Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận cao học_công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – lễ hội hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ trên địa bàn tỉnh Đắk Nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.84 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................................3
CHƯƠNG I....................................................................................................................................................4
VĂN HÓA VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG CÔNG TÁC BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỄ HỘI HOA VĂN CỒNG CHIÊNG VÀ NHẠC CỤ CÁC DÂN TỘC TẠI
CHỖ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG.........................................................................................................4
1.1. Văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống..........................................................................................4
1.1.1. Văn hóa......................................................................................................................................4
1.1.2. Những văn hoá truyền thống tiêu biểu ở miền Trung - Tây Nguyên.......................................4
1.1.2.1. Những văn hoá vật thể......................................................................................................5
1.1.2.2. Những văn hoá phi vật thể tiêu biểu.................................................................................6
1.1.3. Giá trị văn hoá...........................................................................................................................7
1..1.3.1.Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội..........................................................................7
1.1.3.2. Văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội....................................................................7
1.1.3.3. Văn hóa là mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội..............................................................8
1.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – lễ hội hoa văn
cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ trên địa bàn tỉnh Đắk Nông..............................................8
1.2.1. Di sản văn hóa của tỉnh Đăk Nơng............................................................................................8
1.2.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – lễ hội hoa
văn cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.................................10
1.2.2.1. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn...................................................................................10
1.2.2.2. Nguyên nhân....................................................................................................................12
CHƯƠNG II.................................................................................................................................................14
MỤC TIÊU VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ
TRỊ VĂN HÓA – LỄ HỘI HOA VĂN CỒNG CHIÊNG VÀ NHẠC CỤ CÁC DÂN TỘC TẠI CHỖ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK NÔNG........................................................................................................................................14
2.1. Mục tiêu.........................................................................................................................................14
2.1.1. Bảo đảm tính nguyên gốc, tính xác thực lịch sử:...................................................................14
2.1.3. Bảo tồn, giữ gìn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc trong q trình
phát triển, hội nhập quốc tế.............................................................................................................15
2.2. Kiến nghị các giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – lễ hội, hoa văn cồng chiêng và
nhạc cụ các dân tộc tại chỗ trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.....................................................................15


2.2.2. Tạo lập mơi trường hoạt động cho các loại hình di sản:........................................................16
1


2.2.4. Kiện toàn bộ máy lãnh đạo, quản lý......................................................................................17
KẾT LUẬN...................................................................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................19

2


LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập quốc tế, các quốc gia dân tộc cần phải hướng tới
việc tôn trọng sự đa dạng văn hóa và bảo vệ, tơn vinh bản sắc văn hóa dân tộc
để tạo nền tảng tinh thần cho phát triển.Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá
dân tộc là một trong hai nội dung cơ bản của sự kế thừa trong sự phát triển của
văn hố, bởi vì nếu khơng bảo tồn và phát huy di sản văn hố dân tộc thì văn
hố khơng tồn tại và phát triển đúng với bản chất của nó; tính dân tộc sẽ “mờ
đi”, sẽ mất đi, sẽ hồ tan trong tính nhân loại. Trước sự mai một, thất truyền
của văn hóa truyền thống, tác động tiêu cực của văn hóa ngoại lai, bảo tồn phát
huy các lễ hội văn hóa các dân tộc thiểu số là một trong những nhiệm vụ chính
trị được Đại hội Đảng bộ tỉnh Đăk Nông lần thứ X đã xác định “chăm lo phát
triển văn hóa, bảo vệ nền tảng đạo đức xã hội”.
Trong những năm qua công tác bảo tồn phát huy các lễ hội văn hóa các
dân tộc thiểu số đã đạt được những kết quả nhất định. Việc sưu tầm, điều tra
khảo sát các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được triển
khai với quy mơ rộng khắp, góp một phần ngăn chặn sự xuống cấp, mai một của
các di sản văn hóa
Tuy nhiên, việc phát huy văn hóa truyền thống của tỉnh đang phải đối
mặt với những khó khăn, cơng tác bảo tồn chưa mang tính bền vững, biện pháp

