Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Tăng cường huy động vốn từ khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam – Phòng giao dịch Đội Cấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.8 KB, 59 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là một trong những tổ chức
quan trọng nhất của nền kinh tế. Nó có vai trò rất quan trọng đối với việc ổn
định và phát triển kinh tế của một đất nước. Nền kinh tế của một quốc gia chỉ
phát triển với tốc độ cao và ổn định khi có chính sách tài chính tiền tệ đúng
đắn. Đồng thời hệ thống ngân hàng phải hoạt động đủ mạnh và có hiệu quả
cao, có khả năng thu hút tập trung các nguồn vốn và phân bổ có hiệu quả các
nguồn vốn đó.
Ở nước ta, từ khi thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa nền kinh tế,
chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, hệ thống ngân hàng ngày càng đóng vai trị quan trọng trong
q trình phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt là trong công cuộc cơng nghiệp
hố - hiện đại hố đất nước.
Ngân hàng chính là nơi tích tụ, tập trung, khơi dậy và động viên các
nguồn lực cho phát triển kinh tế và đóng một vai trò quan trọng trong việc
cung cấp vốn cho hoạt động của nền kinh tế quốc dân, góp phần quan trọng
vào thành tựu tăng trưởng chung của nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện các
chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ.
Xuất phát từ đặc thù là một quốc gia nông nghiệp, vừa mới ra khỏi
khủng hoảng kinh tế chưa lâu, nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại
hoá nền kinh tế Việt Nam để đạt tới tốc dộ phát triển nhanh hơn, bền vững
hơn là hết sức nặng nề. Một vấn đề xuyên suốt q trình cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước hiện nay đó là việc huy động và sử dụng nguồn vốn
đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chỉ có huy động tập trung
ngày càng nhiều và bố trí sử dụng hiệu quả theo cơ cấu hợp lý các nguồn vốn
đầu tư thì mới tạo ra động lực đưa nền kinh tế Việt Nam tiến kịp với các nước
tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38


1

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, Ngân hàng Quốc tế Việt
Nam và Ngân hàng Quốc tế Phịng giao dịch Đội Cấn nói riêng thơng qua
hoạt động của mình đã khơng ngừng mở rộng quan hệ với các thành phần
kinh tế. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh các ngân hàng thương mại
cũng gặp rất nhiều khó khăn trong q trình huy động vốn. Làm thế nào để
tăng cường huy động vốn từ khách hàng cá nhân, tạo nguồn vốn dồi dào,
chất lượng cao đáp ứng cho sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đất
nước đang là vấn đề được quan tâm và tìm biện pháp thực hiện.
Sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu, với mong muốn góp một phần
nhỏ vào việc tăng cường huy động vốn của Ngân hàng Quốc tế - Phòng giao
dịch Đội Cấn, em chọn đề tài:
“Tăng cường huy động vốn từ khách hàng cá nhân tại Ngân hàng
TMCP Quốc tế Việt Nam – Phòng giao dịch Đội Cấn.”
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm ba phần:
CHƯƠNG 1: Huy động vốn từ khách hàng cá nhân của ngân
hàng thương mại
CHƯƠNG 2: Thực trạng huy động vốn từ khách hàng cá nhân
tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam – Phòng giao dịch Đội
Cấn.
CHƯƠNG 3:Giải pháp tăng cường huy động vốn từ khách hàng
cá nhân tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam – Phòng giao
dịch Đội cấn.


Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

2

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

CHƯƠNG I:
HUY ĐỘNG VỐN TỪ KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm, chức năng, vai trò của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín
dụng có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có
nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại.
Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ
tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp và cơ sở nào thường xun nhận
của cơng chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ
dùng cho chính họ và nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài
trợ đầu tư.
Theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 của Việt Nam: Ngân hàng
thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và

chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hồn trả và sử dụng
số tiền đó để cho vay, chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.

Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

3

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Theo luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam có hiệu lực vào tháng
10/1998 “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”.
Nghị định của Chính phủ số 49/20001NĐ-CP ngày 12/9/2000 định
nghĩa: “Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu
lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước”.
Tầm quan trọng của Ngân hàng Thương mại được thể hiện qua các chức
năng của nó. Các chức năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía
cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung bao gồm ba chức năng chính sau:
Chức năng trung gian tài chính.
NHTM là cầu nối giữa cung vốn và cầu vốn. Nó tập trung những nguồn
tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để tài trợ lại cho nền kinh tế. NHTM với vai
trị là trung gian tài chính đứng ra tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, điều
hoà cung và cầu vốn trong các doanh nghiệp của nền kinh tế, đã góp phần
điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp khơng bị gián đoạn. Trung gian tài chính đã làm tăng thu
nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm tín

dụng cho người đầu tư, từ đó mà khuyến khích đầu tư.
Trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hoá dịch vụ, thu hộ tiền, thanh toán hộ khách hàng. Q trình lưu thơng
chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người bán có một đặc
điểm phi vật chất, vì khơng giống như tiền giấy được chuyển từ tay người này
thực sự sang tay người khác mà chính là đồng tiền ghi sổ, góp phần thích ứng
với các nhu cầu giao dịch.

Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

4

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Hiện nay, các loại phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt: séc, uỷ
nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, L/C, thẻ thanh toán, cung cấp mạng lưới thanh tốn
điện tử.
Các trung tâm thanh tốn khơng chỉ trong phạm vi quốc gia mà vươn ra
tầm quốc tế đã làm tăng tính hiệu quả của thanh tốn qua ngân hàng, biến
ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ
đắc lực cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền (tạo phương tiện thanh toán)
Khi Ngân hàng thực hiện chức năng thứ nhất và thứ hai cũng là đang
thực hiện chức năng tạo tiền.
Quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thơng qua hoạt động tín

dụng và thanh tốn trong hệ thống ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với
hệ thống ngân hàng trung ương của mỗi nước. Đó là khả năng biến tiền gửi
ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn
hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều
ngân hàng. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán
của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ.
Hơn nữa, toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở
cho vay.
Vai trò của NHTM được xác định trên cơ sở các chức năng và trên cơ sở
các nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn.
Vai trị thực thi chính sách tiền tệ.
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về Ngân hàng Trung ương; để
thực thi chính sách tiền tệ đó phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt
buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn mức tín dụng…Chính các NHTM là
chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những cơng cụ này và đồng thời đóng
vai trị cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến
khu vực phi ngân hàng và đến nền kinh tế. Ngược lại, cũng qua NHTM và các
định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản lượng, giá cả, công ăn việc
Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

5

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

làm, nhu cầu tiền mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá… của nền kinh tế
được phản hồi về cho Ngân hàng Nhà nước để Chính phủ và NHNN có những

chính sách điều tiết thích hợp với tình hình cụ thể.
Bằng chính sách và những biện pháp tín dụng, NHTM đáp ứng nhu cầu
vốn bổ sung kịp thời cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thuộc các
lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ. Doanh nghiệp sử dụng vốn vay, khi đến
hạn phải hoàn trả vốn kèm theo lãi vay cho ngân hàng, điều đó buộc các
doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng khi sử dụng vốn sao cho mang lại hiệu
quả cao nhất.
Trong q trình đổi mới, hệ thống ngân hàng có tầm quan trọng đặc
biệt, là kênh cơ bản cung ứng vốn cho nền kinh tế để thực hiện các chỉ tiêu vĩ
mơ của nền kinh tế. Ngồi cho vay thương mại đối với các tổ chức và cá
nhân, hệ thống ngân hàng cịn là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ như cho vay đối với hộ nghèo,
vùng sâu, vùng xa, góp phần hạn chế đáng kể sự chênh lệch phát triển giữa
các nhóm thu nhập và giữa các vùng trong nước, từng bước chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa.
Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ,
NHTM còn thực hiện cung cấp các dịch vụ trung gian, khơng những góp phần
tăng thêm thu nhập cho Ngân hàng mà cịn giúp các chủ thể tham gia thanh
tốn, tiết kiệm chi phí, tiết kiệm thời gian, đồng thời giúp doanh nghiệp thu
hồi tiền bán hàng nhanh để tiếp tục quá trình luân chuyển vốn tiếp theo, tạo
thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp, đảm bảo an tồn, đẩy nhanh tốc
độ lưu chuyển vốn, góp phần tạo nên “văn minh tiền tệ” cho xã hội.
Vai trị góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mơ.
Chính sách tiền tệ là loại cơng cụ của chính sách can thiệp bằng kinh tế,
dựa trên bản thân cơ chế thị trường và các quy luật vận động của nó. Nhưng
Ngân hàng Nhà nước không trực tiếp giao dịch với công chúng, do đó phải
dựa vào thơng tin phản hồi từ các định chế tài chính trung gian để làm căn cứ
soạn thảo chính sách tiền tệ. Như vậy, rõ ràng là nếu khơng có hệ thống
Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38


6

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chun đề thực tập tốt nghiệp

NHTM hồn chỉnh, khơng có thơng tin phản hồi do hệ thống NHTM cung
cấp, thì việc hoạch định chiến lược và soạn thảo chính sách tiền tệ của Ngân
hàng nhà nước sẽ khơng hồn hảo.
Chính sách tiền tệ được thiết kế và khởi động từ NHNN lan ra đến mọi
ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động dây truyền của hệ thống
NHTM và các tổ chức tài chính trong nước. Như vậy, nếu khơng có sự chấp
hành cảu hệ thống NHTM thì ý đồ và chính sách tiền tệ của NHNN sẽ khơng
thực hiện được.
1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại
 Huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư
và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho
NHTM - đóng vai trị quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của
ngân hàng. Ngân hàng huy động vốn nhằm thực hiện cho vay và thực hiện các
dịch vụ ngân hàng.
Ngân hàng huy động các nguồn vốn khác nhau (tài sản nợ) bao gồm:
những khoản mà nhân dân gửi vào, những khoản ngân hàng đi vay các đối
tượng khác trong nền kinh tế như ngân hàng Trung ương, các ngân hàng hay
các tổ chức tài chính khác, vay trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ…Đặc
điểm của tiền gửi là chúng phải được thanh tốn khi khách hàng u cầu ngay
cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn. Quy mơ tiền gửi rất lớn so với
các nguồn khác. Thông thường nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và
là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng. Tiền gửi là đối tượng

phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền
gửi. Bên cạnh đó, tiền vay chiếm tỷ trọng thấp hơn trong tổng nguồn và có vai
trị quan trọng. Các khoản vay thường có thời hạn và quy mơ xác định trước,
do vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân
hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên: ngân hàng chỉ đi vay lúc cần
Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

7

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

thiết; ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với
nhu cầu sử dụng. Nguồn vay có thể khơng phải chịu dự trữ bắt buộc.

Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

8

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

 Tài trợ cho nền kinh tế
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM,
phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng, mục
tiêu chủ yếu của ngân hàng là kiếm được lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ các

nhu cầu tín dụng của cộng đồng.
Ngân hàng cung cấp cho các đối tác những điều kiện cần thiết để họ thực
hiện các hoạt động theo mục tiêu của họ và trên cơ sở đó tìm kiếm thu nhập.
Đối tác của ngân hàng có thể là: các doanh nghiệp, các hộ gia đình, chính
phủ…có nhu cầu sẽ nhận được sự tài trợ của ngân hàng nếu đáp ứng được đầy
đủ các yêu cầu của ngân hàng.
Mối quan hệ giữa NHTM, người gửi tiền và người đi vay đều dựa vào
lòng tin của nhau để giải quyết tình trạng thừa hay thiếu vốn của các chủ thể
nêu trên.
Các hình thức tài trợ: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ cho
các dự án…Cho vay thương mại: ngân hàng có thể thực hiện chiết khấu
thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với người bán hoặc cho vay trực tiếp
đối với khách hàng là người mua. Cho vay tiêu dùng: sự gia tăng thu nhập của
người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới
người tiêu dùng như là khách hàng tiềm năng. Tài trợ cho các dự án: bên
cạnh việc cho vay ngắn hạn, ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong
việc tài trợ trung, dài hạn. Tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển công nghệ
cao, cho vay bất động sản…
 Thực hiện các dịch vụ ngân hàng
- Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh tốn: các tiện ích
của thanh tốn khơng dùng tiền mặt (an tồn, nhanh chóng, chính xác, tiết
kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập
cho khách hàng.

Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

9

Trường ĐH Kinh tế quốc dân



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

- Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: các cá nhân và doanh nghiệp nhờ
ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ, tư vấn đầu tư,
quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp.
- Dịch vụ bảo lãnh: ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng của mình mua
chịu hàng hố trang thiết bị, phát hành chứng khốn, vay vốn của các tổ chức
tín dụng khác.
- Cho thuê tài chính: nhằm đáp ứng nhu cầu thuê dài, tài sản thuê có giá
trị lớn, ngân hàng cho khách hàng thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thơng
qua hợp đồng th mua.
- Ngồi ra, ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ khác như: Cung cấp dịch vụ
mơi giới đầu tư chứng khốn, Dịch vụ bảo hiểm, Bảo quản tài sản hộ…
1.2 Huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Vai trò của vốn
Khái niệm về vốn
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói về vốn, vậy vốn là gì. Vốn là
tư bản mang lại giá trị thặng dư “từ quan điểm đó ta thấy sự cần thiết của vốn
trong nền kinh tế: thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế xây dựng và
phát triền cơ sở hạ tầng, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đáp ứng mọi yêu
cầu cải tạo, đầu tư, đổi mới trong mọi lĩnh vực.
Vai trò của vốn trong hoạt động kinh tế NHTM
Sản phẩm của các NHTM là “tiền”, các ngân hàng kinh doanh tiền tệ
nên chức năng chủ yếu của ngân hàng là “huy động để cho vay” đây là nghiệp
vụ mang lại phần lớn lợi nhuận của NHTM, do đó vốn là cần thiết giúp các
NHTM chủ động trong việc cho vay và đầu tư. Khi một ngân hàng có nguồn
vốn dồi dào, ổn định cũng giúp cho khả năng đa dạng hóa loại hình dịch vụ
của mình.


Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

10

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Vốn của một NHTM cũng tác động vào yếu tố tâm lý khách hàng, tạo
ra uy tín ngân hàng trên thị trường. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của
ngân hàng, quy mô, phương tiện hiện đại là tiền đề thuận lợi để ngân hàng mở
rộng quan hệ tín dụng, kinh doanh, đa dạng, phân tán rủi ro.
Như vậy vốn có vai trị to lớn đối với sự nghiệp tăng trường và phát
triển kinh tế, là nhân tố đóng vai trị quyết định cho sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với các NHTM vốn có vai trị nền tảng quyết
định đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Để có thể huy động tối đa các nguồn vốn và chiếm được tỷ trọng huy
động vốn cao trên thị trường khi lựa chọn hình thức huy động các ngân hàng
nên chú ý đến một số nguyên tắc sau.
1.2.2 Nguyên tắc khi tiền hành huy động vốn
Các ngân hàng thương mại muốn đạt mục tiêu lợi nhuận phải lựa chọn
các nguồn vốn đảm bảo:
+ An tồn
+ Chi phí thấp
+ Tăng khả năng sinh lời
Ngun tắc chi phí thấp
Một số phương pháp xác định mức lãi suất huy động
Phương pháp “chi phí lãi suất”
Chi phí lãi suất bình qn


Chi phí lãi suất huy động

=

=

Tổng lãi phải trả
Tổng vốn huy động

Chi phí lãi suất + chi phí hoạt động khác

Tổng tài sản sinh lời
hịa vốn
Tổng chi phí vốn bình qn = chi phí lãi suất huy động hòa vốn + tỷ
suất lợi nhuận trước thuế của cổ đơng góp vốn vào ngân hàng.
Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

11

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chun đề thực tập tốt nghiệp

Phương pháp “chi phí bình quân”
Tổng chi phí vốn huy động

=


mới

Tổng chi phí hoạt động
Tổng vốn mới huy động

Tổng chi phí hoạt động
Tổng vốn khả dụng sinh lời
Phương pháp “chi phí và thu nhập mong đợi
Tổng huy động hịa vốn

=

Để có thể cung cấp các nghiệp vụ liên quan đến tài khoản miễn phí, các
ngân hàng phải tiến hành tính phí cho việc cung cấp các nghiệp vụ tài khoản
tiền gửi theo công thức.

