1
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
XD
SX
: Xây dựng
: Sản xuất
TSCĐ
: Tài sản cố định
TSDH
: Tài sản dài hạn
Vốn CSH: Vốn chủ sở hữu
VCĐ : Vốn cố định
VLĐ : Vốn lưu động
ROA : Tỉ suất lợi nhuận trên tài sản
ROE : Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
DDC : Công ty Cổ phần xây dựng công nghiệp
SC5 : Công ty Cổ phần xây dựng Số 5
HBC : Công ty Cổ phần xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hịa Bình
VCG : Tổng Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam
SD3 : Công ty cổ phần Sông Đà 3
SD9 : Công ty Cổ phần Sông Đà 9
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
2
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
A/ DANH MỤC BẢNG
B/ DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một quy luật khắc nghiệt nhất của thị trường đó là cạnh tranh, mà đấu thầu là
một hình thức tổ chức cạnh tranh. Theo đó bất kì một doanh nghiệp nào tham gia
vào lĩnh vực xây dựng nếu không tiếp cận kịp với guồng quay của nó thì tất yếu sẽ
bị đánh bật ra khỏi thị trường xây dựng.
Thị trường xây dựng ở Việt Nam, quy chế đấu thầu ngày càng hoàn thiện,
điều này buộc các doanh nghiệp xây dựng muốn tồn tại hay đồng nghĩa với việc
giành thắng lợi trong đấu thầu, thì phải tự hồn thiện mình. Cụ thể các doanh
nghiệp xây dựng phải đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản: tiêu chuẩn kỹ thuật, chất
lượng; tiêu chuẩn về kinh nghiệm; tiêu chuẩn về tài chính, giá cả; tiêu chuẩn về tiến
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
3
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
độ thi cơng. Bởi vậy, nhà thầu nào có khả năng bảo đảm tốt hơn các tiêu chuẩn trên,
khả năng trúng thầu của nhà thầu đó sẽ cao hơn các nhà thầu khác.
Ngành xây lắp là một ngành có tính chất đặc thù nên hoạt động đấu thầu
trong lĩnh vực này có tính cạnh tranh giữa các nhà thầu rất cao. Thực tế cho thấy để
đứng vững và chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này, bất kỳ một Công ty xây dựng
nào cũng phải vận dụng hết tất cả các khả năng mình có, ln nắm bắt những cơ hội
của mơi trường kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian tới với môi trường cạnh tranh
ngày càng gay gắt thì vấn đề nâng cao năng lực đấu thầu để nâng cao khả năng cạnh
tranh của công ty trong tham gia đấu thầu xây lắp phải được quan tâm thực hiện.
Chính vì vậy, trong q trình thực tập tại cơng ty cổ phần LICOGI 12 - Một cơng ty
mà hoạt động xây lắp đóng vai trị chủ đạo, tơi nhận thấy vấn đề trên là rất cần thiết
đối với Tổng cơng ty, do đó tôi đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực đấu
thầu xây lắp của công ty cổ phần LICOGI 12 ”
2. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Nhìn nhận đúng đắn về thực trạng năng lực của công ty cổ phần LICOGI
12 nói chung và năng lực đấu thầu của cơng ty nói riêng trong thời điểm hiện tại.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng để rút ra được những hạn chế trong năng
lực đấu thầu của công ty và ngun nhân của nó.
- Tìm kiếm những giải pháp phù hợp giúp công ty giải quyết những vấn đề
gặp phải và nâng cao năng lực đấu thầu của mình trong lĩnh vực xây lắp.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài: Tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài này với
mong muốn góp một phần nào đó cho sự phát triển đi lên của Tổng cơng ty, đồng
thời có thể thực hành những kiến thức cơ bản mà mình đã được học trong chương
trình Đại học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề tập trung chủ yếu vào năng lực đấu
thầu xây lắp, thuộc phạm vi nghiên cứu là công ty cổ phần LICOGI 12, đồng thời
có xem xét đến các doanh nghiệp xây lắp hiện nay và cơ chế chính sách nhà nước
đối với hoạt động đấu thầu.
4. Câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
4
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
Trong quá trình làm chun đề tốt nghiệp, tơi đã đặt ra những câu hỏi để
định hướng cho việc nghiên cứu của mình, các câu hỏi nhằm hướng tới những vấn
đề cơ bản cần phải giải quyết của chuyên đề. Cụ thể:
- Những vấn đề lý luận chung về đấu thầu xây lắp và năng lực đấu thầu xây
lắp cần phải nắm được là gì? Đối với một cơng ty hoạt động trong lĩnh vực xây lắp
cần phải nâng cao năng lực cụ thể ở những nội dung nào?
- Vai trò của việc nâng cao năng lực đấu thầu xây lắp đối với cơng ty cổ phần
LICOGI 12 là gì?
- Thực trạng năng lực đấu thầu xây lắp của công ty cổ phần LICOGI 12 là
gì? Nguyên nhân gây ra những hạn chế về năng lực đấu thầu của công ty?
- Giải pháp để giải quyết các vấn đề tồn tại và nâng cao năng lực đấu thầu
xây lắp của công ty LICOGI 12 là gì?
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài là phương
pháp điều tra thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh đối chiếu.
Trong đó chủ yếu dựa vào phân tích tổng hợp dựa trên việc thu thập và sử dụng số
liệu thứ cấp từ công ty.
6. Kết cấu chuyên đề
Với tên chuyên đề là: “ Giải pháp nâng cao năng lực đấu thầu xây lắp của cơng
ty cổ phần LICOGI 12”, tơi sẽ trình bày chun đề nghiên cứu của mình theo ba
phần tương ứng với nội dung câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu đặt ra ở trên:
Chương I: Lý luận chung về đấu thầu và sự cần thiết phải nâng cao
năng lực đấu thầu xây lắp
Chương II: Đánh giá thực trạng năng lực công tác đấu thầu của công ty
cổ phần xây dựng LICOGI 12
Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực đấu thầu xây lắp của công ty
cổ phần LICOGI 12
Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Vũ Thị Tuyết Mai đã tận tình hướng
dẫn để tơi có thể hồn thành chun đề tốt nghiệp này. Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn
chân thành tới ban lãnh đạo công ty cổ phần LICOGI 12, Phó phịng Kinh tế- kỹ
thuật Nguyễn Tất Vinh cùng các cán bộ công nhân viên trong phịng kế hoạch cơng
ty đã giúp đỡ tơi trong suốt thời gian thực tập tại công ty. Trong quá trình nghiên
cứu do khả năng cịn nhiều hạn chế, khơng tránh khỏi những thiếu sót, tơi rất mong
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
5
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
được sự đóng góp ý kiến của thầy cơ giáo và mọi người để hồn thiện tốt hơn nữa
luận văn của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẤU THẦU VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐẤU THẦU XÂY LẮP
I. Khái niệm
1. Đấu thầu và đấu thầu xây lắp
1.1. Khái niệm và phân loại đấu thầu
1.1.1. Khái niệm
Đối với ở Việt Nam, khái niệm đấu thầu cịn nhiều mới mẻ, nó bắt đầu xâm
nhập vào nước ta từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Xuất phát từ nền kinh tế thị
trường cạnh tranh việc mua bán diễn ra đều có sự cạnh tranh, mạnh mẽ, thuật ngữ
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
6
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
"đấu giá" được chúng ta biết đến nhiều hơn. Chúng ta hiểu "đấu giá" là hình thức có
một người bán và nhiều người mua. Trên cơ sở người bán đưa ra một mức giá khởi
điểm (giá ban đầu), sau đó để cho người mua cạnh tranh với nhau trả giá và người
bán sẽ quyết định giá bán cho ngươì mua nào trả giá cao nhất. Một số người lại có
sự nhầm lẫn và quy đồng "đấu giá" và "đấu thầu" là một. Nhưng đối với thực tiễn
hoạt động và hình thức thể hiện thì "đấu thầu" lại là hình thức có một người mua và
nhiều người bán cạnh tranh nhau. Người mua sẽ lựa chọn người bán nào đáp ứng
một cách tốt nhất các yêu cầu của người mua đặt ra. Theo điều 3 Quy chế Đấu thầu
ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ thì
"đấu thầu" là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của ban mời thầu.
Đấu thầu có các đặc điểm sau:
- Đấu thầu là hoạt động mua bán.