lưu giữ, truyền bá cịn rất nhiều hạn chế. Hiện dịng văn hóa, văn nghệ dân
gian của dân tộc Kinh và nhiều dân tộc khác trong tỉnh đang được lưu truyền
bằng chữ viết thành văn trong khi văn hóa, văn nghệ dân gian của các dân tộc
như: M’Nông, Mạ, Ê đê lại được lưu truyền bằng cách cầm tay chỉ việc, truyền
khẩu...từ đời này sang đời khác, dẫn đến thất lạc, mai một.
Đặt biệt trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vấn đề bảo
tồn phát huy các lễ hội văn hóa các dân tộc thiểu số địi hỏi phải có phương
pháp tổ chức thực hiện một cách khoa học phù hợp với xu thế, yêu cầu của thực
tiễn mới đem lại kết quả như mong muốn.
Từ yêu cầu trên, đề tài này sẽ nêu ra những nội dung thực tiễn và đề xuất
các kiến nghị cho công tác bảo tồn và phát huy các lễ hội văn hóa các dân tộc
thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Nông cho những năm tới

3


CHƯƠNG I
VĂN HÓA VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG, NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA TRONG CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ
TRỊ VĂN HÓA – LỄ HỘI HOA VĂN CỒNG CHIÊNG VÀ NHẠC CỤ
CÁC DÂN TỘC TẠI CHỖ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NƠNG
1.1. Văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống
1.1.1. Văn hóa.
Hiện nay, trong ngơn ngữ tất cả các dân tộc trên thế giới đều có khái niệm
văn hố. Tuỳ theo góc độ tiếp cận khác nhau mà văn hố có nhiều định nghĩa
khơng thật như nhau. Với tư cách là một giá trị, khái niệm về văn hóa được hiểu
như sau:
Văn hố là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và phát minh trong quá trình lịch sử của chính con người hướng tới giá trị chân,
thiện, mỹ.

Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày
về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hố”.
Văn hố là một giá trị rộng lớn, nhưng giá trị phổ biến nhất, đặc trưng nhất
là giá trị chân, thiện, mỹ và các giá trị này được xem là những trụ cột vĩnh hằng
để tạo nên nền văn hoá, văn minh nhân loại.
1.1.2. Những văn hoá truyền thống tiêu biểu ở miền Trung - Tây Nguyên
Miền Trung – Tây Nguyên bao gồm 11 tỉnh, thành phố ven biển từ Quảng
Bình đến Bình Thuận và 5 tỉnh Tây Ngun có diện tích trên 116.995 km 2,
chiếm gần 33% diện tích cả nước, dân số 16 triệu 650 ngàn người chiếm trên
17% dân số toàn quốc. Hiện nay trên địa bàn miền Trung – Tây Nguyên có 172
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành có bờ biển dài 1832 km; có
núi rừng Tây Ngun hùng vĩ, là nơi có vị trí chiến lược quan trọng của đất
nước, nhất là trên lĩnh vực kinh tế biển và quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc.
Miền Trung – Tây Nguyên là khu vực nghèo khó so với hai đầu đất nước, thiên
tai, bão lụt triền miên nhưng lại rất giàu về văn hoá. Có thể nói đây là một vùng
văn hố đặc sắc, hào hùng, in đậm tính nhân văn với nhiều giá trị văn hoá đạt tới
đỉnh cao của nền văn hoá, văn minh nhân loại.
4


1.1.2.1. Những văn hoá vật thể.
Miền Trung – Tây Nguyên có hàng ngàn di tích lịch sử - văn hố trong đó
có hàng trăm di tích lịch sử - văn hố cấp quốc gia và trong các di tích lịch sử văn hố cấp quốc gia có 7/48 di tích quốc gia đặc biệt, đó là: Quần thể kiến trúc
Cố đơ Huế (di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật – di sản văn hoá nhân loại);
Khu đền tháp Mỹ Sơn (di tích kiến trúc nghệ thuật – di sản văn hố thế giới); Đơ
thị Cổ Hội An (di tích kiến trúc nghệ thuật – di sản văn hố thế giới); Vườn quốc
gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh – di sản thế

