn đã có rất nhiều scene tạo hình hay luồng để làm thành những
chase riêng biệt.
Bạn mở tuần tự một số scene trong cùng 1 nhóm (màu, gobo v.v.) đã lập
trước đây. Không nhất thiết phải lựa scene theo thứ tự khi lập trình, có thể xáo
trộn thứ tự này tùy ý. Bạn test lại bằng cách bấm từng scene với khoảng cách
trung bình giữa các scene thật tế khoảng 2 giây và nhìn lên SK để theo dõi sự
chuyển động giữa các scene. Số lượng scene để tạo ra 1 chase không cần lớn, chỉ
khoảng 4 => 8 scene. Sau khi đã lựa chọn ưng ý được số lượng và thứ tự scene,
bạn save tất cả vào một chase với tốc độ trung bình là 3 giây. Sau khi đặt tên, bạn
mở chase mới và cho nó chạy. Lúc này bạn nhìn lên sân khấu và xem xét thật kỹ

coi có gì khơng thơng suốt trong chase này không. Điều chỉnh lại speed, slope
nhanh chậm hơn sao cho các scene chạy thật mượt mà, khơng có scene nào khi
chưa chạy hết đường đi của nó đã phải quay đầu chạy sang scene kế tiếp. Thời
gian xuất hiện scene trọn vẹn trong 1 chase dù chỉ tích tắc, nhưng cũng khá quan
trọng trong khi lập chase (thuộc về cảm tính, khó nói ra).
Theo như trên, bạn lập thêm nhiều chase khác với những scene là tập hợp
những nhóm hiệu ứng như màu, gobo, rotate v.v. cho dễ đặt tên. Bạn cũng vẫn có
thể lập chase có nhiều loại hiệu ứng khác nhau và có lẽ bạn nên đặt tên cho những
chase này là “tổng hợp” hay “lộn xộn” (sic).
o MOVIE HEAD:
Vì MH có tốc độ quay khá chậm, bạn nên lập trình nó sang những chase
riêng. Khi lập trình, giữa những scene, bạn khơng cho đèn MH quay xuống khán
giả, bất đắc dĩ thì chỉ cho phép quay lên trần thính phịng thơi. Vài loại MH có chế
độ khi đang di chuyển thì tắt luồng sáng, khi ngừng lại mới mở sáng, bạn nên tận
dụng chế độ này cho MH. Trong SKCNTP, MH chỉ lập trình vào phơng, và cùng
4 scanner hậu tạo luồng trên SK. Cách lập trình cũng giống như scanner, màu và
gobo. Bạn làm một số scene và chase theo ý bạn.
- Cuối cùng của phần lập trình tổng quát này là gợi ý lập 1 chương trình mà tơi
gọi là “Đề Lơ”. Chương trình này không dùng trong lúc biểu diễn nhưng rất quan
trọng trong khi sửa chữa, bảo trì thiết bị moving light. SKCNTP là nơi biểu diễn
dài hạn ngày này qua ngày khác với cùng 1 chương trình. Sau lập trình xong thì vị
trí luồng sáng rất quan trọng. Nếu vì bất kỳ lý do nào, bạn phải tháo đèn xuống
hay chỉ cần quay theo trục treo đèn thì tất cả các scene đã lập đều bị sai vị trí ban
6


đầu khiến cho hình đã thiết lập của các scene bị méo mó ít nhiều. Bạn khơng thể
khơi phục vị trí này chính xác được nếu khơng làm chương trình “Đề Lô” sau
đây:
Bạn chọn một hay nhiều điểm cố định trên phơng hay sàn SK, thí dụ như

những chữ thập tại hình vẽ trên. Bạn điều chỉnh hướng đèn sao cho nó chiếu
chính xác vào giữa một tâm của chữ thập đó, từng đèn một. Nếu đèn của bạn có
hiệu ứng Iris (mống mắt) thì điều chỉnh luồng nhỏ lại tối đa, càng nhỏ càng chính
xác. Sau khi chỉnh hướng xong, bạn save nó vào 1 scene có tên dễ nhớ như “Đề
Lơ xx” chẳng hạn. Nếu có nhiều vị trí thì mỗi vị trí save vào 1 scene. Sau này, khi
sửa chữa, bảo trì đèn xong, bạn chỉ cần mở scene này ra và điếu chỉnh bằng tay,
xoay hướng đèn vào vị trí đã đánh dấu là có thể yên tâm siết ốc vít chắc chắn.
- Phần hướng dẫn lập trình trên chỉ là tổng qt, cịn phải lập khá nhiều chương
trình nữa. Nhưng khi qua phần vận hành, bạn mới có thêm 1 số khái niệm về cách
vận hành theo âm nhạc để lập thêm những chương trình này cho thật đúng.

Dưới đây là bản dịch đầy đủ Giáo trình “ Stage Lighting Design” của tác giả Bill
Williams để các bạn có những tiếp cận chi tiết hơn về Thiết kế Ánh sáng Sân khấu
tuỳ theo mỗi loại hình sân khấu.
Giáo trình “Stage Lighting Design” vừa cung cấp một cái nhìn phổ qt vừa vơ
cùng chi tiết, đảm bảo cho bất kỳ một hướng tiếp cận nào khi bạn bắt đầu công
việc thiết kế ánh sáng sân khấu đều có thể tìm thấy những điều cơ bản nhất mà
mình cần.

7


THIẾT KẾ ÁNH SÁNG SÂN KHẤU
Stage Lighting Design
Bill Williams
PHẦN 1 / 7 – Lời giới thiệu về Ánh sáng Sân khấu
1.01 Niềm vui khi Thiết kế ánh sáng
1.02 Sự phát triển của ánh sáng sân khấu
1.03 Người thiết kế ánh sáng
1.04 Mục tiêu của ánh sáng sân khấu

1.05 Phẩm chất của ánh sáng
1.06 Cường độ & độ sáng
1.07 Dạng thức & phân phối
1,08 Color, Chroma, Hue & Giá trị
1.09 Định hướng & Di chuyển
1.10 Ngôn ngữ của ánh sáng

1.01 - NIỀM VUI KHI THIẾT KẾ ÁNH SÁNG
1.) GIỚI THIỆU:
Một trong những ngành nghề xứng đáng nhất hiện nay có thể là nghề thiết kế ánh sáng làm việc
trong môi trường nghệ thuật. Nó cũng có thể là một trong những ngành nghề dễ nản chí nhất trên
hành tinh.
Người thiết kế ánh sáng sẽ không bao giờ ngừng học hỏi. Mỗi tác phẩm, dự án sẽ đưa ra những
thách thức mới, những trở ngại mới, những động lực của con người mới và các vấn đề mới phải
giải quyết. Bạn có thể gặp nhiều thất bại trên công việc. Đây là một phần của tiến trình nghệ
thuật. Người thiết kế ánh sáng khơng nên ngần ngại mà chùn bước khi có những sai lầm, nên có
8


càng nhiều sai lầm càng tốt, chỉ cần không bao giờ mắc phải sai lầm tương tự đến lần thứ hai.
Niềm vui tuyệt vời là khi thiết kế ánh sáng cho một tác phẩm đã đáp ứng được các yêu cầu của
các nhà biên soạn kịch bản và cũng có thể đáp ứng các ý đồ của giám đốc chương trình và các
người thiết kế khác. Tuy nhiên, niềm vui sẽ lớn hơn nhiều khi biết rằng bạn đã thành cơng trong
mục đích và ý đồ của bạn và bạn sẽ vơ cùng xúc động khi "kích động" được tồn bộ khán giả
thông qua việc xử dụng bộ điều khiển và chương trình ánh sáng của bạn.
Ánh sáng sân khấu không chỉ là vấn đề chiếu sáng đơn giản như hơn 100 năm trước đây. Ngày
nay, người thiết kế ánh sáng dự kiến sẽ là một bậc thầy về nghệ thuật, khoa học, lịch sử, tâm lý
học, truyền thơng, chính trị và thậm chí đơi khi cịn đọc được cả tâm hồn.
Người thiết kế sân khấu sẽ học được một cách nhanh chóng rằng mọi thứ khơng ln là những gì
họ thấy thể hiện. Một đạo diễn yêu cầu cho “nhiều ánh sáng” trên một diễn viên, khơng có nghĩa

là cho tất cả diễn viên. Thay vào đó, ơng ta thực ra chỉ muốn “để xem các diễn viên đẹp hơn”.
Người thiết kế có thể chọn: giảm độ tương phản ánh sáng chung quanh diễn viên này, hay đơn
giản hơn là yêu cầu diễn viên nghiêng mặt của mình lên một chút. Cả hai giải pháp đều giải
quyết được vấn đề mà khơng cần "thêm nhiều ánh sáng hơn”. Vì vậy, người thiết kế ánh sáng
cũng phải là một người biết lắng nghe, người phiên dịch cẩn thận và là một người có tay nghề
cao.
Cuối cùng, người thiết kế ánh sáng phải là một nghệ sĩ! Họ phải hiểu biết phong cách, kết cấu,
cân bằng, thẩm mỹ và cảm xúc của con người. Họ cũng phải hiểu khoa học của ánh sáng, quang
học, tầm nhìn, nhận thức tâm lý học và công nghệ ánh sáng. Xử dụng những công cụ để thiết kế
ánh sáng phải học cách suy nghĩ, cảm nhận và tạo ra tác phẩm bằng trái tim của mình.
Khi thiết kế ánh sáng tốt – chỉ một mình bạn biết.
Khi thiết kế ánh sáng tồi -- tất cả mọi người sẽ cho bạn biết!