Đơn giá cho

Chi phí hoạt

mỗi dịch vụ = động cho một +
tiền gửi

đơn vị tiền gửi

Phân bổ chi phí hoạt
động chung của Ngân
hàng cho chức năng
hoạt động vốn


Mức lợi nhuận
mong đợi từ
+ việc cung cấp

một đơn vị tiền
gửi

Phương pháp “chi phí bình qn gia quyền”
Ngân hàng phải tính tốn mức chi phí của từng nguồn vốn kinh doanh,
có tính đến cơ cấu vốn.
Chi phí vốn trước thuế.
n

I=

R

t =1

t

. it / A* & t

I: Chi phí vốn bình qn
Rt: Nguốn vốn huy động loại t
Lt: Lãi suất huy động của nguồn vốn loại t
A: Tổng nguồn vốn huy động
r: Tỷ trọng vốn khả dụng của nguồn vốn loại t
n: Số loại nguồn vốn huy động
Phương pháp “chi phí biên”

Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

12

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Chi phí biên = Thay đổi trong tổng chi phí = Lãi suất mới x Tổng số
huy động theo lãi suất mới – Lãi suất cũ x Tổng số vốn huy động theo lãi suất
cũ.
Tỷ lệ chi phí biên

=

Thay đổi trong tổng chi phí
Vốn huy động tăng thêm

Phương pháp “thâm nhập thị trương”
Phương pháp “ khách hàng mục tiêu”
Nguyên tắc đảm bảo an toàn
Mỗi NHTM trong hoạt động kinh doanh đều gặp khó khăn phải đối mặt
với rủi ro. Rủi ro trong ngân hàng là rất lớn khác hẳn so với các ngành nghề
khác, đặt ra cho những người làm ngân hàng phải hạn chế rủi ro.
Vốn của ngân hàng 70% là của xã hội, mối quan hệ trong ngân hàng
hết sức đa dạng trong lịng thị trường, sản phẩm mang tính xã hội hóa và tính
cộng đồng cao, sự đổ vỡ của ngân hàng khơng chỉ mình ngân hàng phải gánh
chịu mà nó gẩy phản ứng dây truyền tạo ra hậu quả nghiệm trọng cho xã hội.
Do vậy trong q trình huy đơng vốn mọi NHTM phải đảm bảo tìm kiếm

vùng an tồn.
Về mặt nguyên tắc những nguồn vốn dài hạn sẽ được đầu tư vào những
tài sản dài hạn tuy nhiên trong thực tế NHTM phải tính tới yếu tố vịng quay
của vốn, tức là có thể hốn đổi kỳ hạn dùng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho
tài sản dài hạn.
Để đảm bảo an tồn, tránh tình trạng mất khả năng thanh toán các
NHTM phải làm cân bằng kỳ hạn đến hạn của tài sản và kỳ hạn đến hạn của
nguồn vốn, tuy nhiên trong thực tế dù kỳ hạn đến hạn của tài sản bằng kỳ hạn
đến hạn của nguồn vốn, NHTM vẫn phải chịu thiệt hại do lãi suất thay đổi,

Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

13

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

nếu như phương thức thanh toán gốc và lãi khác nhau. Các NHTM cũng nên
xem xét độ nhạy cảm của lãi suất đối với các khoản mục vốn và tài sản.
Tóm lại q trình huy động vốn các NHTM nên chú ý tới các nguyên
tắc trên để đảm bảo lực chọn được những nguồn tốt nhất.
+ Gia tăng thu nhập cho ngân hàng
+ Ổn định thu nhập cho ngân hàng
+ Phòng chống rủi ro
1.3 Các nguồn hình thành nên nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn chủ sở hữu.
Bất kì một ngân hàng nào bắt đầu hoạt động đều phải có một lượng vốn
nhất định,gọi là vốn chủ sở hữu hay vốn tự có. Đây là loại vốn ngân hàng có

thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng.
Nguồn vốn này tuy chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn nhưng được coi
là đệm chống rủi ro, bảo đảm an toàn cho sự hoạt động của tất cả các ngân
hàng. Đồng thời quy mô nguồn vốn cho thấy thực lực của ngân hàng, là cơ sở
để thu hút các nguồn vốn khách. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành
loại vốn này rất đa dạng, tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ
ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Vốn chủ sở hữu bao gồm
các thành phần sau:
Nguồn vốn hình thành ban đầu.
Nguồn vốn ban đầu hay Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình
thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định.
Đối với các NHTM quốc doanh thì 100% vốn pháp định ban đầu là vốn
do Nhà nước cấp.
Đối với các NHTM cổ phần thì vốn pháp định (vốn điều lệ) hình thành
do sự đóng góp của các cổ đơng dưới hình thức phát hành cổ phiếu.

Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

14

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Đối với các NHTM liên doanh thì vốn pháp định là vốn đóng góp của
các bên liên doanh. Còn vốn của ngân hàng tư nhân lại chính là vốn thuộc sở
hữu của chủ ngân hàng.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Gia tăng vốn chủ sở hữu là một hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng đối

với mỗi ngân hàng. Vốn chủ sở hữu càng lớn thì uy tín cũng như sức mạnh
của ngân hàng trên thị trường càng lớn. Để tăng vốn chủ sở hữu, các ngân
hàng thường lấy từ các nguồn sau:
- Nguồn từ lợi nhuận : Khi ngân hàng hoạt động có lợi nhuận thì lãnh
đạo ngân hàng thường có xu hướng gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách
chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Việc này có ý nghĩa tích
cực với mọi ngân hàng vì nó góp phần tạo thêm sự an tâm với các khách
hàng, đồng thời giúp ngân hàng tích luỹ tiền để đầu tư cơ sở vật chất, trang
thiết bị của ngân hàng nhằm tạo ra một hình ảnh ngân hàng đẹp hơn.
-

Nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp

thêm… để mở rộng quy mơ hoạt động của Ngân hàng hoặc đáp ứng yêu cầu
gia tăng vốn chủ do Ngân hàng nhà nước quy định. Tuy nhiên nguồn vốn này
khơng khơng phải lúc nào cũng có được. Đối với các ngân hàng Nhà nước,
việc được cấp thêm vốn tuỳ thuộc vào chính sách của nhà nước mỗi năm. Còn
đối với các ngân hàng cổ phần, việc tăng thêm vốn điều lệ bằng cách phát
hành thêm cổ phiếu mới đòi hỏi sự cân nhắc của hội đồng quản trị ngân hàng.
Không phải lúc nào một ngân hàng cũng có thể phát hành thêm cổ phiếu mới
vì việc này có thể gây ra nhiều tác động khơng tốt như: giá cổ phiếu ngân
hàng trên thị trường giảm, cổ tức của cổ đơng ít đi…

Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

15

Trường ĐH Kinh tế quốc dân



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Các quỹ.
Các quỹ của ngân hàng được lập ra với nhiều mục đích, nhằm hỗ trợ
cho các hoạt động khác nhau của ngân hàng. Những quỹ này đều được hình
thành từ thu nhập của ngân hàng.
- Quỹ dự phịng tổn thất: được trích lập hàng năm và được tích lũy lại
nhằm bù đắp những tổn thất đã và sẽ xảy ra.
- Quỹ bảo toàn vốn : nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của
lạm phát.
- Quỹ thặng dư: là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh
lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới.
Ngồi ra, các ngân hàng cịn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ
giám đốc…
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Đây là thành phần khá đặc biệt trong nguồn vốn chủ sở hữu bởi nó
được hình thành từ các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng. Một số
ngân hàng phát hành các trái phiếu có thời hạn lâu năm nhằm huy động vốn,
người nắm giữ những trái phiếu này đến một thời hạn nào đó sẽ chuyển thành
cổ đơng của ngân hàng và được hưởng lợi tức thay vì tiền lãi. Nguồn vốn này
xuất hiện ở các ngân hàng sắp cổ phần hố có tác dụng làm tăng vốn lượng
vốn dài hạn trong thời điểm hiện tại và tăng vốn chủ sở hưu trong tương lai.
Tại Việt Nam, trong quá trình cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương cũng đã
phát hành những trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phần. Những trái phiếu
này rất hấp dẫn các nhà đầu tư vì họ có cơ hội trở thành đồng sở hữu một
ngân hàng rất mạnh trong tương lai.
Kết luận: Vốn tự có hay vốn điều lệ càng lớn, sức chịu đựng của ngân
hàng càng lớn khi mà tình hình kinh tế và tình hình hoạt động ngân hàng trải
qua những giai đoạn khó khăn. Vốn tự có càng lớn, khả năng tạo lợi nhuận
càng lớn vì có thể đa dạng hố các nghiệp vụ ngân hàng, có cơ hội làm ra


Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

16

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

nhiều tiền hơn. Tuy nhiên khơng phải vốn tự có càng lớn càng tốt vì nếu nó
q lớn thì lợi nhuận chia cho các cổ đông cũng sẽ giảm, giá cổ phiếu cũng sẽ
giảm theo. Ngược lại, vốn tự có quá nhỏ sẽ cản trở hoạt động của ngân hàng.
Vậy tỷ lệ vốn tự có/tổng nguồn là bao nhiêu thì hợp lý ? Theo thoả ước Basel
vào năm 1992, các ngân hàng phải đạt hệ số vốn tự có so với tài sản có dựa
trên cơ sở rủi ro là : 8% ( còn gọi là hệ số Cook ). Đây được coi là tỷ lệ chuẩn
dùng để đánh giá mức vốn tự có của các ngân hàng. Nếu theo tỷ lệ này thì hầu
như khơng có ngân hàng nào tại Việt Nam có thể đáp ứng được vì phần lớn tỷ
lệ vốn tự có/tổng tài sản rủi ro của các ngân hàng này đều ở mức tù 5% đến
6%. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia
trên thế giới là khác nhau, nếu đem áp dụng 1 tỷ lệ cho tất cả thì khơng hợp lý
lắm. Vì nhiều ngân hàng có hệ số Cook nhỏ hơn 8% vẫn hoạt động khá tốt.
Do đó tỷ lệ chuẩn trên chỉ là tương đối, quan trọng hơn là cơ cấu vốn tự có
trong tổng nguồn của mỗi ngân hàng phù hợp với hoạt động của chính nó, đáp
ứng được các chính sách, quyết định của ngân hàng.
1.4 Các chiến lược huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.4.1. Đa dạng hoá sản phẩm huy động vốn.
Để thu hút được nhiều tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế, các
ngân hàng thương mại khơng ngừng đa dạng hố các sản phẩm huy động vốn
của mình. Các NHTM có thể tiến hành phát triển, đa dạng hoá sản phẩm dựa

trên nhiều tiêu chí như sau:
• Theo kì hạn và lãi suất:
Với các sản phẩm tiền gửi, NHTM thường chia ra nhiều kì hạn khác
nhau để khách hàng có thể chọn lựa các kì hạn gửi tiền phù hợp với nhu cầu
của mình.
-

Đối với tiền gửi ngắn hạn (< 12 tháng): ngân hàng phân loại tiền

gửi theo thời gian từng q: khơng kì hạn, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng.

Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

17

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

-

Đối với tiền gửi trung và dài hạn (> 12 tháng): các kì hạn tiền gửi

được chia ra thành: 18 tháng, 24 tháng, 36 tháng và 60 tháng.
Hầu hết các NHTM hiện nay đều phân loại tiền gửi theo các kì hạn
trên; do đó, để tạo sự khác biệt thu hút khách hàng gửi tiền, nhiều ngân hàng
đã chia nhỏ thời gian của kì hạn hoặc đưa ra nhiều kì hạn mới như: kì hạn 1
tháng, 2 tháng và 13 tháng. Các kì hạn mới này sẽ tạo cho người gửi tiền sự
linh hoạt trong khi rút và gửi tiền, đồng thời tăng thêm mức thu nhập từ lãi

suất tiền gửi.
Tương ứng với các kì hạn tiền gửi là các mức lãi suất khác nhau, tăng
dần theo thời gian của kì hạn gửi tiền. Biên độ giữa các mức lãi suất này dao
động trong khoảng 0,1%/tháng và rất khác nhau giữa các ngân hàng thương
mại. Sự cạnh tranh về lãi suất tiền gửi luôn diễn ra gay gắt ở từng mức lãi suất
tiền gửi cho các kì hạn. Mỗi một NHTM đều xây dựng những chiến lược lãi
suất riêng dựa trên mặt bằng lãi suất chung. Sự chênh lệch lãi suất giữa các
NHTM cổ phần và NHTM quốc doanh thường khá rõ ràng; điều này cũng dễ
hiểu vì: các NHTM quốc doanh có uy tín và thâm niên hoạt động lâu năm hơn
so với các NHTM cổ phần, để cạnh tranh thu hút vốn các NHTM cổ phần sẽ
phải tăng lãi suất của mình cao hơn mới hấp dẫn được khách. Chênh lệch lãi
suất giữa các NHTM luôn ảnh hưởng tới tâm lý của người gửi tiền, dù khoảng
cách đó nhiều khi khơng lớn. Nhiều khách hàng ln thích gửi tiền ở những
ngân hàng có lãi suất cao nhất để được hưởng tiền lãi nhiều hơn.
Bên cạnh đó, các NHTM hiện nay cũng phát triển các chứng chỉ tiền
gửi tương ứng với nhiều lượng tiền gửi khác nhau và áp dụng biểu lãi suất bậc
thang cho các chứng chỉ tiền gửi loại này để khuyến khích khách hàng gửi
nhiều tiền vì càng gửi nhiều càng được hưởng lãi cao.
• Theo tiện ích của sản phẩm.
Nói chung, những sản phẩm huy động vốn đều giống nhau về bản chất
nên để tạo sự khác biệt các NHTM thường tăng thêm nhiều tiện ích cho các
sản phẩm khiến cho khách hàng ưa thích chúng hơn. Việc làm này đòi hỏi sự
Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

18

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


sáng tạo của bộ phận phát triển sản phẩm trong mỗi ngân hàng. Các ngân
hàng thường đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn của họ dựa trên 2 cách:
Một là, đưa thêm các tiện ích mới vào các sản phẩm huy động truyền
thống. Chẳng hạn như đối với thẻ ATM,thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng ngồi chức
năng chính là cho phép khách hàng rút tiền mặt tại máy ATM, thanh toán hoá
đơn qua các máy POS, ngân hàng có thể đưa thêm một số tiện ích mới như:
Thanh tốn các loại cước phí (điện, nước, điện thoại....), trả lương, quản lý chi
tiêu cá nhân, được ưu đãi ở một số cửa hàng... Đối với các loại tiền gửi có kì
hạn, hiện nay ngân hàng có thể cho phép người gửi rút tiền trước kì hạn, dễ
dàng chuyển đổi kì hạn theo ý mình...Chi phí cho việc tăng thêm các tiện ích
mới cho các sản phẩm truyền thống cũng chiếm một phần đáng kể trong chi
phí huy động vốn chung. Do đó, tuỳ thuộc vào khả năng của từng ngân hàng
mà số tiện tích mới của các sản phẩm huy động vốn của chúng ít hay nhiều.
Hai là, phát triển sản phẩm hoàn toàn mới với những tiện ích nổi trội.
Đây là cơng việc rất khó khăn đối với hầu hết các ngân hàng thương mại.
Hiện nay, các loại sản phẩm huy động vốn được phát triển đã khá đầy đủ, đa
dạng, việc tạo ra một sản phẩm mới hoàn toàn khác biệt những sản phẩm cũ là
điều ít ngân hàng nào dám nghĩ tới, mà hầu hết họ đều đa dạng các sản phẩm
huy động vốn theo cách thứ nhất (dựa trên nền tảng các sản phẩm cũ).
Tóm lại, việc đa dạng hố các sản phẩm huy động vốn, chú ý phát triển
sản phẩm riêng biệt sẽ tạo dựng cho các ngân hàng thương mại những dấu ấn
nhất định đối với khách hàng gửi tiền, khuyến khích họ gửi tiền nhiều hơn,
làm tăng lượng vốn huy động cho các ngân hàng thương mại.
1.4.2. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, khuyến mại sản phẩm.
Bên cạnh việc đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn, các NHTM
đều không ngừng đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, khuyến mại sản phẩm của
mình đến với khách hàng. Đây là chiến lược huy động vốn rất hiệu quả trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng. Các hoạt động tiếp thị sản


Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

19

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

phẩm huy động vốn được các ngân hàng tiến hành bằng nhiều phương thức
khác nhau, chủ yếu là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như:
truyền hình, báo chí, tờ rơi, thư tay...Nội dung của các chương trình quảng cáo
này cũng được các ngân hàng thiết kế sao cho sản phẩm cũng như hình ảnh
của ngân hàng mình thật hấp dẫn người xem nhất. Bên cạnh hoạt động tiếp thị
sản phẩm, các ngân hàng cũng tổ chức các đợt khuyến mại để tăng cường huy
động vốn. Các đợt khuyến mại này thường được triển khai vào các thời điểm
trong năm như: đầu năm, giữa năm hay cuối năm, hoặc cũng có khi tuỳ thuộc
vào chiến lược huy động vốn của mỗi ngân hàng. Thơng thường các NHTM
triển khai chương trình khuyến mại lớn bằng các đợt huy động vốn dự thưởng
với tổng giá trị giải thưởng khá lớn, rất thu hút được sự tham gia của khách
hàng. Ngoài những đợt huy động dự thưởng lớn đó, các ngân hàng cũng triển
khai xen kẽ các đợt khuyến mại nhỏ với từng loại sản phẩm huy động vốn của
mình như: tặng quà khách hàng thân thiết, khách hàng gửi tiền với số lượng
lớn...
Những chi phí cho hoạt động tiếp thị và khuyến mại này cũng chiếm
phần khá lớn trong chi phí huy động vốn, địi hỏi các ngân hàng phải tính
tốn, cân nhắc kì lưỡng trước khi triển khai, để tránh việc lượng vốn huy động
được nhiều nhưng cho phí huy động lại quá lớn, thì hiệu quả huy động vốn
khơng cao.
1.4.3. Mở rộng mạng lưới chi nhánh; nâng cao trình độ, nghiệp vụ