- Đấu thầu chỉ tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường khi có sự xuất
hiện và phát triển của cạnh tranh.
Để có thể hiểu rõ hơn về khái niệm đấu thầu, cũng để nghiên cứu các phần
sau chúng ta cần phải làm rõ một số khái niệm có liên quan chặt chẽ với khái niệm
đấu thầu.
- "Nhà thầu" là tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân tham gia đấu thầu.
Trong trường hợp đấu thầu tuyển chọn tư vấn, nhà thầu có thể là cá nhân. Nhà thầu
là nhà xây dựng trong đấu thầu xây lắp, là nhà cung cấp trong đấu thầu mau sắm
hàng hoá; là nhà tư vấn trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn, là nhà đầu tư trong đấu
thầu lựa chọn đối tác đầu tư. Nhà thầu trong nước là nhà thầu có tư cách pháp nhân
Việt Nam và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam (điều 3, Quy chế Đấu thầu, trang 11).
- "Bên mời thầu" là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc pháp nhân đại diện hợp pháp
của chủ dự án, chủ đầu tư được giao trách nhiệm thực hiện công việc đấu thầu
(Điều 3, Quy chế Đấu thầu, trang 10).
- "Gói thầu" là tồn bộ dự án hoặc một phần cơng việc của dự án, được chia
theo tính chất kỹ thuật hoặc trình tự thực hiện dự án, có quy mơ hợp lý và đảm bảo
tính đồng bộ của dự án, có quy mơ hợp lý và đảm bảo tính đồng bộ của dự án.
Trong trường hợp mua sắm gói thầu cá thể là một hoặc một loại đồ dùng, trang thiết
bị hoặc phương tiện. Gói thầu được thực hiện theo một hoặc nhiều hợp đồng (khi
gói thầu được chia thành nhiều phần) (Điều 3, Quy chế Đấu thầu, trang 11).
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
7
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
- "Tư vấn" là hoạt động đáp ứng các yêu cầu về biến thức, kinh nghiệm
chuyên môn cho bên mời thầu và việc xem xét, quyết định, kiểm tra quá trình chuẩn
bị và thực hiện dự án. (Điều 3,Quy chế Đấu thầu, trang 12).
Nói đến đấu thầu là nói đến một quá trình lựa chọn tức là việc đấu thầu phải
tuân thủ theo trình tự, thủ tục nhất định. Điều này chỉ tạo ra cho đấu thầu một sự
khắc biệt hẳn so với các hình thức khác thường gặp trong mua bán thông thường.
Khái niệm đấu thầu được hiểu khác nhau dưới góc độ của từng chủ thể tham gia đấu
thầu:
- Theo quan niệm của chủ đầu tư thì đấu thầu là một quá trình lựa chọn nhà
thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu (chủ thầu) trên cơ sở cạnh tranh
giữa các nhà thầu.
- Theo quan niệm của nhà thầu, đấu thầu là một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa
các nhà thầu để nhận được dự án cung cấp sản phẩm hàng hóa và dịch vụ từ bên
mời thầu nhằm thu lợi nhuận cho các nhà thầu.
Như vậy đấu thầu thực chất là quá trình nhằm thỏa mãn nhu cầu của cả hai
chủ thể cơ bản tham gia vào quá trình đấu thầu để thực hiện một dự án sao cho có
hiệu quả nhất.
1.1.2. Phân loại đấu thầu
Để phân loại đấu thầu ta có 3 căn cứ phân loại là: lĩnh vực hoạt động của dự
án đem đấu thầu; hình thức lựa chọn nhà thầu và phương thức đấu thầu. Cụ thể như
sau:
a. Căn cứ vào lĩnh vực của dự án
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của dự án đem thầu người ta chia đấu thầu
thành các loại đấu thầu tuyển chọn tư vấn, đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị, đấu
thầu xây lắp, đấu thầu dự án. Cụ thể:
- Đấu thầu tuyển chọn tư vấn: Đấu thầu tuyển chọn tư vấn là quá trình đấu
thầu nhằm tuyển chọn một công ty hoặc một cá nhân tư vấn có kinh nghiệm
chun mơn để thực hiện các cơng việc có liên quan trong q trình chuẩn bị đầu tư
và thực hiện đầu tư.
- Đấu thầu mua săm vật tư thiết bị: là quá tình lựa chọn nhà thầu cung cấp
những loại vật tư thiết bị phù hợp đáp ứng các yêu cầu của dự án đầu tư.
- Đấu thầu xây lắp: là quá trình lự chọn nhà thầu phù hợp, thực hiện các công
việc xây dựng và lắp đặt các cơng trình đáp ứng trong các u cầu của dự án.
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
8
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
- Đấu thầu dự án: là quá trình lựa chọn các đối tác phù hợp, có khả nưng tổ
chức thực hiện tồn bộ những cơng việc có liên quan đến dự án từ chuẩn bị đầu tư
và xây dựng, cung ứng vật tư thiết bị, xây dựng và lắp đặt, thu xếp các nguồn vốn,
…
b. Căn cứ vào hình thức lựa chọn nhà thầu
Căn cứ vào hình thức lựa chọn nhà thầu, đấu thầu được chia làm các loại
đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu. Cụ thể:
- Đấu thầu rộng rãi: là hình thức đấu thầu khơng hạn chế số lượng nhà thầu
tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng và ghi rõ các điều kiện, thời gian dự thầu. Đối với những gói thầu lơn, phức
tạp về công nghệ và kỹ thuật, bên mời thầu phải tiến hành sơ tuyển để lựa chọn nhà
thầu có đủ tư cách và năng lực tham gia dự thầu. Đặc điểm của hình thức đấu thầu
này là khơng hạn chế số lượng, được thông báo rộng rãi trong phạm vi một vùng,
địa phương hay liên vùng, hay quốc tế.
- Đấu thầu hạn chế: la hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ mời một số
nhà thầu có khả năng đáp ứng các yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Đặc điểm của loại
hình đấu thầu này là chỉ có một số ít nhà thầu tham dự , yêu cầu sử dụng nguồn vốn
lớn và có các yêu cầu đặc biệt về tiến độ thực hiện dự án.
- Chỉ định thầu: hình thức này chỉ áp dụng cho các dự án có tính chất nghiên
cứu thử nghiệm, cấp bách do thiên tai địch họa, hay có liên quan đến bí mật an ninh
quốc gia. Một số dự án tỏng loại này thường do Thủ tướng chính phủ quyết định và
cho phép. Các dự án được chỉ định thầu hay gói thầu thường có giá trị nhỏ. Đối với
các gói thầu lớn phải thơng qua Thủ tướng chính phủ.
c. Căn cứ vào phương thức đấu thầu
Căn cứ vào phương thức đấu thầu người ta chia thành các loại như đấu thầu
một phong bì, đấu thầu hai phong bì, đấu thầu hai giai đoạn, chào hàng cạnh tranh,
mua sắm trực tiếp, giao thầu trực tiếp hoặc tự làm. Cụ thể:
- Đấu thầu một túi hồ sơ (một phong bì) là loại đấu thầu mà tất cả các hồ sơ
tham dự thầu, các đề xuất kỹ thuật và tài chính …được đặt trong một phong bì.
- Đấu thầu hai túi hồ sơ (hai phong bì) là loại đấu thầu mà trong đó các đề
xuất kỹ thuật và tài chính được đặt trong hai túi hồ sơ riêng biệt nhưng được nộp tại
cùng một thời điểm. Trong hình thức đấu thầu này, các đánh giá kỹ thuật được làm
trước, các đánh giá tài chính được thực hiện sau và nhà thầu được xếp hạng thứ nhất
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
9
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
về kỹ thuật sẽ được mời vào để mở túi hồ sơ tài chính và thương thảo hợp đồng.
Nếu nhà thầu đó khơng đáp ứng được thì mời đến nhà thầu thứ hai…
- Đấu thầu hai giai đoạn chỉ áp dụng đối với các dự án lớn, phức tạp về công
nghệ và kỹ thuật hoặc dự án thuộc chìa khóa trao tay. Giai đoạn một, các nhà thầu
nộp đề xuất kỹ thuật. Giai đoạn hai, các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu hồn chình bao
gồm cả các đề xuất kỹ thuật và tài chính.