1.02 – SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THIẾT KẾ ÁNH SÁNG
1.) ÁNH SÁNG SÂN KHẤU TRƯỚC ĐÂY
Thiết kế ánh sáng sân khấu có thể cổ xưa như nhà hát trang trọng. Người Hy Lạp trước đây đã
xây dựng nhà hát của họ với không gian mở và định hướng chúng quan hệ với ánh nắng mặt trời,
xử dụng ánh sáng tự nhiên để chiếu sáng sân khấu. Họ trình diễn vở kịch của mình tại những
thời điểm khác nhau trong ngày, để tận dụng lợi thế sự khác nhau của ánh sáng tự nhiên. Loại
hình này về bản chất, là thiết kế ánh sáng đầu tiên. Nhà hát Dionysus (Athens, khoảng năm 330
trước Công nguyên) và nhà hát Epidaurus (đã hoàn thành khoảng năm 340 trước Cơng ngun)
là những thí dụ về các nhà hát cơng cộng đầu tiên trên thế giới.
Ánh sáng cho nhà hát được phát triển qua nhiều thế kỷ, xử dụng cả hai nguồn: tự nhiên và sau đó
9


là các nguồn nhân tạo. Mặt trời, nến, đuốc dầu, khí đốt, hồ quang điện và ánh sáng vơi? (lime),
tất cả đều có một vị trí trong ánh sáng sân khấu trước kia. Tại Italia thời Phục hưng, nhiều nền
tảng của thiết kế ánh sáng như hiện nay, đã được xây dựng khá vững chắc.
2.) ÁNH SÁNG SÂN KHẤU HIỆN ĐẠI

Thiết kế ánh sáng sân khấu hiện đại bắt đầu tiến triển mạnh với sự phát triển của đèn đốt tim vào
cuối những năm 1800. Sáng chế này cho phép phát triển thiết bị đèn (fixture) ánh sáng nhỏ, an
toàn, di động, có thể dễ dàng đặt ở bất cứ đâu chung quanh sân khấu, và sau đó được điều khiển
bởi một hệ thống dimmer từ xa. Trước đây trong thời kỳ ánh sáng khí đốt, ánh sáng sân khấu
phức tạp đã thực sự tồn tại. Tuy nhiên, nó được giới hạn bởi cơng nghệ này có mùi khó chịu, với
nhiều vấn đề vốn có của nó. Trong thời kỳ ánh sáng khí, một số lượng lớn nhà hát đã bị phá hủy
bởi hỏa hoạn.
Trong thời gian đầu những năm 1900, ánh sáng sân khấu tiếp tục phát triển, một số ngành công
nghiệp ánh sáng bắt đầu phát triển song song, vay mượn gốc cơ bản từ các lĩnh vực thiết kế ánh
sáng sân khấu. Các lĩnh vực hiện đại của màn hình, phim ảnh, nhiếp ảnh và thiết kế ánh sáng
truyền hình tất cả đã tiến hóa và phát triển từ những nguồn gốc cơ bản của thiết kế ánh sáng sân
khấu ban đầu. Thiết kế ánh sáng sân khấu hiện nay đã được công nhận như là một sự hợp nhất
của hai lĩnh vực: khoa học với nghệ thuật.
3.) ÁNH SÁNG SÂN KHẤU TRONG TƯƠNG LAI
Tương lai của ánh sáng sân khấu rất là thú vị. Sau khi có các bóng đèn đốt tim, ánh sáng sân
khấu đã được cách mạng hóa trong những năm 1930 bởi sự phát triển của loại đèn phản chiếu
hình elip (ellipsoidal reflector) (Leko). Sự phát triển của các dimmer SCR vào năm 1960 tạo ra
một sự thay đổi triệt để. Bây giờ các loại đèn tự động (được giới thiệu lần đầu tiên trong năm
1970) là cuộc cách mạng hóa ngành cơng nghiệp ánh sáng một lần nữa. Công nghệ mới gần đây
đã sản xuất ra những màu sắc, chưa bao giờ nhìn thấy trong các thiết kế ánh sáng trước đây.
Nguồn ánh sáng mới được phát triển bao gồm: Xenon, Metal Halide, cảm ứng, ánh đèn huỳnh
quang và đèn lưu huỳnh. Việc xử dụng sợi quang học mang theo cả hai: “ánh sáng (light)” và
“dữ liệu (data)” và sự phát triển hơn nữa của cơng nghệ chiếu hình tinh thể lỏng là tất cả các
phần của tương lai thú vị cho thiết kế ánh sáng giải trí.
Thiết kế phần mềm cho máy tính sẽ tiếp tục phát triển và cuối cùng cho cho người thiết kế đầy
đủ nghệ thuật điều khiển "tương tác" qua công nghệ "trực quan (visual)". Phần mềm ánh sáng
hiện nay cung cấp sự hỗ trợ với thiết kế, bản vẽ và giấy tờ. Thiết kế phần mềm trong tương lai sẽ
xử dụng cả hai loại: màn hình cảm ứng và cơng nghệ “nhận dạng tiếng nói”. Có thể điều khiển
tinh thần của hệ thống ánh sáng được xa tới đâu?
"Vở kịch có vẻ như dài vơ tận.


10


Đừng nhớ một điều nhỏ nào giống như các diễn viên đang thách thức
Điều duy nhất tôi lo lắng là về mặt trời.
Chúng ta sẽ đúng hoàn toàn nếu ánh sáng khơng có gì sai ".
(It Bids Pretty Fair - Steeple Bush - 1947)
1.03 – NGƯỜI THIẾT KẾ ÁNH SÁNG
1.) VIỆC LÀM, SỰ NGHIỆP, CUỘC SỐNG
Người thiết kế ánh sáng sân khấu truyền thống chịu trách nhiệm cho việc thiết kế và giám sát tất
cả các khía cạnh của ánh sáng cho một chương trình sân khấu điển hình. Trong giữa năm 1900
người thiết kế ánh sáng ở Anh và Mỹ phát triển và tinh chế các phương pháp thiết kế ánh sáng
hiện đại cho sân khấu, múa và opera. Đó là chỉ sau khi sự phát triển của bóng đèn đốt tim mà
những người tiên phong đầu tiên đã có thể thành lập các điểm cơ bản và tiêu chuẩn mới trong
thiết kế. Cho dù làm việc trong một nhà hát cộng đồng nhỏ hay trong một hội trường opera lớn,
người thiết kế ánh sáng là (hay nên là) một thành viên quan trọng và được tôn trọng của bất kỳ
chương trình hiện đại nào. Thiết kế này, phối hợp với giám đốc và các người thiết kế khác (thiết
lập và trang phục) để bảo đảm rằng chương trình là đúng và phù hợp với ánh sáng trong tất cả
các khía cạnh, từ khi thành lập đến khi hồn thành.
Người sản xuất chương trình và quản lý nhà hát đã thực hiện điều này nhiều năm trước đây, họ
có thể chi tiêu “hàng triệu” đơ la, cho cảnh trí, trang phục, và diễn viên nhưng tất cả đều lãng phí
nếu ánh sáng “xấu”. Nhiều chương trình thương mại hiện tại có nhu cầu rất cao về các yêu cầu
ánh sáng cho nó và về mặt này, người thiết kế ánh sáng đã trở thành một thành viên quan trọng
và không thể tách rời của ngành công nghiệp nhà hát và giải trí. Thiết kế ánh sáng thường được
thiết kế ở giai đoạn cuối cùng ở nhà hát, và tất cả mọi người hoàn toàn hy vọng anh (chị) ta thực
hiện được các ma thuật, phép lạ và làm cho bộ trang phục và diễn viên ... "nhìn tuyệt vời".
Nhiều cá nhân, trong những năm 1700 và 1800, đã đóng góp cho sự phát triển nghệ thuật và
khoa học về thiết kế ánh sáng sân khấu. Không phải cho đến đầu những năm 1950 mới có, tuy
nhiên cho đến khi vai trò của người thiết kế ánh sáng chắc chắn là một nghệ sĩ cuối cùng đã được

thừa nhận. Cho đến thời điểm này, ánh sáng chủ yếu là một cái gì đó để được các kỹ thuật viên
chăm chút. Ngày nay, hàng ngàn người thiết kế ánh sáng làm việc trên thế giới trong nhiều
ngành cơng nghiệp giải trí khác nhau.
Thiết kế ánh sáng ngày nay thường có khuynh hướng chun mơn hóa trong từng loại cụ thể của
chương trình giải trí, mỗi u cầu hơi khác nhau trong phương pháp làm việc và kỹ thuật.
Chuyên ngành có thể bao gồm chiếu sáng cho Nhà hát, Dance, Opera, Truyền hình, Cơng viên,
cho show trượt băng, cuộc thi ngồi trời, truyền hình thương mại và các chương trình cơng
nghiệp hay doanh nghiệp.
11