cho cán bộ.
• Mở rộng mạng lưới chi nhánh.
Để thu hút được nhiều vốn từ dân cư, các ngân hàng thương mại cịn
khơng ngừng mở rộng mạng lưới chi nhánh của mình. Quy mơ, khả năng tài
chính của ngân hàng nào càng lớn thì số lượng chi nhánh của nó càng nhiều
và trải rộng trên nhiều nơi, khả năng thu hút càng lớn. Tuy nhiên trước khi lập
thêm chi nhánh các ngân hàng phải tìm hiểu rõ địa bàn đặt chi nhánh, dự đoán
được khả năng phát triển của chi nhánh trong tương lai, nếu không việc lập
Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

20

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

thêm chi nhánh sẽ không có tác dụng thu hút vốn mà cịn làm tăng chi phí
hoạt động cho ngân hàng.
• Nâng cao trình độ, nghiệp vụ cho cán bộ huy động vốn.
Cán bộ huy động vốn là những người trực tiếp xây dựng và triển khai
các chương trình huy động vốn của ngân hàng. Trình độ và nghiệp vụ của
những người này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả huy động vốn của các
ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng đều cố gắng lựa chọn cũng như đào tạo
các cán bộ của mình thành thạo về nghiệp vụ cũng bồi dưỡng nâng cao các
kiến thức về marketing và ngân hàng. Bên cạnh việc đào tạo trực tiếp cán bộ
tại nơi làm việc, các NHTM thường tổ chức các khoá bồi dưỡng, nâng cao
kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ ở các cơ sở trong nước và nước ngồi. Đây là
việc làm có ý nghĩa khá quan trọng cho công tác huy động vốn trong hiện tại
cũng như tương lai của ngân hàng.

1.5 Huy động vốn từ khách hàng cá nhân của Ngân hàng thương mại
1.5.1 Khái niệm huy động vốn từ khách hàng cá nhân
Huy động nguồn vốn khác nhau trong xã hội là mục tiêu quan trọng nhất
của các NHTM. NHTM phải cạnh tranh với những ngân hàng khác, với các tổ
chức tài chính, với nghiệp vụ thị trường trực tiếp để thu hút vốn phục vụ cho
các hoạt động của mình
Vốn của ngân hàng là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản của NH
được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, có thể là vốn tự có hoặc huy động
được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Huy động vốn từ khách hàng cá nhân là điều động tất cả các khoản tiền
gửi mà dân cư gửi vào Ngân hàng hoặc phát hành các loại giấy tờ có giá.
1.5.2 Các phương thức huy động vốn từ khách hàng cá nhân
 Tiền gửi tiết kiệm
- Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của Ngân hàng. Trong
hình thức huy động này, người gửi tiền được cấp một sổ tiết kiệm, sổ này
được coi là một giấy chứng nhận có gửi tiền vào quỹ tiết kiệm của Ngân
Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

21

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

hàng. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư được chia làm 2 loại: tiết kiệm có kỳ hạn
và tiết kiệm khơng kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: cũng giống như loại tiền gửi có kỳ hạn,
nó cũng có sự thỏa thuận về thời hạn rút tiền, nhưng nguồn hình thành của
tiền gửi tiết kiệm chủ yếu là tiền nhàn rỗi trong dân cư. Về tính chất thì tiền

gửi thanh tốn và tiền gửi tiết kiệm giống nhau, hiện nay vẫn còn sự phân biệt
này là do khi gửi tiết kiệm khách hàng được cấp một sổ tiết kiệm để giao dịch
với Ngân hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng gửi

tiền và rút tiền bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho Ngân hàng. Khi
gửi tiền khách hàng được hưởng lãi suất, góp phần tăng thêm lợi nhuận cho
khách hàng. Mặt khác, khi có nhu cầu sử dụng thì khách hàng chủ động rút ra,
nên vẫn thỏa mãn nhu cầu về vốn của họ. Ngồi ra, khách hàng cịn được
phép sử dụng tiền gửi để phục vụ cho cơng tác thanh tốn khơng dùng tiền
mặt qua Ngân hàng. Mặc dù đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền có thể
gửi tiền và rút tiền bất cứ lúc nào, song giữa việc gửi tiền và rút tiền có sự
chênh lệch về thời gian và số lượng nên trên các loại tài khoản này ln có số
dư, Ngân hàng có thể huy động số dư đó làm nguồn vốn tín dụng để cho vay.
 Tiền gửi thanh toán
Đây là tiền của cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và
thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu
thanh toán cho khách hàng khi họ có u cầu. Nhìn chung lãi suất của loại
tiền gửi này rất thấp nhưng thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng
những dịch vụ ngân hàng với mức chi phí thấp.
 Phát hành các giấy tờ có giá
Các giấy tờ có giá là cơng cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động
vốn trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sử dụng cho một

Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

22

Trường ĐH Kinh tế quốc dân



Chun đề thực tập tốt nghiệp

mục đích nào đó. Lãi suất của loại này phụ thuộc vào sự cấp thiết của việc
huy động vốn nên thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn thơng thường.
Các giấy tờ có giá do ngân hàng thương mại phát hàng bao gồm kỳ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá.
 Cung cấp dịch vụ ủy thác
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện quản lý tài sản và quản
lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại và thu phí
trên cơ sở giá trị tài sản hay quy mô vốn họ quản lý. Dịch vụ này được gọi
là dịch vụ ủy thác. Hiện nay ngân hàng đang cung cấp hai loại dịch vụ ủy
thác là: ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình và dịch vụ ủy thác
thương mại cho các doanh nghiệp.
Dịch vụ ủy thác cá nhân giúp khách hàng thực hiện việc tiết kiệm các
khoản tiền cho các mục đích riêng trong tương lai. Khách hàng gửi tại
ngân hàng một số tiền nhất định, ngân hàng sẽ thay khách hàng quản lý và
đầu tư khoản tiền đó cho đến khi khách hàng cần. Trong ủy thác thương
mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và kế hoạch tiền
lương cho các cơng ty kinh doanh. Ngân hàng cịn đóng vai trị đại lý cho
các cơng ty này trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Ở các nước
phát triển, dịch vụ ủy thác là một dịch vụ đem lại nhiều lợi nhuận cho các
ngân hàng thương mại.
1.5.3 Tăng cường huy động vốn từ khách hàng cá nhân
1.5.3.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ngân hàng cũng như các tổ chức
tín dụng khác đang phải đối mặt với các cuộc cạnh tranh khốc liệt. Bất kỳ
biến động nào dù nhỏ hay lớn đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Vì vậy, tăng cường huy động vốn từ khách hàng cá nhân không


Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

23

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

chỉ đánh giá hoạt động huy động vốn nói riêng mà cịn phản ánh khả năng
thích nghi và khẳng định sự phát triển trên thị trường của ngân hàng.
1.5.3.2

Các chỉ tiêu đánh giá tăng cường huy động vốn từ khách hàng cá

nhân.
- Tăng trưởng về số dư huy động vốn từ khách hàng cá nhân.
Chỉ tiêu này phản ánh về số lượng khách hàng cá nhân có quan hệ gửi
tiết kiệm, tiền gửi thanh tốn với ngân hàng qua các năm.
- Tốc độ tăng số dư huy động vốn đối với khách hàng cá nhân
Số dư huy động vốn của khách hàng cá
nhân năm sau
Tốc độ tăng số dư huy động vốn =
Số dư huy động vốn của khách hàng cá
nhân năm trước

Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng số dư huy động vốn đối với khách
hàng cá nhân qua các năm.
- Tỷ trọng huy động vốn từ khách hàng cá nhân
Số dư huy động vốn khách hàng

cá nhân
Tỷ trọng huy động vốn từ khách hàng cá nhân=
Tổng số dư huy động vốn của
Ngân hàng
Số dư huy động vốn = số lượng khách hàng x số tiền gửi của mỗi khách hàng

Chỉ tiêu này phản ánh quy mô huy động vốn từ khách cá nhân của ngân
hàng. So sánh chỉ tiêu này qua các năm cho thấy sự thay đổi cơ cấu huy động
vốn đối với khách hàng cá nhân trong tổng huy động vốn của ngân hàng.
1.6 Các nhân tố ảnh hưởng tới tăng cường huy động vốn từ khách hàng
cá nhân
Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

24

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

1.6.1 Các nhân tố chủ quan
Chính sách lãi suất của ngân hàng:
Lãi suất được coi là giá cả của các sản phẩm dịch vụ tài chính. Ngân
hàng sử dụng hệ thống lãi suất tiền gửi như một công cụ quan trọng trong việc
huy động tiền gửi và thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hút thêm
nguồn vốn, ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh, thực hiện những
ưu đãi về giá cho những khách hàng lớn, gửi tiền thường xuyên. Hơn nữa hệ
thống lãi suất cần linh hoạt, phù hợp với quy mô và cơ cấu nguồn vốn.
Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần phải chú ý rất nhiều đến lãi suất tiền
vay để có thể có các hoạt động kinh doanh hợp lý, đem lại các khoản thu nhập

cao nhất cho ngân hàng để bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra và vẫn
mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Mạng lưới huy động vốn của ngân hàng:
Mạng lưới hoạt động của ngân hàng và các hình thức huy động vốn
càng đa dạng, phong phú thì kết quả huy động vốn càng nhiều về số lượng do
việc thực hiện được dịch vụ trọn gói và mở rộng dịch vụ ngân hàng. Các
khoản tiền tiết kiệm của dân cư thường là các khoản tiền nhỏ. Vì vậy, nếu việc
tiếp cận với ngân hàng khó khăn sẽ tạo ra cho khách hàng tâm lý ngại đến
ngân hàng. Với một mạng lưới rộng khắp, tạo ra sự sễ dàng trong việc tiếp
cận ngân hàng của người dân thì ngân hàng sẽ dễ dàng thu hút được các
khoản tiền gửi đó một cách có hiệu quả.
Hoạt động Marketing của ngân hàng:
Mục tiêu cuối cùng là thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng vừa đảm
bảo khả năng sinh lời, khả năng cạnh tranh an tồn trong kinh doanh thì
marketing đã trở thành công cụ không thể thiếu được trong ngân hàng thương
mại hiện nay.
Hoạt động ngân hàng có tính xã hội hố cao, phụ thuộc chặt chẽ vào
mơi trường kinh doanh như môi trường dân cư, môi trường kinh tế, môi
trường chính trị,... nên sự thay đổi của bất kỳ yếu tố nào cũng ảnh hưởng quan
Trịnh Thị Thanh Nhàn – Ngân hàngK38

25

Trường ĐH Kinh tế quốc dân


×