giới); Di tích lịch sử thành phố cổ Quảng Trị ; Di tích Đơi bờ Hiền Lương ; Di
tích lịch sử đường Trường Sơn ( Quảng Bình , Quảng Trị , Thừa Thiên Huế ,
Quảng Nam , Kon Tum , Gia Lai , Đắk Lắk , Đắk Nông …) .
Ngồi những di tích lịch sử - văn hố, nơi đây có nhiều danh lam thắng nổi
tiếng xưa nay như Đà Lạt, Nha Trang, Sông Hương - Núi Ngự, Non nước - Ngũ
hồnh, Núi Ấn - sơng Trà, Bạch Mã, Bà Nà, Đèo Hải Vân, Bàu Tró, Cửa Tùng,
Lăng Cơ, Mỹ Khê, Mũi Né, Vũng Rô, Gềnh Đá Đĩa, Quy Nhơn, cụm thác Gia
long- Trinh Nữ - Đăk Nông…; gần đây nhất tỉnh Đắk Nông đã phát hiện hang động
dài khoảng 25Km trên địa bàn huyện Krông Nô và huyện Cư Jut tỉnh Đắk Nông.
Đây là hang động núi lửa có nhiều hốc sụt, cấu tạo đặc trưng q trình phun trào
dung nham, các di tích thực vật cách đây hàng triệu năm nằm trong rừng sâu, chưa
có dấu vết của con người nhưng có nhiều lồi vật sinh sống.Trong đó Vịnh Lăng
Cơ, Vịnh Nha Trang, Biển Mỹ Khê được xem là những bãi biển đẹp nhất và quyến
rũ nhất hành tinh.
Miền Trung – Tây Nguyên còn là một trong những chiếc nơi văn hố của đất
nước: Văn hố Bàu Tró (Quảng Bình); Văn hố Chămpa (Quảng Nam, Bình Định,
Bình Thuận, Ninh Thuận…); Văn hoá Sa Huỳnh (Quảng Ngãi); Văn hoá Lung Leng
(Tây Nguyên) với hàng vạn di vật, cổ vật, bảo vật trong đó có 8/30 bảo vật quốc gia
tiêu biểu của cả nước như: Trống đồng Cảnh Thịnh thời Tây Sơn ; Tượng Phật Đồng
Dương ; Tượng Nữ thần Devi ; Tượng Bồ Tát Tara ; Tượng Avalokitesvara (Hồi
Nhơn – Bình Định ) ; Tượng Avalokitesvara Đại Hữu (Quảng Bình ) ; Bia Võ Cạnh (
Khánh Hịa ) ; Đài thờ Mỹ Sơn E1 ; Đài thờ Trà Kiệu (Văn hoá Chămpa) ; Bộ Cửu
Đỉnh, Bộ Cửu vị thần công (Thời Nguyễn); Đại hồng chung chùa Thiên Mụ ; Súng
thần công (thời Nguyễn ) ; được lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử quốc gia, Bảo tàng
lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng và Trung tâm
bảo tàng di tích Cố đơ Huế.
5


1.1.2.2. Những văn hoá phi vật thể tiêu biểu

- Giá trị văn hoá phi vật thể ở miền Trung – Tây Nguyên đặc sắc, phong
phú và đa dạng mà trước hết phải nói đến Khơng gian văn hố Cồng Chiêng Tây
Nguyên, Nhã nhạc cung đình Huế, Mộc bản Triều Nguyễn là di sản văn hoá, di
sản tư liệu thế giới; Châu bản triều Nguyễn- di sản tư liệu thế giới Châu Á- Thái
Bình Dương. Miền Trung – Tây Nguyên là quê hương của hát bội (tuồng), dân
ca bài chòi, ca Huế, hò Bá trạo, hò Quảng… giá trị kiến trúc được thể hiện độc
đáo ở nhà Dài, nhà Rông, nhà Mồ, nhà Gươl, nhà Cổ xưa. Giá trị âm nhạc được
lắn đọng thơng qua những cung bậc trữ tình, hùng tráng ở các nhạc cụ Cồng
Chiêng, đàn đá Tây Nguyên, Khánh Sơn, đàn Tơ-rưng, đàn Chapi; đàn Đinh Put,
trống Làng, trống Ginăng, Basanưng, kèn Saranai, đàn cò…
- Lễ hội các dân tộc miền Trung – Tây Nguyên rất đa dạng và có những nét
đậm đà riêng, tiêu biểu là các lễ hội đua voi, lễ mừng cơm mới, lễ hội đâm
trâu… của các dân tộc thiểu số, lễ hội Katê (dân tộc Chăm), lễ hội Quan Thế Âm
(Phật Giáo), lễ hội Cầu Ngư ở các làng chài ven biển, lễ hội võ cổ truyền Bình
Định, lễ hội dinh Thầy - Thiểm (Bình Thuận) ;lễ khao lề thế lính Hồng Sa ( Lý
Sơn – Quảng Ngãi )…
- Giá trị văn học truyền thống ở khu vực này được hội tụ lại ở hàng trăm sử
thi của các dân tộc Ê đê, Ba Na, M’Nông, Xê đăng, Chăm, Cơ Tu ở ca dao, tục
ngữ… được truyền từ đời này sang đời khác bằng truyền miệng, trình diễn được
xem như những bài ca trữ tình, hùng tráng về đất nước, quê hương, con người,
lịch sử của các dân tộc ở miền Trung – Tây Nguyên.
- Văn hoá ẩm thực và văn hoá trang phục ở miền Trung – Tây Nguyên in
đậm sự sáng tạo, phát minh, kỹ thuật và nghệ thuật thông qua bàn tay sáng tạo
và khéo léo của con người. Văn hố ẩm thực của các dân tộc ở đây có thể khái
quát thành mô tiếp đặc trưng: cơm mắm, cơm muối, cơm canh, cơm cá, cơm thịt,
cơm hến, cơm ống, cơm rau với các loại bánh: bánh ổ, bánh khuôn, bánh tét,
bánh xèo, bánh tráng, bánh ít, bánh nậm... Thức uống chủ yếu ở khu vực này
chủ yếu là rượu gạo, rượu nếp, rượu cần. Văn hố trang phục vơ cùng đa dạng
mỗi một dân tộc đều có trang phục đặc trưng cho dân tộc mình. Nếu như dân tộc
Kinh là áo dài, khăn xếp cho đàn ông, yếm, áo dài hai tà thướt tha cho đàn bà