Một số thiết kế ánh sáng sân khấu cũng có thể chun mơn hóa trong chun ngành. Thí dụ, hiện
nay khó tìm một người thiết kế ánh sáng “dance” mà có thể làm việc tốt trong lĩnh vực múa hiện
đại, hay nhiều người thiết kế ánh sáng chỉ hoạt động chuyên biệt trong lĩnh vực nhạc "Rock”.
Bất kể dùng phương pháp rèn luyện ánh sáng nào, tất cả các người thiết kế ánh sáng phải có một
sự hiểu biết đầy đủ về các công cụ của họ và cả hai khía cạnh: vật lý và tâm lý của ánh sáng.
Điểm cơ bản chính của tầm nhìn, ánh sáng và thiết kế, áp dụng cho bất kỳ phương pháp rèn
luyện thiết kế ánh sáng nào.
Chỉ có khác biệt thực sự từ một ngành công nghiệp ánh sáng khác là hệ phương pháp
(methodology) và các loại thiết bị liên quan. Thí dụ, người thiết kế ánh sáng trưng bày có thể xử
dụng đèn Fresnel 3" -150watt, thiết kế sân khấu nhà hát có thể dùng Fresnel 8" -2000 watt, và
thiết kế truyền hình hay phim ảnh có thể xử dụng Fresnel 30" -10000 watt. Hơn nữa, người thiết
kế ánh sáng phải có kiến thức và kinh nghiệm với các phương pháp ánh sáng, thiết bị (fixture)
và các phần cứng có sẵn để phục vụ ngành công nghiệp ánh sáng đặc biệt của họ.
Mọi người trong nhà hát đều biết 2 việc làm ... cho riêng mình ... và ánh sáng!
1.04 – MỤC TIÊU CỦA ÁNH SÁNG SÂN KHẤU
1) MỤC TIÊU CỦA ÁNH SÁNG SÂN KHẤU
"Ánh sáng sân khấu có thể được định nghĩa là việc xử dụng ánh sáng để tạo ra một cảm giác về
TẦM NHÌN, TỰ NHIÊN, BỐ CỤC và TÂM TRẠNG, (hay KHƠNG KHÍ)". Vì vậy, bắt đầu
một chương trong văn bản năm 1933: "Đề cương của ánh sáng sân khấu của Stanley

McCandless. Các văn bản ánh sáng toàn diện nhất, có khuynh hướng thảo luận về các mục tiêu
nghệ thuật, (chức năng) của ánh sáng, trong những điều khoản này, McCandless công nhận rằng
đây là những phẩm chất "chồng chéo" và một trong những cái hiện ra không tồn tại độc lập với
những cái khác.
2.) TẦM NHÌN (VISIBILITY)
TẦM NHÌN là thường được coi là chức năng cơ bản nhất của ánh sáng sân khấu. Những gì
chúng ta khơng nhìn thấy, chúng ta hiếm khi hiểu rõ được nó. Tầm nhìn bị phụ thuộc vào nhiều
hơn so với cường độ của ánh sáng. Các yếu tố khác như, tương phản, màu sắc, kích thước và
dịch chuyển tất cả có thể ảnh hưởng đến tầm nhìn. Khoảng cách, độ tuổi và tình trạng của mắt
cũng đóng vai trị quan trọng trong tầm nhìn. "Tầm nhìn tốt về bản chất là lựa chọn mục đích của
nó là để tiết lộ những điều có chọn lọc trong các điều khoản của độ sắc sảo." - (S. McCandless,
1933).
3) TỰ NHIÊN (NATURALISM) và THÚC ĐẨY (MOVATION)
TỰ NHIÊN tạo ra một cảm giác về THỜI GIAN và ĐỊA ĐIỂM. Thiết lập sân khấu có thể được
đánh giá cao hay thực tế hoàn toàn trừu tượng, vô lý, hay cách điệu. Nếu thời điểm trong ngày là
12


quan trọng hay địa điểm là thực tế, sau đó động cơ thúc đẩy thường được cung cấp bởi ánh sáng
mặt trời, ánh trăng, ánh lửa, ánh đèn, hay các nguồn sáng sân khấu tự nhiên khác.
Khái niệm về phong cách bao gồm: tự nhiên, không tự nhiên, thực tế, siêu thực, pointilistic,
tương lai, đơn giản, ấn tượng, expressionistic, expansionistic, trừu tượng, hiện đại, tôn giáo, lãng
mạn, Victorian, nguyên thủy, Gothic, Elizabethan, Georgian, và nhiều, nhiều hơn nữa.
4) BỐ CỤC (COMPOSITION)
BỐ CỤC đề cập đến các khía cạnh hình ảnh tổng thể của sân khấu, chịu ảnh hưởng của ánh sáng.
Bố cục cũng liên hệ với DẠNG THỨC của một đối tượng. Một cảnh (scene) sân khấu có thể tràn
lan rộng rãi nhẹ nhàng, ngay cả ánh sáng, biểu lộ tất cả các đối tượng như nhau, hay nó có thể
được chiếu sáng bởi ánh sáng cao cục bộ chỉ trên các diễn viên - hay bất cứ cái gì nằm ở giữa. Vì
vậy, bố cục trong ánh sáng phải biểu lộ ra diễn viên, các đối tượng và khung cảnh tương ứng với
tầm quan trọng của họ, bằng cách xây dựng một hình ảnh trực quan.

Khái niệm bố cục bao gồm: cân bằng, không cân bằng, đối xứng, không đối xứng, đơn giản,
phức tạp, trừu tượng, hình học, phân mảnh, biểu tượng, năng động, tuyến tính, ngẫu nhiên, thơ,
ngang, dọc, chéo, và còn nhiều nữa.
5.) TÂM TRẠNG (MOOD) và KHƠNG KHÍ (ATMOSPHERE)
TÂM TRẠNG xem xét các phản ứng tâm lý cơ bản của khán giả. Nếu các yếu tố ánh sáng khác
đã được áp dụng, kết quả cho ra một tâm trạng cụ thể, được tạo ra bởi thiết kế ánh sáng. Ánh
sáng có thể làm cho một khán giả cảm thấy nhiều cảm xúc khác nhau. Cảm giác hạnh phúc, hài
lịng, buồn bã, sợ hãi, kích thích, (và thường là 'chán'), tất cả đều phụ thuộc vào một số lượng lớn
các yếu tố tâm lý và sinh lý. Điều này cũng đúng đối với khán giả, giải thích tâm trạng tự nhiên
hay khí quyển, như nắng, mây, sấm chớp, mưa, v.v. Các người thiết kế ánh sáng sân khấu nhanh
chóng nhận ra rằng: "Mọi thứ khơng phải là những gì nó đang có, mọi thứ là những gì chúng
xuất hiện. " (Tác giả).