- Chào hàng cạnh tranh chỉ áp dụng đối vói những gói thầu mua sắm vật tư
thiết bị có quy mơ đơn giản và nhỏ. Mỗi gói thầu mua sắm vật tư thiết bị có qui mơ
đơn giản và nhỏ. Mỗi gói thầu phải có ít nhất 3 bản chào giá của ba nhà thầu khác
nhau.
- Mua sắm trực tiếp chủ yếu áp dụng trong việc bổ sung đơn hàng mua sắm
vật tư thiết bị mà trước đó đã được tổ chúc đấu thầu.
- Giao thầu trực tiếp là loại hình đấu thầu cần phải chọn nhà thầu có độ tin
cậy cao để xem xét thương thảo hợp đồng. Loại này chỉ áp dụng đối với trường hợp
chỉ định thầu. Trong trường hợp nhà thầu được chọn không đáp ứng các u cầu của
chủ đầu tư thì có quyền kiến nghị chọn nhà thầu khác.
- Tự làm là hình thức chủ đầu tư tự sủ dụng các lực lượng của mình để thực
hiện khối lượng xây lắp được giao. Hình thức này chủ yếu chỉ áp dụng trong các
cơng trình sửa chữa cải tạo có quy mơ nhỏ hay các cơng trình chun ngành đặc
biệt
1.2. Đấu thầu xây lắp
Như đã nói ở trên đấu thầu xây lắp là quá trình lựa chọn nhà thầu phù hợp,
thực hiện các công việc thuộc lĩnh vực xây dựng và lắp đặt các cơng trình đáp ứng
trong các u cầu của dự án.
Thực chất của đấu thầu trong xây lắp là việc ứng dụng phương pháp xét hiệu
quả kinh tế trong việc lựa chọn tổ chức thi công xây dựng. Đây cũng là một biện
pháp quản lý kinh tế - kỹ thuật trong xây dựng, và là một phương pháp áp dụng phổ
biến nhất để tranh giành hợp đồng xây dựng giữa các nhà thầu muốn xây dựng cơng
trình.
Chúng ta có thể tóm tắt nội dung cơ bản của đấu thầu xây lắp như sau:
- Chủ đầu tư ( thường gọi tắt là bên A là người có nhu cầu xây dựng cơng
trình) đưa ra các u cầu của mình về dự án và thông báo cho các nhà thầu.
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
10
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
-Các nhà thầu ( thường gọi là bên B) căn cứ vào yêu cầu của chủ đầu tư sẽ
đưa ra các phương pháp thi cơng xây lắp và trình bày các năng lực của mình để chủ
đầu tư xem xét, đánh giá và tổ chức lựa chọn.
Như vậy, trong đấu thầu xây lắp ta thấy tồn tại ba quan hệ cạnh tranh: cạnh
tranh giữa chủ đầu tư với các nhà thầu; cạnh tranh giữa các nhà thầu với nhau và
cạnh tranh giữa nhà thầu với nhà cùng cấp. Nổi bật nhất là cạnh tranh giữa các nhà
thầu. Để đạt thành công trong đấu thầu thì các nhà thầu buộc phải phát huy tối đa
năng lực của mình đáp ứng yêu cầu mời thầu. Đồng thời, thông qua việc tổ chức
đấu thầu thúc đẩy các chủ đầu tư và các nhà thầu phải tính tốn hiệu quả kinh tế
nhằm tiết kiệm vốn đầu tư, đảm bảo chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật và thời gian xây
dựng cơng trình, nhanh chóng đưa vào sử dụng.
Nói tóm lại chúng ta cần phải có một cách nhìn nhận đúng đắn về đấu thầu
trong xây lắp. Nó không phải là một thủ tục thuần tuý, trên thực tế đây là một công
nghệ hiện đại, một hệ thống các giải pháp cho những vấn đề không thể bỏ qua trong
sự phối hợp giữa các chủ thể trực tiếp liên quan đến các quá trình xây dựng, cung
ứng thiết bị và mục đích là đảm bảo cho q trình này thực hiện với kết quả tối ưu
xét theo quan điểm tổng thể: tối ưu về chất lượng, kỹ thuật và tiến độ, về tài chính,
đồng thời hạn chế tối đa những diễn biến căng thẳng về quan hệ và phương hại uy
tín của các bên hữu quan.
2. Năng lực đấu thầu xây lắp
Khi nói về năng lực đấu thầu ( hay năng lực cạnh tranh trong đấu thầu) của
doanh nghiệp là nói đến các nội lực bên trong như năng lực về tài chính, kỹ thuật,
cơng nghệ, quảng cáo, tổ chức quản lý, đội ngũ nhân viên…của doanh nghiệp và
việc sử dụng các nội lực đó để phục vụ cho các cuộc đấu thầu khác nhau tạo ra lợi
thế hơn hẳn các doanh nghiệp khác. Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về
năng lực đấu thầu của doanh nghiệp nhưng tựu chung lại đều đề cập đến hai vấn đề
cơ bản là chiếm lĩnh thị trường và thu lợi nhuận. Như vậy,năng lực đấu thầu ( hay
năng lực cạnh tranh trong đấu thầu ) của doanh nghiệp là toàn bộ năng lực và việc
sử dụng các năng lực đó để tạo ra lợi thế của doanh nghiệp so vơi các đối thủ khác
nhằm duy trì vị trí của doanh nghiệp trên thị trường và thu được hiệu quả cao nhất
trong kinh doanh.
Trên cơ sở khái niệm năng lực đấu thầu ta có thể hiểu năng lực đấu thầu xây
lắp là toàn bộ năng lực và việc sử dụng các năng lực đó để tạo ra lợi thế của doanh
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
11
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
nghiệp o vơi các đối thủ khác nhằm duy trì vị tri của doanh nghiệp trên thị trường
và thu được hiệu quả cao nhất trong lĩnh vực xây lắp.
Thực tế trong nền kinh tế thị trường, hoạt động đấu thầu ngày càng sôi động,
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt. Để đứng vững và mở rộng thị
phần đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải không ngừng nâng cao năng lực đấu
thầu.
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực đấu thầu xây lắp
Có thể tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực đấu thầu của doanh
nghiệp xây dựng theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực đấu thầu của doanh
nghiệp xây dựng
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
12
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực
đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng
Nhân tố khách quan
Nhà
nước
và
chính
trị
Đối
thủ
cạnh
tranh
Quyền
lực của
nhà
cung
cấp
Nhân tố chủ quan
Quyền
lực của
chủ đầu
tư
Nguồn
nhân
lực
Tài
chính
Máy
móc
thiết
bị
cơng
nghệ
Hoạt
động
quảng
cáo
tiếp
thị
1. Nhân tố khách quan
1.1.Nhà nước và chính trị
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước như ở nước
ta thì Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả
các doanh nghiệp một cách trực tiếp hay gián tiếp. Hệ thống pháp luật của Nhà
nước chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Hiện nay trên thị trường xây dựng hoạt
động của các doanh nghiệp xây dựng phải dựa theo Luật xây dựng, các nghị định và
văn bản hướng dẫn đặc thù, ngồi ra cịn có các quy định về khung giá, mức giá,
những quy định về thuê mướn, cho vay, quảng cáo, bảo vệ môi trường…các chế tài
bắt buộc doanh nghiệp phải tuân thủ.
Chính sách của Nhà nước hoặc của Chính phủ có thể tạo cơ hội hoặc gây ra
bất lợi cho doanh nghiệp. Chẳng hạn Luật xây dựng tại điều 100 khoản 2, quy định
đấu thầu hạn chế trong hoạt động xây dựng: “ Đối với dự án đầu tư xây dựng cơng
trình, cơng trình sử dụng vốn nhà nước thì khơng cho phép 2 doanh nghiệp trở lên
thuộc cùng một tổng công ty, tổng công ty cùng với công ty thành viên, công ty mẹ
và công ty con, doanh nghiệp liên doanh với một bên góp vốn trong liên doanh
cùng tham gia đấu thầu một gói thầu”, quy định này nhằm làm hạn chế các doanh
nghiệp khi dự thầu. Hoặc quy chế đấu thầu ban hành kèm nghị định 88/1999/NĐCP ngày 01/09/1999 tại điều 10 – Quy định điều kiện đấu thầu quốc tế và ưu đãi
nhà thầu: “Nhà thầu nước ngoài khi tham gia dự thầu đấu thầu quốc tế tại Việt Nam
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
13
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
hoặc phải liên doanh với nhà thầu Việt Nam hoặc phải cam kết sử dụng nhà thầu
phụ Việt Nam”… tức là tạo thêm ưu đãi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham
gia đấu thầu quốc tế.