chủ yếu dệt bằng chất liệu tơ tằm, thì các dân tộc thiểu số là áo ngắn, khố cho
đàn ông, váy mở, váy kín, áo dài cho phụ nữ chủ yếu dệt bằng thổ cẩm với màu
sắc, trang trí khơng giống nhau. Chẳng hạn cũng chiếc áo dài nhưng áo dài
người Chăm khác với người Kinh, áo dài người Chăm không xẽ tà, mặc chui
6


đầu, áo 3 lỗ: một lỗ chui đầu và hai ống tay, cổ áo thường kht lỗ hình trịn
hoặc hình trái tim với các màu tương phản hài hoà xanh-trắng, tím-vàng, đỏ-đen.
1.1.3. Giá trị văn hố
Một xã hội phát triển tức là phải mang lại chất lượng cuộc sống tốt đẹp hơn
cho con người về vật chất lẫn tinh thần dựa trên các giá trị văn hóa. Phát triển xã
hội phải là sự phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa
mơi trường hướng tới các giá trị nhân văn. Đặc trưng bao trùm trong quan niệm
hiện đại về sự phát triển là văn hóa ngày càng trở thành yếu tố nội sinh, trở
thành động lực và hệ quy chiếu của sự phát triển.
1..1.3.1.Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Đây là một trong những luận điểm cơ bản của Đảng ta, nói lên vị trí cực kỳ
quan trọng của văn hóa đối với đời sống xã hội. Mác – Lê Nin đã chỉ ra rằng: Xã
hội là một thể thống nhất giữa đời sống xã hội và đời sống tinh thần; xã hội
khơng chỉ tồn tại xã hội mà cịn bao hàm cả ý thức xã hội cho nên xã hội không
chỉ tồn tại duy nhất nền tảng vật chất mà cịn có cả nền tảng tinh thần của xã hội.
Luận điểm trên còn xuất phát từ lý luận cho rằng văn hóa là yếu tố hợp
thành hình thái kinh tế - xã hội, là nhân tố tìm ẩn hóa thân vào tất cả các yếu tố
cấu thành hình thái kinh tế xã hội từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ
quan hệ sản xuất đến kiến trúc thượng tầng. Do đó, chính trong nền tảng vật chất
của xã hội đã in đậm giá trị văn hóa. Nền tảng tinh thần của xã hội là toàn bộ
những giá trị văn hóa vật chất và tính thần của dân tộc, của nhân loại đã sáng tạo
ra, được sàng lọc qua chiều dài lịch sử, được kế thừa và phát triển mang tính bền
vững qua thời gian đảm bảo sự trường tồn cho nền văn hiến.