1.05 – PHẨM CHẤT CỦA ÁNH SÁNG
1.) PHẨM CHẤT CỦA ÁNH SÁNG
Bất kỳ nghiên cứu nào về thiết kế ánh sáng phải bao gồm một sự hiểu biết tồn diện cả về các
tính chất VẬT CHẤT và TÂM LÝ của ánh sáng.
Kiến thức về hành vi và tính chất của ánh sáng có thể giúp giải thích về tầm nhìn và nhận thức
của con người. Người thiết kế ánh sáng cần quan tâm đặc biệt đến các tính chất của ánh sáng ảnh
hưởng đến q trình mắt / não và gây ra sự nhạy cảm và cảm xúc.
Một sự hiểu biết về các tính chất vật lý của ánh sáng cũng có thể giúp giải thích về quang học,
13


ống kính, lý thuyết màu sắc, ánh sáng, thiết bị chiếu và nhiều hơn nữa. Định luật và các ứng
dụng của khúc xạ, phản xạ và hấp thụ đang gặp phải và xử dụng hàng ngày bởi người thiết kế
ánh sáng sân khấu, và các khái niệm này phải được hiểu kỹ lưỡng cả về lý thuyết lẫn trong thực
tế.
Những phẩm chất cơ bản của ánh sáng là CƯỜNG ĐỘ, DẠNG THỨC, MÀU SẮC, ĐỊNH
HƯỚNG và DỊCH CHUYỂN. Đây là những công cụ thiết kế ánh sáng.

Hầu như tất cả các hình ảnh trực quan có thể được mơ tả, thảo luận và phân tích trong các điều
khoản này - cả về vật chất lẫn tâm lý. Đây là một lớp học thực hành tuyệt vời mà thường bắt đầu
với một phân tích về bức tranh sao chép từ “Old Masters”. Học viên học để thảo luận về những
phẩm chất của ánh sáng, xử dụng các thuật ngữ như cường độ, định hướng, độ sáng, màu sắc,
dạng thức, và phân phối. Những thuật ngữ này được dùng để thảo luận về các bức tranh chi tiết
từ một khu vực nhỏ này sang khu vực khác. Ngoài ra bức tranh như một toàn bộ thảo luận liên
quan đến tác động tổng thể của ánh sáng: phong cách, tâm trạng, bố cục, hài lòng, cảm xúc và
các phẩm chất khác. (Bài tập này đôi khi được gọi là bài tập "postcard" thường là nguồn gốc của
những bức tranh sao chép. Tác giả có khá nhiều trong bộ sưu tập của mình.)
Những nguời thiết kế ánh sáng có kinh nghiệm cũng thường dựa trên những phẩm chất của ánh
sáng để truyền đạt khái niệm ánh sáng của mình cho người khác. Thí dụ: “Sân khấu rực rỡ tắm
mình trong màu xanh sâu (deep blue). Dần dần, mặt trời màu hổ phách nhẹ nhàng hồng lên trên
đường chân trời, chiếu sáng nhẹ sân khấu trong một ánh sáng màu vàng nhạt. Ánh sáng có kết
cấu lạnh và khơng dứt khốt từ từ bắt đầu phát triển và leo lên khắp mọi góc của sân khấu. Ngay
sau đó, một sự ấm áp thấp từ bên phải sân khấu trở nên hiển nhiên, cân bằng (balanced) bằng
cách suy giảm và làm lạnh các ánh sáng chung khác. Khi màn đêm bng xuống, tồn bộ sân
khấu phát triển bóng mờ (shadow) và bao phủ với các đèn chiếu sắc nét. Màu xanh nền mờ nhạt
lại xuất hiện như một trục của ánh trăng bạc sắc nét ngang sân khấu.”

1.06 – CƯỜNG ĐỘ và ĐỘ SÁNG
1) CƯỜNG ĐỘ và ĐỘ SÁNG (INSTENSITY and BRIGHTNESS)
CƯỜNG ĐỘ điển hình đề cập đến "sức mạnh" của một nguồn ánh sáng. Cường độ của một
nguồn tồn tại độc lập với khoảng cách của nó. Cường độ được đo bằng candela (thuật ngữ cũ là
candlepower).
RỌI SÁNG (ILLUMINATION) đề cập đến lượng ánh sáng chiếu trên một bề mặt. Thụât ngữ cũ
của từ illuminace là "illumination". Rọi sáng được đo bằng một đồng hồ độ sáng (đã điều chỉnh
theo đường cong của mắt người) bằng footcandles hay lux (metric). Mức độ chiếu (rọi) sáng của
ánh sáng sân khấu có thể là 25-200 footcandles hay nhiều hơn. Mắt có một sức mạnh đáng kinh
ngạc về sự thích nghi và có thể thoải mái điều chỉnh mức độ chiếu sáng trong tự nhiên từ 1 đến
10.000 footcandles, hay nhiều hơn.

ĐỘ SÁNG đề cập đến cảm giác của thị giác gây ra bởi một nguồn ánh sáng khi nó tương tác với
14


một đối tượng và sau đó là mắt. Độ sáng phụ thuộc vào cường độ của nguồn, vào khoảng cách
tới đối tượng và trên các thuộc tính phản chiếu của đối tượng. Footlambert là đơn vị của độ sáng.
Thí dụ: Tại nhà hát, khi chúng ta thay đổi các thiết lập dimmer của một fixture ánh sáng, nghĩa là
chúng ta đang thay đổi cường độ đầu ra của nguồn. Điều này dẫn đến một thay đổi sự rọi sáng
(ánh sáng chiếu vào sân khấu) và cảm nhận của mắt là một sự thay đổi về độ sáng.
TẦM NHÌN phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không chỉ là cường độ của một nguồn hay độ sáng của
một đối tượng. Màu sắc, độ tương phản, khoảng cách, dịch chuyển, các điều kiện của mắt và hệ
thống thị giác, tất cả đều đóng một vai trò quan trọng đối với khả năng hiển thị tầm nhìn.
Người thiết kế ánh sáng sân khấu quan tâm về độ sáng của một đối tượng nhiều hơn so với
cường độ nguồn ánh sáng của nó. Họ đã sớm biết rằng đối tượng của độ sáng cao hơn thường
thu hút sự chú ý trên sân khấu. Ánh sáng thu hút! Ngược lại, bóng tối che giấu - nhưng cũng có
thể đưa khán giả có cảm giác buồn ngủ. Một trong các cơng việc chính của thiết kế ánh sáng là
thực sự giữ cho khán giả tỉnh táo. Điều này khơng phải là buồn cười tuy bạn có thể nghĩ như vậy,
nhưng khi bạn xem xét những gì chúng ta làm cho một khán giả phổ biến. Thông thường vào
cuối năm, sau khi ăn tối và uống vài ve, chúng ta cho khán giả ngồi trong ghế ngồi thật thoải mái
- và sau đó tắt tất cả các đèn đi. Các người thiết kế chiếu sáng phải xử dụng sức mạnh của ánh
sáng để giữ khán giả tỉnh táo và trỏ sự chú ý của họ lên sân khấu bằng cách cung cấp khả năng
hiển thị thích hợp, quan tâm và trọng tâm có chọn lọc.

1.07 – DẠNG THỨC (FORM) và PHÂN PHỐI (DISTRIBUTTON)
1) DẠNG THỨC - (và PHÂN PHỐI)
Ánh sáng cung cấp cho các đối tượng một cảm giác về DẠNG THỨC. Mắt có thể nhận ra kích
thước, hình dạng và vị trí của đối tượng. Thị lực hai mắt của chúng ta hỗ trợ quá trình này bằng
cách cung cấp thêm về chiều sâu.
"Bằng phương tiện kiểm sốt việc phân phối các mơ hình ánh sáng và tạo ra các thành phần sáng
và tối, nó có thể tạo ra cảm giác trên võng mạc sẽ được hiểu là dạng thức trong không gian". (Đề

cương của ánh sáng sân khấu, S. McCandless 1964).
Dạng thức áp dụng với ánh sáng khá phức tạp. Đó là tất cả mọi thứ chuyển động, cường độ, màu
sắc, và không định hướng. Tuy nhiên, dạng thức tạo ra và chịu ảnh hưởng bởi những phẩm chất
khác của ánh sáng. Dạng thức đã làm chuyện này với sự PHÂN PHỐI của ánh sáng hay ánh sáng
quét vào một bề mặt và để lộ ra một đối tượng. Chúng ta thường bàn luận về dạng thức trong
giới hạn của sự rõ ràng và công nhận hình dạng của nó.
Dạng thức và phân phối có thể được thảo luận ở hai cấp độ.
Trước tiên, chúng ta có thể thảo luận về dạng thức áp dụng cho các thiết lập sân khấu đối với vấn
15


đề đối tượng xuất hiện như thế nào. Một sân khấu có thể được chiếu sáng đồng đều, nhẹ nhàng
và dứt khốt từ một góc độ thấp phía trước. Cách khác, trên cùng một sân khấu, có thể có những
đốm sáng khơng đồng đều, nối với các các khoang trịn từ một góc độ cao trên đầu.
Chúng ta cũng có thể thảo luận về dạng thức áp dụng cho ánh sáng được tạo ra bởi một thiết bị
(fixture) ánh sáng sân khấu. (Thí dụ: "Thiết bị cho ra một chùm tia mạnh, hình vng với một
góc phân tán rất rộng".)
Dạng thức trở nên phức tạp hơn nhiều khi bạn xem xét rằng một máy chiếu hình có thể được xử
dụng như một thiết bị ánh sáng sân khấu. Kết quả của cơng nghệ này, ánh sáng sản xuất từ
“fixture” có thể hồn thành bất kỳ dạng thức, hình dạng hay phân phối nào.
Như trong tự nhiên, nguồn ánh sáng sân khấu có thể cho ra hay khuếch tán ánh sáng shadowless
(khơng bóng) mềm hay shadow (bóng) cứng, hay bất cứ loại gì ở giữa. Các cạnh của một chùm
ánh sáng cũng có thể nằm trong một giải: cạnh mềm gần như vơ hình đến cạnh cứng mạnh xác
định rõ. Một chùm ánh sáng cũng có thể phân phối khơng đồng đều, bị bể ra, như trong trường
hợp của một Gobo hay mơ hình của máy chiếu.