Những bộ phận của nhân tố chính trị ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp là hệ thống pháp luật và hoạt động của các cơ quan quản lý
Nhà nước. Hoạt động của các cơ quan Chính phủ và Luật pháp có tác động trực tiếp
đến tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các nhà
quản lý doanh nghiệp phải quan tâm, nắm vững thông tin Luật pháp, các thủ tục
hành chính và các quy định khác của Chính phủ tỏng kinh doanh đấu thầu.
Tuy vậy nếu chỉ tuân thủ các quy định hiện hành vẫn chưa đủ mà doanh
nghiệp cần phải tính đến việc phản hồi thơng tin, kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ
sung hoặc đưa ra các quy định mới phù hợp hơn, tự mình gây ảnh hưởng đối với
các quy định có thể được ban hành. Hơn nữa, việc tự mình đặt ra và làm theo các
quy định còn cần thiết hơn so với các quy định của Nhà nước.
1.2. Thị trường
Thị trường là nơi diễn ra sự cạnh tranh của các DN, ở đó người ta xác định
được ai có đủ điều kiện thắng thầu và ai sẽ bị loại ra ngoài. Mặt khác thị trường là
cơ sở quan trọng để hình thành nên cơ cấu xây lắp và cơ cấu đấu thầu, nó tác động
đến đầu ra, đầu vào của dự án xây dựng. Hơn nữa thị trường là nơi đề ra các nhu
cầu và mục tiêu phục vụ cho việc tổ chức đấu thầu. Ở đó có các yếu tố cung, cầu,
giá cả lên xuống thất thường,... ảnh hưởng lớn đến việc đầu tư và xác định giá dự
thầu. Do vậy có thể khẳng định rằng thị trường là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến
sự thành công hay thất bại của một dự án được đưa ra đấu thầu trong xây lắp.
Khi phân tích ảnh hưởng của thị trường đến năng lực đấu thầu của công ty
thường ta sẽ chú ý đến vấn đề giá cả thị trường nói chung và thị trường xây dựng
nói riêng (bao gồm giá cả máy móc thiết bị, giá cả vật tư ) và những tác động của nó
tới năng lực đấu thầu của cơng ty, trong đó chịu tác động trực tiếp nhất là năng lực
dự báo giá và năng lực máy móc thiết bị.
1.3. Đối thủ cạnh tranh
Sự hiểu biết về đối thủ cạnh tranh có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh
nghiệp do nhiêu nguyên nhân. Các đối thủ cạnh tranh nhau quyết định tính chất và
mức độ tranh đua hoặc thủ thuật giành ưu thế trên thị trường. Mức độ cạnh tranh
phụ thuộc vào mối tương tác của số doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, tốc độ tăng
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
14
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
trưởng của ngành, cơ cấu chi phí cố định hoặc chi phí dự trữ chiếm tỷ trọng lớn, sự
đa dạng hóa của các đối thủ cạnh tranh, hàng rào cản trở rút lui.
Hiện nay trên thị trường xây dựng có rất nhiều doanh nghiệp cả trong và
ngoài nước cùng tham gia, làm tăng tính chất và quy mơ cạnh tranh trong ngành,
làm giảm mức lợi nhuận doanh nghiệp. Nếu trên thị trường có một số doanh nghiệp
dẫn đầu thì cạnh tranh gay gắt chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp yếu thế hơn. Trong
đấu thầu xây dựng, các doanh nghiệp có năng lực đấu thầu cao ( các doanh nghiệp ở
vị trí dẫn đầu ) thường sử dụng phương thức cạnh tranh bằng giá dự thầu, chất
lượng cơng trình, tiến độ thi cơng cơng trình để giành được hợp đồng.
1.4. Quyền lực của nhà cung cấp
Hoạt động xây lắp có đặc điểm là phụ thuộc lớn vào tiến độ cung cấp nguyên
vật liệu cho thi công. Trong hoạt động đấu thầu xây lắp của một công ty xây dựng,
vấn đề đầu vào có thể ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty trên các mặt:
1.4.1. Ảnh hưởng đến mức giá đưa ra
Nếu cơng ty xây dựng có nguồn đầu vào ổn định thì trước hết việc tính giá
của cơng ty sẽ thuận lợi hơn. công ty luôn biết rõ giá cả của từng loại nguyên vật
liệu, tình hình lên xuống giá cả trên thị trường. Như vậy khi tính giá cho thực hiện
cơng trình sẽ có quyết định chính xác dùng loại vật liệu nào, với giá cả bao nhiêu là
hợp lý nhất. Ngược lại, nếu cơng ty khơng có nguồn cung cấp đầu vào ổn định,
thường xuyên, công ty sẽ không nắm rõ thông tin về các loại nguyên vật liệu cần
thiết cho cho thực hiện thi công (thông tin về giá cả, chất lượng, đặc tính của mỗi
loại ngun vật liệu sẽ phù hợp với cơng trình nào ...) thì khi tính giá sẽ gặp phải sự
lúng túng; phải sử dụng đơn giá của Nhà nước với giá rủi ro cao hơn vì đơn giá của
Nhà nước thường không thể sát với giá cả thực tế ở tất cả các địa phương. Như vậy,
sẽ khơng có gì đảm bảo mức giá đưa ra là mức giá hợp lý nhất, điều này sẽ làm
giảm khả năng cạnh tranh của cơng ty.
Qua phân tích trên ta thấy rằng, hiển nhiên nhà cung cấp nguyên vật liệu có
thể gây ảnh hưởng đến mức giá cạnh tranh của công ty một công ty xây dựng. Ở
đây có nhiều khía cạnh cần được xét đến: Thứ nhất, nếu do tình trạng chung của nền
kinh tế đang gặp khó khăn hoặc do bản thân nhà cung cấp gặp khó khăn trong hoạt
động kinh doanh, họ sẽ không thể đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu cho công ty
một cách ổn định. Thứ hai, bản thân nhà cung cấp vì lợi ích của mình có thể sẽ thay
đổi mức giá cung cấp theo chiều hướng tăng lên. Công ty bị đặt trước sự lựa chọn
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
15
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
một trong hai con đường: tiếp tục mua hàng với giá cao hoặc tìm nguồn cung cấp
khác. Nếu cơng ty lựa chọn con đường thứ nhất thì khi lập dự tốn giá dự thầu sẽ
cho kết quả giá chào thầu quá cao so với các nhà thầu khác, như vậy sẽ làm giảm sự
cạnh tranh của mình. Nếu lựa chọn con đường thứ hai công ty sẽ đối đầu với rủi ro:
một là sử dụng đơn giá của Nhà nước, có thể giá đó khơng phù hợp với tình hình
thực tế; hai là tìm nguồn cung cấp của nhà cung cấp khác thông qua bảng giá chào
thầu của nhà cung cấp, công ty sẽ không nắm rõ chất lượng của nhà cung cấp mới
này, đồng thời giá của họ cũng có thể là giá cao; thứ ba không tránh khỏi trường
hợp các nhà cung cấp liên kết với nhau để gây sức ép giá cả đối với cơng ty. Tóm
lại, xét về mặt giá cả cạnh tranh, sự ảnh hưởng của nhà cung cấp đối với cơng ty có
thể diễn ra vì nhiều lý do khách quan nhiều hơn lý do chủ quan.
1.4.2. Ảnh hưởng đến tiến độ thi công
Đối với lĩnh vực xây dựng, tiến độ thực hiện cơng trình phụ thuộc vào tiến
độ cung cấp vật tư. Nếu công ty có các nguồn cung cấp đầu vào ổn định, ln đảm
bảo kịp thời khi cần thiết thì sẽ đảm bảo được tiến độ thi công, không những rút
ngắn được tiến độ thi cơng trên thực tế mà cịn rút ngắn tiến độ ngay từ khi lập đề
xuất trong hồ sơ dự thầu.