Từ đó chúng ta thấy rằng, nếu đánh mất bản sắc văn hóa đã tạo thành nền
tảng tinh thần của xã hội là đánh mất tất cả.
1.1.3.2. Văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội.
Văn hóa khơng đứng ngồi sự phát triển mà nó là nội lực bên trong của sự
phát triển kinh tế - xã hội bởi vì văn hóa là lực đẩy là động lực của sự phát triển
kinh tế, là nhân tố trực tiếp để hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức. Sự
phát triển kinh tế ở bất cứ xã hội nào cũng thông qua hoạt động sáng tạo của con
người, mà con người là khối óc là trái tim của văn hóa cho nên văn hóa là yếu tố
nội sinh của kinh tế. Văn hóa là yếu tố cơ bản để tạo ra các thành tựu khoa học
và công nghệ, nhằm tăng năng xuất lao động, khơng có thành tựu khoa học và
cơng nghệ, khơng có trí tuệ thì khơng có sự phát triển vượt bậc về kinh tế.
7


Văn hóa là nhân tố quan trọng để giữ vững ổn định chính trị; là yếu tố để
tạo lập cơng bằng xã hội. Văn hóa khơng chỉ là kết quả mà cịn là ngun nhân
của q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
1.1.3.3. Văn hóa là mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội.
Văn hóa in đậm tính nhân văn, là khát vọng của con người hướng tới chân,
thiện, mỹ điều đó chính là bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã
hội là một xã hội khơng tồn tại chế độ người bóc lột người, khơng có xiềng xích
nơ lệ, con người được giải phóng và phát triển tồn diện về thể chất, trí tuệ và
tâm hồn. Cịn bản chất của con người hướng tới các giá trị tốt đẹp của nhân loại,
vì thế mới nói rằng văn hóa là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là sản phẩm của sự phát triển văn hóa của nhân loại, cho
nên các giá trị chân, thiện, mỹ, tự do, công bằng, bác ái, dân chủ, hịa bình, hạnh
phúc cũng là những giá trị thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vì chỉ đến
chủ nghĩa xã hội thì những mục tiêu ấy mới đủ điều kiện thực thi.
1.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa – lễ hội hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ

trên địa bàn tỉnh Đắk Nơng
1.2.1. Di sản văn hóa của tỉnh Đăk Nơng
Tỉnh Đắk Nơng có diện tích 6.514Km2 với dân khoảng 510.000 người,
với 40 dân tộc anhem sinh sống; là vùng đất có nền văn hóa cổ truyền khá đa
dạng của nhiều dân tộc đậm nét truyền thống và bản sắc riêng.
Đắk Nơng hiện có 10 di tích lịch sử, văn hóa, thắng cảnh được xếp hạng, trong
đó, có 9 di tích cấp quốc gia, 1 di tích cấp tỉnh. Các di tích nổi bật tại Đắk Nơng
phần lớn là những địa danh gắn với cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
như Di tích lịch sử cách mạng Ngục Đắk Mil, Căn cứ kháng chiến B4 – Liên
tỉnh IV, Di tích lịch sử các địa điểm về phong trào đấu tranh chống thực dân
Pháp của đồng bàoM’nông (N’TrangLơng). Ngồi ra, trong thời gian gần đây
tỉnh Đắk Nơng đã phát hiện hang động núi lửa dài 25 Km (nằm ở 2 huyện Krông
Nô và huyện Cư Jut- tỉnh Đăk Nơng) được hình thành cách đây hàng triệu năm,
chưa có dấu hiệu sinh sống của con người đây là 1 thắng cảnh mà thiên nhiên
ban tặng cho tỉnh Đắk Nông nói riêng và của cả tây nguyên nói chung.
Nét đặc sắc trong kho tàng văn hóa của Đắk Nơng có nhiều điểm tương đồng
với tỉnh Đắk Lắk (do được tách từ Đắk Lắk) và mang đặc trưng của khu vực Tây
Nguyên như những bộ sử thi, những phong tục cổ, kiến trúc nhà sàn, nhà rông,
tượng nhà mồ, các nhạc cụ truyền thống như đàn đá, cồng chiêng…
8


Loại hình nghệ thuật nổi bật và độc đáo nhất của Đắk Nơng chính là nghệ
thuật cồng chiêng (khơng gian văn hóa cồng chiêng đã được UNESCO cơng
nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại), thường được diễn ra vào
các dịp lễ hội.Ngồi ra Đắk Nơng cũng có nhiều hình thức văn hóa đa dạng và
đặc trưng như các điệu múa, hát dân ca dân tộc, biểu diễn các nhạc cụ truyền
thống (đàn đá, chiêng đá, đàn T.rưng…).
Thông qua các lễ hội, người M’Nông luôn cầu mong mưa thuận gió hịa,
mùa màng bội thu, cây cối tươi tốt, cuộc sống ấm no, con cháu khỏe mạnh, hạnh