1.08 – MÀU SẮC (COLOR)
1.) MÀU SẮC
Tất cả ánh sáng đều có màu sắc. Ánh sáng trắng đơn giản chỉ là một hỗn hợp của tất cả các bước
sóng có thể nhìn thấy (màu sắc). Mắt người nhạy cảm nhất với ánh sáng ở phần màu vàng =>

xanh lục của quang phổ thị giác (khoảng 550 nanomet), hơn là màu đỏ hay màu xanh ở cuối của
quang phổ.
Màu sắc thường được thảo luận về GIÁ TRỊ, SẮC THÁI và SĂC ĐỘ (VALUE, HUE,
CHROMA)
Sắc thái là việc phân loại màu mà mắt nhìn thấy như đỏ, xanh lục, hổ phách, ... Giá trị cho thấy
một màu sắc sáng hay tối. Sắc độ cho thấy sự tinh khiết hay độ bão hòa của màu sắc.
Những màu sắc NGUYÊN THỦY (PRIMARY) của ánh sáng là ĐỎ, LỤC và XANH (RED,
GREEN, BLUE). Ba màu sắc này có thể kết hợp với nhau để cho ra bất kỳ màu nào khác, bao
gồm cả màu trắng. (Các màu nguyên thủy của các sắc tố là đỏ, vàng và xanh dương).
Màu sắc THỨ CẤP (SECONDARY) của ánh sáng được hình thành khi kết hợp 2 màu cơ bản. 3
màu thứ cấp là màu HỒNG TÍM (MAGENTA) (màu đỏ và màu xanh), VÀNG (YELLOW)
(màu đỏ và màu xanh lục) và XANH NGỌC (CYAN) (xanh dương và xanh lục).
Màu BỔ SUNG (COMPLEMENTARY) là sự kết hợp bất kỳ của một màu chính và một màu thứ
cấp, pha trộn với nhau làm cho ánh sáng trắng. Thí dụ về các màu bổ sung: Màu HỒNG TÍM &
16


LỤC, màu VÀNG & XANH, và màu XANH NGỌC & ĐỎ).
Khi ánh sáng trắng truyền qua một bộ lọc màu chỉ có các bước sóng tương ứng với màu đó được
truyền đi. Tất cả các bước sóng khác bị hấp thụ lại. Điều này được gọi là lọc trừ (sutractive).
Khi 2 hay nhiều chùm ánh sáng màu kết hợp để chiếu sáng trên một bề mặt, nó kết hợp với nhau
thông qua sự pha trộn phụ gia (additive).
Những thiết bị ánh sáng sân khấu tạo ra ánh sáng màu bằng cách xử dụng các bộ lọc bằng nhựa
(plastic) chịu nhiệt độ cao. Có hơn 100 màu sắc khác nhau có sẵn từ nhiều nhà sản xuất. Những
bộ lọc này “mang đi (pass)” hay “TRUYỂN (TRANSMIT)” màu sắc của riêng mình và “ngăn
chận (block)” hay “hấp thụ (absorb)” tất cả những màu khác.
Đôi khi, cũng xử dụng bộ lọc màu bằng thủy tinh. Bộ lọc thủy tinh thơng thường nói chung bị
giới hạn trong một phạm vi của màu sắc, tuy nhiên nó rất hữu ích cho các ứng dụng u cầu chịu
nhiệt độ cao hay kéo dài độ bền của bộ lọc. Một thế hệ mới của các bộ lọc thủy tinh “lưỡng sắc
(dichroic)” đôi khi cũng được xử dụng cho các ứng dụng ánh sáng giải trí, nơi rất cần thiết màu

sắc sôi động sẽ không bao giờ bị phai mờ theo thời gian. Bộ lọc lưỡng sắc được thực hiện với
cơng nghệ màng mỏng, có thể điều chỉnh đuợc bước sóng nhất định. Các bộ lọc này truyền đi
một màu sắc cụ thể và phản chiếu lại tất cả những màu sắc khác. (Không giống như các bộ lọc
thông thường, hấp thụ nhưng không phản chiếu lại các bước sóng khơng mong muốn.)

1,09 – ĐỊNH HƯỚNG VÀ DỊCH CHUYỂN (DIRECTION and MOVEMENT)
1.) ĐỊNH HƯỚNG
Hướng của ánh sáng là một trong những thuộc tính quan trọng nhất trong thiết kế ánh sáng sân
khấu. Tất cả ánh sáng đều được định hướng. Một ngọn nến trần tỏa ánh sáng ra tất cả các hướng.
Một đèn spotlight sân khấu tỏa ánh sáng theo một hướng rất cụ thể. Trong tự nhiên, hầu hết ánh
sáng đến đến từ bầu trời, từ trên cao. Ánh sáng trong nhà hát cũng thường có đúng như vị trí ánh
sáng này nhất là trên sân khấu hay khán giả.
Ánh sáng thấp đằng trước thường được coi là “phẳng (flat)”. Ánh sáng góc độ rất cao có thể tạo
ra những khoảng tối trên khuôn mặt của diễn viên. Ánh sáng từ nhiều hướng có thể thêm độ “tạo
hình (plasticity)” và kích cỡ cho một diễn viên. Ánh sáng từ "đường viền ban cơng” có thể thêm
bóng trên khn mặt của diễn viên, tuy nhiên vị trí này cũng có thể tạo ra bóng trên phơng nền
phía sau sân khấu hay phơng cảnh. Góc độ ánh sáng rất thấp luôn luôn được kết hợp với ánh
sáng nhân tạo và thường chỉ được xử dụng cho ánh sáng kỹ xảo. Đèn chân (footlight), đã phổ
biến ở nhiều nhà hát, ngày nay hiếm khi được xử dụng. Rõ ràng là khi thiết kế ánh sáng phải
chọn hướng ánh sáng rất cẩn thận.
Trong nhà hát, cũng giống như trong tự nhiên, “sàn (floor)” phản chiếu một số ánh sáng từ bên
dưới, thường để tạo ra bóng. Chất lượng màu sắc và phản xạ của sàn sân khấu rất quan trọng và
17


vì lý do này nó ln ln được lựa chọn với sự hỗ trợ từ nguời thiết kế ánh sáng.
Nhiều điều thú vị, đặc tính của ĐỊNH HƯỚNG khơng thực sự xem xét bởi McCandless là một
trong những “phẩm chất của ánh sáng" trong “Đề cương của ánh sáng sân khấu, 1964” của mình.
Ơng đã thảo luận về (một thời gian ngắn) tầm quan trọng của hướng để tạo hình các đối tượng và
vị trí thực tế của nguồn sáng.