Ngược lại, nếu như cơng ty khơng có cơ sở để đảm bảo nguồn cung cấp
nguyên vật liệu ổn định, mà phải đi mua ngoài của những nhà cung cấp mới lập mối
quan hệ lần đầu tiên, chắc chắn công ty sẽ không tránh khỏi những bỡ ngỡ và những
khó khăn ban đầu. Điều này dẫn đến giá khơng phải là giá cạnh tranh nhất và sẽ làm
giảm sức cạnh tranh của công ty. Trong giai đoạn thi công, nếu nguồn vật tư không
được cung cấp thường xuyên và ổn định, tiến độ thi công bị ảnh hưởng và có thể
khơng được đản bảo như trong hợp đồng ký kết. Nếu như cơng trình hồn thành
chậm hơn so với tiến độ đặt ra ban đầu, uy tín của cơng ty sẽ bị giảm xuống. Đây là
điều tối kỵ bởi khi cơng ty mất uy tín với khách hàng thì trong cơng trình đấu thầu
tiếp sau đó, sức cạnh tranh của công ty sẽ bị giảm sút. Khách hàng sẽ không tin
tưởng vào tiến độ thi công do công ty đề xuất có thể đánh giá tiến độ đó là khơng
phù hợp, là khơng khả thi và có xu hướng lựa chọn nhà thầu khác. Đây là trường
hợp hết sức khó khăn trong cơng ty, nếu cơng ty đề xuất thời gian thi cơng dài thì sẽ
làm giảm sức cạnh tranh của công ty, nếu rút ngắn tiến độ thi cơng thì chủ đầu tư
khơng tin tưởng. Thế mới biết chữ “tín” đối với khách hàng là quan trọng như thế
nào.
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
16
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
Hơn nữa, trên thị trường xây dựng, danh tiếng của nhà cung cấp cũng có ảnh
hưởng rất lớn đến chủ đầu tư do có sự liên quan đến chất lượng cơng trình. Tạo
được mối quan hệ tốt với nhà cung cấp có danh tiếng sẽ là lợi thế mạnh của doanh
nghiệp.
Như vậy, ta có thể thấy sự ảnh hưởng của các nhà cung cấp có khả năng to
lớn làm giảm sức cạnh tranh của cơng ty khi tham gia đấu thầu. Vì vậy điều cần
thiết là công ty phải đảm bảo hoạt động của mình có nguồn cung cấp đầu vào ổn
định. Trên thực tế, cơng ty có những đơn vị làm thầu phụ trong các cơng trình đấu
thầu cung cấp ngun vật liệu, nguyên liệu thi công tạo thành một chu kỳ khép kín
từ sản xuất vật liệu, thi cơng, hồn thiện, điện nước,...
1.5. Quyền lực của chủ đầu tư
Như ở phần trước đã phân tích, hoạt động đấu thầu có đặc điểm là nhà thầu
phải phục tùng thực hiện những yêu cầu của chủ đầu tư, công ty tham gia đấu thầu
cũng phải phục tùng những gì mà chủ đầu tư yêu cầu. Các yêu cầu này được thể
hiện trong hồ sơ mời thầu thông qua bản vẽ, bản tiên lượng, thiết kế cơng trình, sơ
đồ tổ chức mặt bằng và các yêu cầu khác thể hiện bằng văn bản. Nếu nhà thầu
khơng đáp ứng được u cầu đó thì khả năng nhà thầu được lựa chọn là rất thấp.
Tuy nhiên các yều cầu của chủ đầu tư phần lớn là về đặc điểm, tính chất, tiêu chuẩn
của cơng trình,... Những đặc điểm này liên quan đến khả năng của nhà thầu có đáp
ứng được hay khơng, nếu những u cầu của chủ đầu tư phù hợp thế mạnh của nhà
thầu thì nhà thầu sẽ đáp ứng được một cách dễ dàng và đạt được sự hồn hảo, làm
hài lịng chủ đầu tư, tăng sức cạnh tranh của nhà thầu trong gói thầu đó. Ngược lại
nếu năng lực của nhà thầu không phù hợp với lĩnh vực của chủ đầu tư yêu cầu thì
biện pháp mà nhà thầu đưa ra, giá chào hàng, tiến độ thi công ... không mang tính
cạnh tranh cao, khơng đảm bảo thắng lợi trong đấu thầu. Hoặc nếu nhà thầu có thể
đáp ứng được các yêu cầu của chủ đầu tư nhưng khả năng đáp ứng khơng tốt bằng
các nhà thầu khác thì khả năng cạnh tranh của nhà thầu cũng sẽ giảm xuống.
Tóm lại, khả năng thứ nhất mà chủ đầu tư có thể ảnh hưởng đến sức cạnh
tranh hay năng lực đấu thầu của nhà thầu được xét đến ở đây là sự thích ứng, sự phù
hợp giữa năng lực của nhà thầu với những yêu cầu của chủ đầu tư. Sự phù hợp hay
không của năng lực nhà thầu với yêu cầu từ phía chủ đầu tư quyết định đến tính ưu
việt, tối ưu của những phương án do nhà thầu đề xuất, (về phía tài chính, về kỹ
thuật) và làm tăng hay giảm sức cạnh tranh của nhà thầu trong tham gia đấu thầu.
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
17
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
Khả năng thứ hai mà chủ đầu tư có thể tác động đến sức cạnh tranh hay năng
lực đấu thầu của nhà thầu khi tham gia đấu thầu là mối quan hệ giữa chủ đầu tư với
nhà thầu. Xét về khía cạnh này, sự cạnh tranh diễn ra ngay cả khi chuẩn bị phát
hành hồ sơ mời thầu. Thật vậy, trong một dự án đấu thầu kể cả đấu thầu mở rộng
hay đấu thầu hạn chế thì số nhà thầu tham dự không phải quá nhiều, thường chỉ giới
hạn trong 10 nhà thầu trở xuống (trừ những dự án quốc tế có tính chất quan trọng),
do đó có sự cạnh tranh giữa các nhà thầu để được tham gia dự thầu. Việc loại bỏ các
đối thủ khác tham gia đấu thầu sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của nhà thầu xét về
khía cạnh nào đó. Trên thực tế có một số cơng trình khi tham gia dự thầu, nhà thầu
nhờ có quan hệ tốt với chủ đầu tư nên đã được mời dự thầu và được mua hồ sơ sớm
hơn so với các đối thủ khác, như vậy sức cạnh tranh của nhà thầu sẽ được tăng lên.
Trong quá trình đấu thầu, mối quan hệ với chủ đầu tư cũng có ảnh hưởng lớn đến
khả năng cạnh tranh của nhà thầu, thường thì chủ đầu tư lựa chọn những nhà thầu
quen thuộc, đã từng có quan hệ làm ăn với mình, như vậy sẽ đảm bảo hơn. Do đó,
nếu nhà thầu là đơn vị quen thuộc với chủ đầu tư thì khả năng trúng thầu sẽ lớn hơn
so với các nhà thầu khác.
Khi nói đến quan hệ giữa chủ đầu tư với nhà thầu trong hoạt động đấu thầu
ta không thể bỏ qua các đối thủ của nhà thầu có quan hệ tốt với chủ đầu tư. Trong
trường hợp này, nhà thầu sẽ gặp khó khăn trong cạnh tranh với đơn vị đó bởi chủ
đầu tư sẽ có sự ưu tiên cho đơn vị này mặc dù giải pháp đề ra của cả hai bên là có
thể tương tự, xấp xỉ nhau nhưng chủ đầu tư sẽ có sự ưu tiên cho nhà thầu quen biết.
Hoặc có thể nhờ mối quan hệ của mình với chủ đầu tư mà nhà đầu tư có thể có
được các thơng tin cần thiết khác có lợi cho q trình đấu thầu, trong khi đó nhà
thầu lại khơng thể có được những thơng tin này đây là một bất lợi trong cạnh tranh.
Nói tóm lại, khả năng cạnh tranh của nhà thầu có thể bị ảnh hưởng bởi khách
hàng xét trên góc độ sự phù hợp khả năng của nhà thầu với yêu cầu của chủ đầu thị
trường: Mối quan hệ giữa nhà thầu với chủ đầu tư và quan hệ của đối thủ cạnh tranh
với chủ đầu tư trong đấu thầu xây lắp. Khách hàng của nhà thầu rất đa dạng yêu cầu
ở mọi lĩnh vực khác nhau, vì vậy nhà thầu cần khơng ngừng nâng cao năng lực của
mình, đồng thời tăng cường đẩy mạnh mối quan hệ với các cơ quan, các ngành, các
cấp để tìm kiếm sự ủng hộ khi nhà thầu tham gia đấu thầu.
2. Nhân tố chủ quan
2.1. Nguồn nhân lực
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
18
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
Con người là nhân tố cơ bản của sản xuất – kinh doanh, đặc biệt đối với một
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả đấu thầu của nhà thầu. Chủ đầu tư
thường đánh giá nguồn nhân lực của doanh nghiệp tham gia đấu thầu ở cac cấp độ:
Ban giám đôc; Cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp; Cán bộ quản lý trung gian, đốc
công và công nhân. Cụ thể là:
- Ban giám đốc doanh nghiệp: Đây là cấp độ nhân lực cao nhất của doanh
nghiệp, quyết định đến sự thành bại của đơn vị trong kinh doanh. Khi đánh giá bộ
máy lãnh đạo người ta thường quan tâm đến các tiêu thức như kinh nghiệm lãnh
đạo, trình độ, các hoạt động của doanh nghiệp, phẩm chất kinh doanh và các mối
quan hệ… Sâu xa hơn nữa là tinh thần đồn kết, đồng lịng của nhân viên, của ekip
lãnh đạo, uy tín của Ban lãnh đạo trong và ngoài doanh nghiệp, điều này làm tăng
sức mạnh của chính doanh nghiệp và tạo sự tín nhiệm đối với chủ đầu tư.
- Cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp: Để đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của
đội ngũ cán bộ quản lý chủ đầu tư thường tiếp cận trên các khía cạnh:
+ Trình độ chun mơn, kinh nghiệm công tác, tác phong làm việc, sự am
hiểu về kinh doanh và pháp luật của từng thành viên trong ekip quản lý.
+ Cơ cấu về các chuyên ngành đào tạo phân theo trình độ sẽ cho biết khả
năng chun mơn hóa cũng như khả năng đa dạng hóa của doanh nghiệp. Thông
thường, cơ cấu cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, cơng nhân lành nghề có chun
mơn về lĩnh vực chính mà doanh nghiệp đang kinh doanh phải chiếm ít nhất 60%
tổng số lao động, bởi điều này liên quan đến chất lượng và kỹ thuật cơng trình.
- Cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân: Đây là đội ngũ lao
động trực tiếp tạo nên sức mạnh tổng hợp của doanh nghiệp trên các khía cạnh như
chất lượng cơng trình và tiến độ thi cơng. Người phụ trách đơn vị phải có trình độ
quản lý (tổ chức điều phối lao động, thiết bị hợp lý, tránh lãng phí nhằm hạ thấp giá
thành, tăng lợi nhuận nhưng phải đảm bảo chất lượng), am hiểu sâu về công việc
mà đơn vị đang thực hiện, biết chăm lo cho quyền lợi của người lao động…mới tạo
ra sự ủng hộ, lịng nhiệt thành từ phía người lao động. Tuy nhiên, lãnh đạo đơn vị
giỏi cũng chưa đủ mà cần có một đội ngũ lao động chuyên sâu, có khả năng sáng
tạo, trung thực, có trách nhiệm trong cơng việc. Bởi đây chính là những người trực
tiếp thực hiện những ý tưởng , chiến lược và chiến thuật kinh doanh của đội ngũ
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
19
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
lãnh đạo cấp trên, những người tạo nên chất lượng cơng trình và năng lực đấu thầu
cho doanh nghiệp.
2.2. Tài chính
Trước hết, chúng ta phải thừa nhận rằng năng lực tài chính có ảnh hưởng rất
lớn khả năng thắng thầu của nhà thầu, có vai trị quyết định đối với sức cạnh tranh
của doanh nghiệp. Năng lực tài chính của nhà thầu thể hiện ở quy mơ tài sản nguồn
vốn tự có, khả năng huy động tài sản nguồn vốn khác nhau, hiệu quả quản lý và sử
dụng tài sản nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh. Mặt khác, để đánh giá khả năng
tài chính của doanh nghiệp xây dựng cần xem xét cơ cấu vốn cố định, vốn lưu động
với các yêu cầu thực hiện nhiệm vụ thi công. Đối với chủ đầu tư, khi xem xét, đánh
giá năng lực các nhà thầu tham gia dự thầu thì vấn đề vốn của nhà thầu sẽ được họ
rất quan tâm. Đặc biệt là khả năng tài chính và khả năng huy động các nguồn vốn
được nhà thầu trình bày trong hồ sơ thầu khi tham gia dự thầu.
Khác với các loại hình sản xuất khác, thời gian xây dựng một sản phẩm
(công trình xây dựng) thường kéo dài và có qui mơ lớn. Do vậy cần phải huy động
khối lượng vốn lớn để đảm bảo cơng trình được thực hiện liên tục. Để có đủ vốn
phục vụ cho sản xuất, doanh nghiệp phải vay từ các Ngân hàng và phải chịu lãi
suất. Do đó sẽ rất khó khăn khi cùng một lúc doanh nghiệp thực hiện nhiều cơng
trình. Mặt khác, khơng phải bao giờ khi thực hiện cơng trình xong và bàn giao đưa
vào sử dụng cũng được chủ đầu tư thanh tốn ngay, mà thực tế có rất nhiều cơng
trình sau một thời gian dài chủ đầu tư mới thanh toán cho nhà thầu. Điều này dẫn
tới bị ứ đọng vốn lưu động, gây ra khó khăn lớn cho doanh nghiệp khi cần huy động
vốn cho cơng trình tiếp theo. Bên cạnh đó, với yêu cầu của chủ đầu tư là phải có
một khoản tiền bảo lãnh thực hiện hợp đồng (từ 10 - 15 % tổng giá trị hợp đồ cơng
trình khi trúng thầu). Bởi vậy mọi doanh nghiệp xây dựng nói chung khi có năng
lực tài chính mạnh sẽ rất thuận lợi trong cạnh tranh. Doanh nghiệp có khả năng tài
chính dồi dào có thể tham gia đấu thầu nhiều cơng trình khác nhau, có nhiều cơ hội
để đầu tư trang thiết bị cho thi công nhằm đáp ứng kịp thời quy trình cơng nghệ
hiện đại, đồng thời sẽ tạo được niềm tin với các tổ chức tài chính tín dụng và nhà
cung cấp vật tư hàng hóa.
Như vậy, năng lực tài chính mạnh tác dụng tích cực đến q trình đấu thầu.
Trước hết, nó giúp cho doanh nghiệp có thể thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong
điều kiện giới hạn về vốn. Thứ hai, nó tạo niềm tin nơi chủ đầu tư về khả năng quản
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
20
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
lý hiệu quả đồng vốn được giao. Thứ ba, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là yếu tố
quyết định đến khả năng huy động các nguồn tài chính từ bên ngồi cho q trình
kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3. Máy móc thiêt bị cơng nghệ thi cơng
Thiết bị máy móc là bộ phận quan trọng nhất trong tài sản cố định của doanh
nghiệp. Nó đại diện cho trình độ kỹ thuật và năng lực sản xuất hiện có, giúp cho
doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Mức độ cơ giới hóa trong xây dựng được chủ đầu tư đánh giá cao, bởi nó có
liên quan nhiều đến chất lượng và tiến độ thi cơng cơng trình. Ưu thế về máy móc
thiết bị và cơng nghệ thể hiện qua các đặc tính: tính hiện đại, tính đồng bộ, tính hiệu
quả, tính đổi mới. Năng lực máy móc thiết bị và trình độ công nghệ ảnh hưởng rất
nhiều đến cá mặt hoạt động của doanh nghiệp. Yếu tố kỹ thuật này quyết định việc
lựa chọn tính tốn các giải pháp hợp lý trong tổ chức thi cơng, bố trí con người và
thiết bị một cách hài hòa, đạt tiêu chuẩn về chất lượng, rút ngắn tiến độ thi cơng, tiết
kiệm chi phí xây dựng, hạ giá thành cơng trình, góp phần nâng cao năng lực đấu
thầu của doanh nghiệp.