2.) DỊCH CHUYỂN
Dịch chuyển trong ánh sáng thường được thực hiện, có nghĩa là bất kỳ sự thay đổi theo CƯỜNG
ĐỘ, DẠNG THỨC, MÀU SẮC hay ĐỊNH HƯỚNG. Thay đổi năng động trong tất cả những
phẩm chất này diễn ra trong tự nhiên một cách thường xuyên. Dịch chuyển cũng có thể bao gồm
các chuyển động vật lý của một nguồn, chẳng hạn như đèn tìm kiếm, đèn hiệu cảnh sát, bánh xe
màu, hiệu ứng quang học đặc biệt, máy chiếu phim, trái châu (mirror ball).v.v.
Dịch chuyển có thể rất nhanh hay huyền ảo, chậm và khó nhận ra. Như vậy có thể là trường hợp
của một nguời thiết kế tạo ra ánh sáng mặt trời thay đổi chậm từ một bên của sân khấu sang bên
kia trong suốt thời gian diễn. Khán giả không thể nhận thấy sự thay đổi, tuy nhiên họ có thể
“cảm thấy” kết quả của sự thay đổi về mặt cảm xúc. Một ánh sáng bình minh hay hồng hơn
cũng có thể thay đổi chậm và sự dịch chuyển của ánh sáng khó nhận thấy và khán giả chỉ có thể
cảm nhận được kết quả và trên thực tế đã khơng nhìn thấy nó.
Cho đến gần đây, dịch chuyển đã có thể tận dụng ít nhất là chất lượng của ánh sáng, do nhà thiết
kế ánh sáng sân khấu. Tất cả chuyện này thay đổi từ những năm 1980 khi các thiết bị ánh sáng tự
động được sản xuất. Các thiết bị tự động hiện đại có thể di chuyển hướng vật lý, chùm tia sáng
của nó từ một vị trí của sân khấu này sang vị trí khác. Ngồi ra, thiết bị tự động có thể di chuyển
từ một màu hay bánh xe kỹ xảo sang những cái khác, ở bất kỳ tốc độ nào. Những thay đổi và sự
kết hợp về cường độ, dạng thức, màu sắc, phân phối và dịch chuyển là vô tận.

1.10 - NGÔN NGỮ của ÁNH SÁNG
1.) GIỚI THIỆU ÁNH SÁNG MÀ KHƠNG CĨ ÁNH SÁNG
Người thiết kế ánh sáng phải hình dung ra được các hình ảnh từ đâu đến. Họ phải có khả năng
nhìn thấy được ánh sáng cuối cùng trong tâm trí của mình, từng cảnh (scene) một, rất lâu trước
khi sản xuất ra tác phẩm. Thiết kế ánh sáng chỉ là tiến trình “đảo ngược cơng nghệ” của hình ảnh
trí tuệ này và đưa nó vào thực tế.
Các nhà thiết kế ánh sáng phải học để thảo luận và biểu thị hình ảnh trực quan với các từ ngữ
(word), biểu hiện (render) và tài liệu tham khảo để hiểu về nghệ thuật, lịch sử, thời đại và phong
cách. Đây là một phần quan trọng của tiến trình thiết kế và truyền thơng. Khi thiết kế ánh sáng,
18



thường là một quá trình hợp tác là bắt buộc các nhà thiết kế phải tìm hiểu để giải thích đề xuất
thiết kế của mình cho người khác để bảo đảm rằng hình ảnh của mình là thích hợp và thực hiện
đúng cách.
Điều đó rất quan trọng để học cách xử dụng các thuật ngữ về TẦM NHÌN, TỰ NHIÊN, THÀNH
PHẦN, TÂM TRẠNG, ĐỘ SÁNG, DẠNG THỨC, MÀU SẮC, DỊCH CHUYỂN, PHÂN PHỐI
và ĐỊNH HƯỚNG. Các thuật ngữ và khái niệm này dưới dạng thức từ vựng cơ bản cho bất kỳ
nguời thiết kế ánh sáng nào và họ phải được làm chủ được nó đầy đủ và hiểu nó tường tận.
Chất lượng ánh sáng như phát quang (luminescent), trắng đục (opalescent), trong mờ
(translucent), trong suốt (transparent), lân quang (phosphorescent), huỳnh quang (fluorescent),
hay chẳng hạn như quang phổ (spectral), khúc xạ (refractive), phản chiếu (reflective), mờ xỉn
(matter), và khuếch tán (diffuse) cũng hình thành một phần của sự hiểu biết và từ vựng của bất
kỳ nguời thiết kế ánh sáng nào.

2) CÁC CÔNG CỤ THÔNG TIN KHÁC
Một bộ sưu tập các “bức tranh” sao chép lại có thể là một công cụ thiết kế, công cụ giảng dạy và
công cụ truyền thông tuyệt vời,. Nhiều tác phẩm “ Bậc thầy - Old Masters” với sự chú ý đến từng
chi tiết về ánh sáng đáng kinh ngạc. Một số thí dụ đáng chú ý bao gồm: Claude Lorraine, Claude
Monet, Edouard Manet, Johannes Vermeer, Jan Steen, Leonardo de Vinci, Edgar Degas, Georges
de La Tour, Rembrandt, Renoir và những người khác. Xử dụng tác phẩm nghệ thuật với một quá
trình nghiên cứu và nói với nó là có thể xác định dễ dàng và thảo luận một số lượng lớn các
phẩm chất ánh sáng khác nhau: phong cách, tâm trạng và cảm xúc.
Thiết kế ánh sáng cũng có thể sản xuất phác thảo hay biểu hiện ra, hay xử dụng các chương trình
CAD (máy tính hỗ trợ thiết kế) để hỗ trợ trong q trình thảo luận về ánh sáng. Mặc dù cịn xa
mới hồn hảo, nhiều chương trình CAD cung cấp hình ảnh hình ảnh thực tế với ánh sáng rất
chính xác và cụ thể. Là một trợ giúp cho việc thiết kế, những cơng cụ này có thể chứng minh là
rất hữu ích, tuy nhiên tất cả đều dựa trên thiết kế đầu tiên để có một vốn từ vựng về các mục tiêu
và những phẩm chất của ánh sáng.


19


PHẦN 2/7 - Phương pháp thiết kế tổng quát
2.01 Phương pháp thiết kế tổng quát
2.02 Phương pháp nguồn đơn
2.03 Phương pháp nguồn điểm
2.04 Phương pháp đa nguồn
2.05 Phương pháp McCandless
2.06 Ánh sáng khu vực
2.07 Hòa hợp & Pha trộn
2,08 Ánh sáng bối cảnh
2.09 Đặc điểm và đặc biệt
2.10 Phương pháp bí mật

2.01 - PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ TỔNG QUÁT
1.) GIỚI THIỆU VỀ PHƯƠNG PHÁP ÁNH SÁNG
Có hay khơng chỉ có một phương pháp thiết kế cho ánh sáng sân khấu - có rất nhiều. Hay nói
một cách khác, quy tắc đầu tiên của ánh sáng sân khấu là ... không có gì bất kỳ. Miễn là các mục
tiêu đáp ứng được việc thiết kế và những khái niệm ánh sáng, thiết kế có thể xử dụng bất kỳ kỹ
thuật THIẾT KẾ thích hợp nào mà bạn muốn. Tuy nhiên, người thiết kế ánh sáng chuyên nghiệp
phải làm sao để truyền đạt thiết kế của mình cho người khác, thơng qua việc xử dụng các tiêu
chuẩn cơng ước.
Mỗi chương trình có nhu cầu ánh sáng rất khác nhau. Ánh sáng cho một chương trình múa của
'Annie' với Martha Graham đều có phong cách và các yêu cầu hoàn toàn khác nhau. Học viên
ánh sáng khơng phải tìm kiếm một “hệ thống” hay “phương pháp” để thực hiện cho tất cả các
nhu cầu ánh sáng. Khơng chỉ có một. Thay vào đó, người thiết kế ánh sáng phải hiểu được nhu
cầu của từng ngành, nghề sản xuất cụ thể, cẩn thận xác định và sau đó thực hiện việc thiết kế ánh
sáng cho phù hợp. Chỉ trong cách tiếp cận này, các thiết kế ánh sáng có hiệu quả nhất phù hợp
với nhu cầu chính xác của chương trình. Khơng bao giờ có hai chương trình nào giống nhau và

cũng khơng bao giờ có hai thiết kế ánh sáng nào thực hiện như nhau.

20


2). TẦM NHÌN & TÂM TRẠNG
Nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất của ánh sáng sân khấu là vẫn là TẦM NHÌN. Điều này
có lẽ cũng đúng cho các người thiết kế ánh sáng trước đây, xử dụng nến, đèn dầu, ánh sáng khí
đốt và điện hồ quang.
Thơng thường, các người thiết kế chiếu sáng diễn viên đầu tiên cho tầm nhìn và sau đó cho tâm
trạng và thứ ba là khơng khí. Đơi khi tâm trạng có thể chế ngự khả năng của tầm nhìn (ít nhất là
tạm thời). Hiện nay nhiều người thiết kế cho buổi hòa nhạc có thể đầu tiên chiếu sáng sân khấu
cho tâm trạng và tác động và sau đó cho tầm nhìn. Về mặt này, có nhiều loại ánh sáng tổng quát
có thể bao gồm: màu sắc mạnh, máy chiếu, hay các kỹ xảo chuyển động. Xử dụng followspot
hay các thiết bị ánh sáng tự động, người thiết kế có thể “cắt” thông qua ánh sáng tâm trạng và
cho vào bộ điều khiển ánh sáng, chính xác cho người biểu diễn, bất cứ vị trí nào trên sân khấu.