2.4. Hoạt động quảng cáo tiếp thị
Trong nền kinh tế thị trường để bán được hàng hóa khơng thể thiếu khâu
quảng cáo tiếp thị. Không giống như các doanh nghiệp công nghiệp đưa sản phẩm
của mình ra thị trường để khách hàng chọn. Doanh nghiệp xây dựng phải dựa vào
danh tiếng, uy tín của mình để khiến cho khách hàng tìm đến để yêu cầu sản xuất
sản phẩm cần thiết. Do vậy danh tiếng là nhân tố quyết định năng lực đấu thầu của
doanh nghiệp xây dựng.
Danh tiếng thành tích, kinh nghiệm thi cơng của doanh nghiệp có tác động
rất lớn đến khả năng trúng thầu dự án bởi mối quan tâm hàng đầu của chủ đầu tư là
chất lượng và tiến độ công trình. Hoạt động quảng cáo tạo ra hình ảnh tơt đẹp, giúp
cho doanh nghiệp phát triển thị trường, khẳng định phạm vi ảnh hưởng của mình
đến sự lựa chọn của các chủ đầu tư.
III. Các tiêu chí phân tích năng lực đấu thầu xây lắp
Năng lực đấu thầu xây lắp của một công ty được cấu thành bởi các năng lực:
năng lực tài chính, năng lực kinh nghiệm thi cơng, năng lực nhân sự, năng lực máy
móc thiết bị, năng lực cung ứng nội bộ và năng lực dự báo giá dự thầu của cơng ty.
Như vậy để phân tích năng lực đấu thầu xây lắp của một công ty ta sử dụng các tiêu
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
21
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
chí để phân tích các năng lực bộ phận đồng thời sử dụng tiêu chí kết quả đấu thầu
của cơng ty để thấy rõ hơn hiệu quả của công tác đấu thầu. Ta đi vào chi tiết của
từng loại tiêu chí như sau;
1. Năng lực tài chính
1.1. Khái niệm và vai trị của năng lực tài chính
Năng lực tài chính của một doanh nghiệp là khả năng đảm bảo về nguồn lực
tài chính cho doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính là doanh
nghiệp có khả năng đảm bảo vốn cho doanh nghiệp tiến hành các họat động đầu tư,
họat động sản xuất kinh doanh hướng tới việc đạt đựơc mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận, hướng tới tối đa hóa giá trị doanh nghiệp.
Năng lực tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định năng lực
phát triển nói chung của một doanh nghiệp cũng như của một cá nhân. Tài chính
khơng chỉ quan trọng trong q trình phát triển kinh tế mà cịn là động lực để con
người cố gắng làm việc tích cực và hiệu quả hơn trong xã hội. Năng lực tài chính
có mối quan hệ ràng buộc, quyết định tới các năng lực khác của doanh nghiệp. Đặc
biệt là đối với một doanh nghiệp mà lĩnh vực hoạt động chủ yếu là đấu thầu xây lắp
thì càng địi hỏi cần tài chính mạnh, tài chính là một chỉ tiêu quan trọng để các chủ
đầu tư xem xét trong quá trình duyệt hồ sơ dự thầu. Do tính chất các cơng trình xây
lắp đòi hỏi vốn lớn và kỹ thuật cao nên năng lực tài chính là bộ phận quan trọng
hình thành nên năng lực của nhà thầu xây lắp. Như chúng ta đã biết để thực hiện
một cơng trình xây lắp phải bỏ ra trước nhiều khoản chi phí khác nhau như chi phí
giải phóng mặt bằng, chi phí ngun vật liệu, chi phí nhân cơng, chi phí máy móc
thiết bị và một số cơng trình cịn có cả chi phí xây dựng nhà tạm…Một nhà thầu dù
mạnh đến đâu cũng khó có thể đáp ứng được những chi phí phát sinh khi thực hiện
nhất là khi nhà thầu đó khơng chỉ tham gia một cơng trình, hạng mục khác nhau do
đó cần lượng vốn lớn và chứng minh năng lực tài chính là hết sức quan trọng đối
với nhà thầu khi tham gia đấu thầu. Theo quy định hiện nay thì một nhà thầu muốn
vay vốn thực hiện cơng trình cần đảm bảo ít nhất 30% giá trị gói thầu.
Phân tích năng lực tài chính giúp cho chủ đầu tư nhận biết được thực trạng
tình hình tài chính của nhà thầu tham gia dự thầu, có đạt yêu cầu về mặt tài chính
hay khơng? Cịn đối với nhà thầu, phân tích năng lực tài chính hàng năm và các giai
đoạn là hết sức quan trọng, giúp cho doanh nghiệp xác định được những vấn đề tồn
tại cần khắc phục, cũng như những thế mạnh cần phát huy để không ngừng nâng
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
22
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
cao năng lực tài chính của mình, từ đó tăng khả năng thắng thầu và uy tín của doanh
nghiệp.
1.2. Các tiêu chí sử dụng để phân tích năng lực tài chính
Khi phân tích năng lực tài chính của một nhà thầu ta thường phân tích các
yếu tố: Sự biến động về quy mô, cơ cấu của tài sản và nguồn vốn; khả năng thanh
toán của nhà thầu; hiệu quả sử dụng vốn của của nhà thầu; tình hình rủi ro về tài
chính của nhà thầu. Chúng ta sử dụng các số liệu tổng hợp của doanh nghiệp trong
Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và Bảng cân đối kế toán hàng năm
của doanh nghiệp cùng với hệ thống chỉ tiêu tương ứng với từng yếu tố tài chính
dưới đây làm căn cứ để phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp.
1.2.1. Sự biến động về quy mô, cơ cấu tài sản và nguồn vốn
Khi phân tích sự biến động về quy mô, cơ cấu tài sản và nguồn vốn ta xem
xét các chỉ tiêu sau:
Thứ nhất, quy mô, cơ cấu tài sản: Được phân tích bằng cách so sánh giá trị
đầu năm với các giá trị cuối năm của các chỉ tiêu phản ánh quy mô, cơ cấu tài sản
của nhà thầu như: tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn và dài hạn, các khoản
phải thu…Chỉ tiêu này giúp nhà thầu cũng như chủ đầu tư đánh giá được thực trạng,
kết quả tài sản của nhà thầu cũng như dự tính những rủi ro hay tiềm năng tài chính
trong tương lai của nhà thầu.
Thứ hai, quy mô, cơ cấu nguồn vốn: Sự biến động (tăng hay giảm) của tổng
số nguồn vốn cuối năm so với đầu năm và so với các năm trước liền kề là một trong
những chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng tổ chức, huy động vốn trong năm
của nhà thầu. Tuy nhiên, do vốn của nhà thầu tăng, giảm do nhiều nguyên nhân
khác nhau nên sự biến động của tổng số nguồn vốn chưa thể hiện đầy đủ tình hình
tài chính của nhà thầu, do đó khi phân tích, cần kết hợp với việc xem xét cơ cấu
nguồn vốn và sự biến động của nguồn vốn để có nhận xét phù hợp.
Phân tích nguồn vốn giúp cho nhà thầu và chủ đầu tư xem xét, đánh giá khả
năng tài trợ cũng như hoạt động vốn cho sản xuất kinh doanh của nhà thầu. Nội
dung này có một số chỉ tiêu cần xem xét:
- Tỉ suất tài trợ tổng quát: là chỉ tiêu biểu hiện mối quan hệ tỉ lệ giữa nguồn
vốn chủ sở hữu với tổng nguồn vốn.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc
lập về mặt tài chính của nhà thầu. Chỉ tiêu này cho biết, trong tổng số nguồn vốn
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
23
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
của nhà thầu, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm mấy phần. Trị số của chỉ tiêu càng lớn,
chứng tỏ khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính càng cao, mức độ độc lập về mặt tài
chính của nhà thầu càng tăng và ngược lại, khi trị số của chỉ tiêu càng nhỏ, khả
năng tự bảo đảm về mặt tài chính của nhà thầu càng thấp, mức độ độc lập về tài
chính của nhà thầu càng giảm.
- Tỉ suất tài trợ cho tài sản ngắn hạn: là chỉ tiêu biểu hiện mối quan hệ tỉ lệ
giữa nguồn vốn chủ sở hữu vơi tài sản ngắn hạn.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng trang trải tài sản ngắn hạn bằng vốn chủ sở
hữu. Chỉ tiêu này càng cao cho thấy nguồn bù đắp bằng vốn chủ sở hữu cho tài sản
ngắn hạn của nhà thầu càng lớn, điều này đồng nghĩa với rủi ro về tài chính của nhà
thầu càng thấp và khả năng quay vòng vốn để sinh lời nhanh mang lại hiệu quả kinh
doanh cao hơn.