3.) TIẾN TRÌNH CỦA PHƯƠNG PHÁP VÀ TRANG THIẾT BỊ
Hầu hết các phương pháp ánh sáng đã tiến hóa từ nguồn ánh sáng và công nghệ thiết bị ánh
sáng.Thiết bị Spotlight hiện nay cung cấp cho người thiết kế chùm tia hẹp khoảng 10-40 độ.
Điều này không phải luôn luôn như vậy. Gần 100 năm trước đây, hầu hết ánh sáng bao gồm duy
nhất của ánh sáng tỏa (flood), spot hẹp như vậy đã không tồn tại. Với sự phát triển của spotlime
(ánh sáng vơi, hồ quang điện, sau đó đèn đốt tim), phương pháp thiết kế ánh sáng đã thay đổi.
Bây giờ nó đã có thể cho ra ánh sáng chính xác địa điểm và định vị, tại bất cứ nơi nào trên sân
khấu. Khi thiết bị tiếp tục phát triển, phương pháp thiết kế ánh sáng cũng vậy. Với thiết bị tự
động thế hệ mới, ánh sáng mới khơng bao giờ nhìn thấy trước đây - hiện nay thì có thể.

2.02 - PHƯƠNG PHÁP NGUỒN ĐƠN
1.) PHƯƠNG PHÁP NGUỒN ĐƠN
Một người thiết kế có thể muốn có ánh sáng trên tồn bộ sânkhấu với một nguồn ánh sáng duy

nhất như ánh sáng mặt trời hay mặt trăng chiếu sáng trái đất, gây ra sự thúc đẩy mạnh mẽ việc
định hướng ánh sáng, vì chỉ có một bóng duy nhất. Điều này là hiếm trên thực tế tuy nhiên lại bất
khả thi đối với một số lý do.
Trước tiên, có rất ít thiết bị ánh sáng cơng suất cao có khả năng chiếu sáng tồn bộ sân khấu.
Thơng thường một thiết bị 10.000 watt hay hơn sẽ được yêu cầu cung cấp ánh sáng đến một khu
vực nhỏ của sân khấu.
Thứ hai, một thiết bị lớn duy nhất sẽ khơng kiểm sốt hồn tồn được và sẽ khơng chỉ chiếu sáng
khu vực diễn xuất, nhưng còn là ở chung quanh sân khấu, hai cánh gà và có lẽ đến cả một số
21


khán giả.
Thứ ba, nếu nguồn (điểm) ánh sáng thật sự duy nhất để 'thực hiện được', nguồn phải có một
khoảng cách rất lớn. Điều này hiếm khi có thể có trong hầu hết các nhà hát thông thường.
Trong tự nhiên, điểm nguồn của ánh sáng có một khoảng cách để chiếu xuống rất lớn. Giả sử ánh
nắng mặt trời là một thiết bị ánh sáng và di chuyển cho là 25 feet đi. Ánh sáng rọi xuống ra sao
không đáng chú ý. Bạn hầu như không thể di chuyển ra từ nguồn ở tất cả các chỗ khác. Bây giờ
tưởng tượng thiết bị ánh sáng sân khấu duy nhất, cho là 100 feet từ sân khấu. Một diễn viên có
thể di chuyển ngắn lại 25 ft từ nguồn. Họ đã di chuyển một khoảng cách lớn hơn nhiều trong mối
quan hệ giữa nguồn và ánh sáng rọi xuống sẽ rất đáng chú ý. Điều này là do tính chất định luật
bình phương nghịch đảo của ánh sáng. Khoảng cách xa hơn từ nguồn, mức độ ánh sáng càng
giảm nhanh chóng. Nói chung là khơng thể tìm thấy vị trí lắp đặt thích hợp trong hầu hết các nhà
hát cho nguồn ánh sáng duy nhất và kết quả là, kỹ thuật nhiều thiết bị thường được xử dụng để
thay thế.
Ngoài ra cịn có một khái niệm về ánh sáng quan trọng liên quan từ kích cỡ của một nguồn đến
độ sắc nét bóng hậu của nó. Nói chung, nguồn nhỏ hơn, bóng sắc hơn. Ngược lại, nguồn lớn
hơn, bóng mờ hơn. Thí dụ, tại cùng một khoảng cách một thiết bị ánh sáng với một ống kính có
đường kính 6 inch sẽ tạo ra một cái bóng sắc nét hơn so với một thiết bị với nguồn đường kính
36 inch (chẳng hạn như: đèn scoop, hộp đèn hay hộp đèn flood). Cũng như vậy, khoảng cách đến
nguồn được thực hiện để tăng độ sắc của bóng hậu.

Mặc dù tồn bộ ánh sáng cho chương trình sân khấu với một nguồn duy nhất của ánh sáng
thường không thực tế, ánh sáng nguồn đơn có cách dùng của nó. Thường thì nó có thể xử dụng
ánh sáng nguồn đơn rất ấn tượng, cách điệu hay "hiệu ứng” ánh sáng khá cần thiết cho một cảnh
cụ thể. Có thể ánh sáng cho tồn bộ khung cảnh chỉ từ một nguồn đơn như ánh sáng từ một đèn
bàn hay từ một cánh cửa tủ lạnh mở, tuy nhiên điều quan trọng ở đây là cần lưu ý rằng có thể dễ
dàng làm các khán giả thấy mệt mỏi.

2.03 - PHƯƠNG PHÁP NGUỒN ĐIỂM (POINT SOURCE)
1.) ÀNH SÁNG NGUỒN ĐIỂM
Hầu hết các thiết bị thực hiện ánh sáng sân khấu là nguồn “điểm”. Trong khía cạnh này, nó tạo ra
một bóng duy nhất và nó cung cấp một số lượng ánh sáng theo định luật bình phương nghịch
đảo. Thí dụ, một thiết bị ánh sáng cách 50 feet có thể cung cấp 100 footcandles. Nếu khoảng
cách tăng gấp đôi lên 100 feet, chỉ cung cấp được 25 footcandles (1 / 4).
Ánh sáng nguồn điểm là dạng thức gốc cơ bản của tất cả các thiết kế ánh sáng sân khấu. Các
thành phần cơ bản của tất cả các thiết kế ánh sáng bao gồm ánh sáng MẶT TIỀN (FRONT),
MẶT HẬU (BACK), DƯỚI (DOWN), XÉO (DIAONAL), CẠNH (SIDE) và TRÊN (UP) (và tất
cả mọi thứ gì ở giữa). những người thiết kế đôi khi sẽ xử dụng các nguồn đơn cơ bản một mình,
22


nhưng họ thường sẽ kết hợp lại. Khơng có gì là ấn tượng hơn so với một mẩu múa hiện đại, ánh
sáng chỉ với một series đèn chiếu sáng cô lập chiếu xuống hay một đèn hậu chiếu xéo, đối đầu là
ánh sáng đèn cyclorama. Khơng gì mệt mỏi và nhàm chán hơn là xem một vở kịch tình cảm
được chiếu sáng với một series đèn tight pool (nhiều đèn chiếu chan hòa).
Các học viên thiết kế phải nhận thức để biết được các thuật ngữ ánh sáng MẶT TIỀN (FRONT),
MẶT HẬU (BACK), DƯỚI (DOWN), XÉO (DIAONAL), CẠNH (SIDE) và TRÊN (UP) thật
tốt. Họ nên thử nghiệm trong một nhà hát thực tế với các loại thiết bị khác nhau được lắp đặt vào
các vị trí này. Họ nên cố gắng thử nhiều góc độ khác nhau và chiếu sáng nhiều loại phơng nền,
cảnh quan và thậm chí các diễn viên khác nhau. Trường hợp làm chủ được các nguồn đơn cơ
bản, nên kết hợp hai hay nhiều góc độ ánh sáng trên một khu vực duy nhất. Đây là một bài tập

rất quan trọng và các dạng thức cơ sở cho tất cả các thiết kế ánh sáng.
Ngoài ra cịn có một số sách về ánh sáng có chứa nghiên cứu hình ảnh ánh sáng của các nguồn
cơ bản (tiền, hậu, cạnh, v.v) ánh sáng trên một ma-nơ-canh hay một diễn viên. Một trong các
sách nghiên cứu tốt là Jean Rosenthal trong cuốn “The Magic of Light". Những hình ảnh cho
thấy một số thiết bị ánh sáng được gắn tại các vị trí chiếu sáng điển hình của nhà hát. Nghiên cứu
này có chứa các bức ảnh tuyệt vời, biểu hiện (rendering) và bản vẽ của nhiều thí dụ khác nhau.
Ngồi ra cịn có một số sơ đồ ánh sáng bao gồm các loại hình và cách bố trí các thiết bị đã xử
dụng.