- Tỉ suất tài trợ cho tài sản dài hạn: là chỉ tiêu biểu hiện mối quan hệ tỉ lệ
giữa nguồn vốn chủ sở hữu với tài sản dài hạn.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng trang trải tài sản dài hạn bằng vốn chủ sở
hữu. Nếu trị số của chỉ tiêu này càng lớn hơn 1, số vốn chủ sở hữu của nhà thầu
càng có thừa khả năng để trang trải tài sản dài hạn và do vậy, nhà thầu sẽ ít gặp khó
khăn trong thanh toán các khoản nợ dài hạn đến hạn. Điều này tuy giúp nhà thầu tự
bảo đảm về mặt tài chính nhưng hiệu quả kinh doanh sẽ khơng cao do vốn đầu tư
chủ yếu vào tài sản dài hạn, ít sử dụng vào kinh doanh quay vòng để sinh lợi.
- Tỉ suất tài trợ cho tài sản cố định: chỉ tiêu biểu hiện mối quan hệ tỉ lệ giữa
nguồn vốn chủ sở hữu với tài sản cố định. Tỉ suất này càng lớn thì càng chứng tỏ
khả năng trang trải vốn cho việc đầu tư tài sản cố định mở rộng quy mô năng lực
sản xuất của nhà thầu càng cao.
1.2.2. Khả năng thanh toán của nhà thầu
Khả năng thanh tốn của nhà thầu là muốn nói đến khả năng chi trả cho các
khoản nợ của nhà thầu, nó góp phần phản ánh mức độ an tồn tài chính của doanh
nghiệp.
Khi phân tích khả năng thanh tốn của nhà thầu ta xem xét các chỉ tiêu sau:
Thứ nhất, tỉ suất nợ phải trả: là chỉ tiêu thể hiện mối quan hệ tỉ lệ giữa nợ
phải trả với tổng nguồn vốn.
Tỷ số này cho biết có bao nhiêu phần trăm tài sản của nhà thầu là từ đi vay.
Qua đây biết được khả năng tự chủ tài chính của nhà thầu. Tỷ số này mà quá nhỏ,
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
24
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
chứng tỏ nhà thầu vay ít. Điều này có thể hàm ý nhà thầu có khả năng tự chủ tài
chính cao. Song nó cũng có thể hàm ý là nhà thầu chưa biết khai thác địn bẩy tài
chính, tức là chưa biết cách huy động vốn bằng hình thức đi vay. Ngược lại, tỷ số
này mà cao quá hàm ý nhà thầu khơng có thực lực tài chính mà chủ yếu đi vay để
có vốn kinh doanh. Điều này cũng hàm ý là mức độ rủi ro của nhà thầu cao hơn.
Thứ hai, hệ số khả năng thanh toán tổng hợp: là chỉ tiêu thể hiện mối quan hệ
tỉ lệ giữa tổng tài sản và tổng số nợ phải trả.
Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán chung của nhà thầu trong kỳ báo
cáo. Chỉ tiêu này cho biết: với tổng số tài sản hiện có, nhà thầu có bảo đảm trang
trải được các khoản nợ phải trả hay không. Nếu trị số chỉ tiêu "Hệ số khả năng
thanh toán tổng quát" của nhà thầu luôn lớn hơn hoặc bằng 1, nhà thầu bảo đảm
được khả năng thanh toán tổng quát và ngược lại; trị số này nhỏ hơn 1, nhà thầu
không bảo đảm được khả năng trang trải các khoản nợ. Trị số của “Hệ số khả năng
thanh toán tổng hợp” càng nhỏ hơn 1, nhà thầu càng mất dần khả năng thanh toán.
Thứ ba, hệ số khả năng thanh toán nhanh: là chỉ tiêu thể hiện mối quan hệ tỉ
lệ giữa số tiền có thể dùng thanh tốn ngay với tổng số tiền cần thanh toán.
Chỉ tiêu này được dùng để đánh giá khả năng thanh toán tức thời (thanh toán
ngay) các khoản nợ ngắn hạn của nhà thầu bằng tiền (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng,
tiền đang chuyển) và các khoản tương đương tiền. Nếu trị số của chỉ tiêu “Hệ số
khả năng thanh toán nhanh” quá nhỏ, nhà thầu có thể gặp khó khăn trong việc thanh
tốn cơng nợ - nhất là nợ đến hạn - vì không đủ tiền và tương đương tiền. Khi trị số
của chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán nhanh” lớn hơn hoặc bằng 1, mặc dầu nhà
thầu bảo đảm thừa khả năng thanh toán nhanh song do lượng tiền và tương đương
tiền quá nhiều nên sẽ phần nào làm giảm hiệu quả sử dụng vốn; từ đó, làm giảm
hiệu quả kinh doanh.
1.2.3. Hiệu quả sử dụng vốn của nhà thầu
Hiệu quả sử dụng vốn của nhà thầu muốn nói đến khả năng sử dụng nguồn
lực tài chính của nhà thầu trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình nhằm thu
lợi nhuận.
Khi phân tích hiệu quả sử dụng vốn của nhà thầu ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
Thứ nhất, hiệu quả sử dụng vốn tổng hợp: là chỉ tiêu thể hiện mối quan hệ tỉ
lệ giữa kết quả đầu ra với nguồn vốn bình quân của nhà thầu.
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
25
GVHD: TS. Vũ Thị Tuyết Mai
Chỉ tiêu này thể hiện hiệu suất sử dụng vốn của nhà thầu, trị số của nó càng
cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của nhà thầu càng cao.
Thứ hai, tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu: là chỉ tiêu thể hiện mối quan
hệ tỉ lệ giữa tổng lợi nhuận sau thuế với tổng nguồn vốn chủ sở hữu.
Tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cho biết cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu
của nhà thầu tạo ra bao nhiều đồng lợi nhuận dành cho cổ đông. Nếu tỷ số này
mang giá trị dương, là nhà thầu làm ăn có lãi; nếu mang giá trị âm là nhà thầu làm
ăn thua lỗ. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn của nhà thầu càng cao,
đặc biệt nếu vốn chủ sở hữu càng lớn thì tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu càng
nhỏ.
Thứ ba, tỉ lệ lợi nhuận trên vốn vay: là chỉ tiêu thể hiện mối quan hệ tỉ lệ
giữa tổng lợi nhuận sau thuế với tổng nguồn vốn vay.
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn nhà thầu đi vay để dùng vào sản xuất
kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng cao
thì hiệu quả sử dụng vốn vay của nhà thầu càng lớn.
1.2.4. Tình hình rủi ro về tài chính của nhà thầu
Nói đến tình hình rủi ro về tài chính của nhà thầu là ta xem xét tổng hợp các
yếu tố về khả năng thanh toán, quy mô nguồn vốn – tài sản của nhà thầu và hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Để phân tích tình hình rủi ro về tài chính của doanh nghiệp ta sử dụng các
chỉ tiêu:
Thứ nhất, hệ số nợ trên tổng tài sản: là chỉ tiêu thể hiện mối quan hệ tỉ lệ
giữa tổng số nợ với tổng tài sản.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro về tài chính của nhà thầu vì nó cho thấy
tài sản của nhà thầu có đủ bù đắp nợ hay khơng. Trị số của nó càng lớn thì mức độ
rủi ro về tài chính càng cao.
Thứ hai, hệ số thanh tốn lãi vay: là chỉ tiêu thể hiện mối quan hệ tỉ lệ giữa
lợi nhuận trước thuế và lãi vay so với chi phí lãi vay.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng trả lãi của nhà thầu. Trị số của chỉ tiêu này
nếu lớn hơn 1 thì nhà thầu hồn tồn có khả năng trả lãi vay. Nếu nhỏ hơn 1 thì
chứng tỏ nhà thầu đã vay quá khả năng của mình hoặc hoạt động kinh doanh kém
hiệu quả nên lợi nhuận thu được không đủ để trả lãi vay.
2. Năng lực kinh nghiệm thi công
SVTH: Vũ Thị Hiểu
Lớp: Kế hoạch 48A