2.04 - PHƯƠNG PHÁP ĐA NGUỒN
1.) ÁNH SÁNG ĐA THIẾT BỊ (MULTI-FIXTURE)
Ngày nay, hầu hết các thiết kế sân khấu và ánh sáng giải trí xử dụng phương pháp ánh sáng
nhiều thiết bị hầu như trái ngược với phương pháp nguồn đơn hay điểm. Điều này cho phép
người thiết kế có tồn quyền kiểm sốt ánh sáng, ở bất cứ nơi nào trên sân khấu, liên quan đến
cường độ, định hướng, phân phối, màu sắc và dịch chuyển.
Phương pháp đa thiết bị xử dụng nhiều loại loại thiết bị và rất nhiều các kỹ thuật ánh sáng. Ngày
nay, hầu hết các thiết bị đều dùng bóng đèn volfram-halogen “có thể dim được (dimmable)” làm
nguồn sáng. Sau đó, loại bóng mới H.I.D, (high instensity discharge) tìm đường len lỏi vào các
ứng dụng ánh sáng sân khấu. Hiện nay, nó rất phổ biến để tích hợp cả thiết bị ánh sáng thông
thường với thế hệ mới, kết quả cho ra thiết kế ánh sáng tinh tế và đơn giản, khơng bao giờ có
trước đây.
Điều này khơng phải là bất thường đối với một nhà hát, phòng hòa nhạc hiện đại, xử dụng đến
400-500 thiết bị ánh sáng cho một chương trình duy nhất. Lý tưởng nhất là mỗi thiết bị ánh sáng
sẽ có điều khiển dimmer riêng cho nó. Trong những phương tiện cũ với một số lượng dimmer
giới hạn, đơi khi nó cần thiết để có thể “cắm-plug” hay “vá-patch” một số thiết bị vào một
dimmer.
23


Nhiều thiết kế ánh sáng thường sẽ cố gắng chỉ xử dụng thiết bị cụ thể cho những cảnh (scene) cụ

thể. Một số người thiết kế có thể thiết kế một “sơ đồ tổng quát” nhằm mục đích để làm việc với
tất cả các scene tốt như nhau. Tuy nhiên các người thiết kế khác sẽ xử dụng một sự kết hợp của
thiết bị cho “tổng quát” và “scene cụ thể”. Cách tiếp cận chính xác thường sẽ được quyết định
bởi các thiết bị có sẵn, vị trí gắn, thời gian và ngân sách.
Thông thường người thiết kế đã chuẩn bị để treo một số thiết bị cần thiết cho thiết kế của họ, và
thêm một vài phụ tùng. Người thiết kế khác, không thực sự chắc chắn về những gì đã làm, có thể
xử dụng cách tiếp cận “giấu đuôi của bạn – cover your tail” và treo một thiết bị trong từng vị trí
có thể gắn được mà nhà hát sẽ cho phép. (Chỉ trong trường hợp này) Những thiết kế này có thể
làm cho thiết kế 400 thiết bị giống như một thiết kế cố định 120 thiết bị, một cách dễ dàng.
Thiết bị ánh sáng thông thường luôn luôn treo trên 18 inch (feet?-ND) (hay hơn). Ống tube dài
30 ft điển hình sẽ gắn được tổng cộng 20 thiết bị.

2.05 - PHƯƠNG PHÁP MCCANDLESS
1.) PHƯƠNG PHÁP MCCANDLESS
Mặc dù có thể khơng có “một” phương pháp thiết kế ánh sáng nào, Tuy nhiên, lại có một cách
tiếp cận có hệ thống đã được đề xuất bởi Stanley McCandless (Đại học Yale School of Drama
1925-1964). Đây là cách tiếp cận làm nền tảng cho thiết kế ánh sáng sân khấu hiện đại hiện nay.
2.) ÁNH SÁNG KHU VỰC DIỄN XUẤT
McCandless đề xuất rằng việc thiết lập sân khấu được chia thành một số KHU VỰC DIỄN
XUẤT, mỗi khu vực hai (2) thiết bị. Thiết bị ánh sáng được bố trí trên cao như đèn chiếu sáng
mặt tiền treo góc khoảng 90 độ đến khu vực. Thêm các thiết bị được bố trí ở khoảng 45 độ theo
chiều ngang. Tiếp theo McCandless đề nghị mỗi đèn có một bộ lọc màu khác nhau, một 'ấmwarm' từ một bên, một 'lạnh-cool' từ bên kia. Mỗi khu vực cũng được (lý tưởng) điều khiển bằng
dimmer riêng.
Một sân khấu “mở-open” sẽ được chia thành 9 khu vực (nhiều hơn hay ít hơn tùy theo u cầu),
có đường kính 8-12 ft. Khu vực có thể được sắp xếp, 3 sân khấu thấp (downstage), 3 sân khấu
giữa (centerstage) và 3 sân khấu cao (upstage).
Hai thiết bị trang bị TẦM NHÌN cho diễn viên. Các điều khiển dimmer cho phép các khu vực sẽ
tối hay sáng khi cần thiết, cung cấp TIÊU ĐIỂM CHỌN LỌC, BỐ CỤC và TÂM TRẠNG cho
bức tranh toàn thể sân khấu. Vị trí của hai thiết bị, cho phép một diễn viên “chơi-play” dù bên
phải hay bên trái của mình, và vẫn năm trong trong một ánh sáng “KHĨA-KEY”. Góc giữa

những thiết bị cung cấp tính tạo hình tuyệt vời và hình thành đến khn mặt người. Màu sắc đối
lập nhau ấm áp và lạnh giúp đỡ trong việc cung cấp sự quan tâm, độ tương phản và ánh sáng tự
24


nhiên.

3.) PHA TRỘN (BLENDING) và HÒA HỢP (TONING)
Ánh sáng cho các diễn viên đầu tiên cho khả năng hiển thị, sau đó ánh sáng mơi trường chung
quanh riêng cho tâm trạng và khơng khí, là cách tiếp cận của McCandless. Đơi khi cần thiết
khơng có ánh sáng bổ sung, để "bung ra-flare” từ các khu vực diễn xuất và chiếu sáng các bức
tường của một thiết lập. Cách khác, cảnh quan có thể cần ánh sáng WASH hay FLOOD để giúp
tích hợp và pha trộn nó thành hình ảnh ánh sáng tồn bộ.

4.) HÌNH NỀN (BACKGROUND) và PHƠNG NỀN (BACKDROP)
Hình nền, vải nền, phông nền và màn vây (cycloramas), tất cả nên được chiếu sáng một cách
riêng biệt từ diễn viên và cảnh quan.
5.) NHẤN MẠNH và ĐẶC BIỆT
McCandless đề nghị thêm những thiết bị (nếu cần thiết);
(A) để cung cấp khu vực “diễn xuất đặc biệt" (cửa ra vào, đồ gỗ nội thất, v.v).
(B) để cung cấp động lực (ánh sáng mặt trời, ánh trăng, ánh lửa).
(C) để cung cấp máy chiếu hay các hiệu ứng.

2.06 - ÁNH SÁNG KHU VỰC
1.) ÁNH SÁNG KHU VỰC
Thông thường, tất cả các ánh sáng sân khấu đã thực hiện với ánh sáng cho một nghệ sĩ biểu diễn
(vũ công, diễn viên, nhạc cơng, v.v). Người biểu diễn có khuynh hướng làm việc trong những
KHU VỰC. Đây là một điều tốt, bởi vì hầu hết các ánh sáng đèn spotlight sân khấu có khuynh
hướng cung cấp ánh sáng các khu vực đã xác định hay loang tỏa ra.
Thông thường, các yếu tố đầu tiên của thiết kế ánh sáng, là ÁNH SÁNG KHU VỰC DIỄN

XUẤT (ACTING). Đôi khi được gọi là ánh sáng “chìa khóa-key”, ánh sáng này cung cấp khả
năng hiển thị cho người biểu diễn trên diện tích theo từng khu vực. Diện tích ánh sáng khi xử
dụng với bộ điều khiển dimmer, cũng cung cấp một phương pháp có giá trị để cô lập hay nhấn
mạnh một nghệ sĩ biểu diễn trong bất kỳ khu vực nào trên sân khấu. Ngồi ra, thiết kế khu vực
ánh sáng cũng có thể đóng góp vào bầu khơng khí, tổng thể, tâm trạng và bố cục của hình ảnh
25


×