phúc, được sống yên ổn làm ăn và thờ phụng tổ tiên. Vì thế, cho dù lễ hội có quy
mơ nhỏ hay vừa đều gồm hai phần chính, đó là phần lễ và phần hội. Phần lễ chủ
yếu là các nghi thức, phần hội chủ yếu là sinh hoạt văn hóa dân gian, ca hát,
nhảy múa. Xuất phát từ ý nghĩa đó mà đồng bào M’Nơng đã để lại trong đời
sống tinh thần một vốn quý văn hóa đặc sắc, không thể pha lẫn và được thể hiện
qua các lễ hội truyền thống. Hầu hết, các lễ hội của đồng bào M’Nơng đều thể
hiện rõ tính bình đẳng, dân chủ. Cho nên ở bất cứ lễ hội nào, ngoài một số nghi
lễ bắt buộc kiêng cữ thì tất cả người dân trong bon làng, già trẻ, trai gái đều có
quyền lợi và hưởng thụ như nhau. Mọi người cùng nhau vui đùa, nhảy múa, ăn
uống no say, cùng nhau nắm tay nối nhịp vòng xoang trong niềm vui của cộng
đồng, các lễ hội tiêu biểu đặt sắc của dân tộc M’Nông như:
* Lễ cúng thần rừng của đồng bào M’nông ở bon Sa Nar, xã Quảng
Sơn (Đắk Glong): Địa điểm diễn ra lễ cúng là tại cánh rừng thiêng.Tại khu rừng
thiêng này, đồng bào luôn đưa ra quy định là cấm không cho ai được chặt cây
hoặc nhặt cành cây khô bị gẫy rơi xuống đất về nhà đun. Khi lễ hội diễn ra, tất
cả mọi người trong bon làng đều tập trung đông đủ để chung vui. Trang phục
của người dân trong ngày lễ từ người già đến con trẻ đều mặc những bộ quần áo
mới truyền thống của dân tộc.
*Lễ sum họp cộng đồng (Tâm r’nglắp bon):là một trong những hoạt
động văn hóa truyền thống lớn của đồng bào M’nông cũng được tổ chức từ 2
đến 3 năm một lần. Qua lễ hội, những người chủ lễ cũng như nhân dân trên địa
bàn gửi gắm tâm hồn, ước vọng của mình vào thần linh, mong muốn được ban
cho mưa thuận gió hịa, mùa màng bội thu và nhất là cầu cho các bon làng đoàn
kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau chống lại thiên tai, dịch họa…
Đối với đồng bào M’nơng, lễ hội có vai trị hết sức quan trọng, nó khơng
chỉ là sợi dây gắn kết đưa mọi người đến gần nhau hơn mà còn là nơi để nhắc
nhở, răn bảo con cháu, nhớ về những giá trị văn hóa mà cha ơng để lại nhằm
9



tưởng nhớ tổ tiên, tạ ơn trời đất đã ban cho cuộc sống ấm no, an lành. Do đó,
mỗi khi lễ hội diễn ra, bà con trong bon lại tụ họp đông đủ để cùng nhau chia sẻ
những vui buồn của cuộc sống.
Để triển khai bảo tồn và phát huy ngôn ngữ chữ viết của dân tộc M’ Nông,
UBND tỉnh Đắk Nông đã triển khai xây dựng bộ tự điển M’Nông để phục vụ
cho công tác giảng dạy trên địa bàn tỉnh từ năm 2008.
Đài phát thanh và truyền hình tỉnh đã tập trung xây dựng, biên dịch chương
trình bằng tiến M’Nơng phát sóng trên địa bàn tồn tỉnh. Ngồi ra, Tỉnh ủy, Hội
đồng nhân dân tỉnh, UBND tỉnh khuyến khích cán bộ cơng chức đặc biệt là cán
bộ cơ sở phải học tiếng M’Nông bảo đảm đọc thông, viết thạo giao tiếp với đồng
bào dân tộc tại chỗ.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa – lễ hội hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ trên địa
bàn tỉnh Đắk Nơng.
Di tích lịch sử văn hố là tài sản vơ giá trong kho tàng di sản văn hoá lâu
đời của dân tộc, là những chứng tích vật chất phản ánh sâu sắc nhất về đặc trưng
văn hoá, về cội nguồn và truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước hào hùng,
vĩ đại của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Di sản văn hóa là tài sản quý giá
không thể tái sinh và không thể thay thế, nhưng rất dễ bị biến dạng bởi yếu tố
ngoại cảnh như: khí hậu, thời tiết, thiên tai chiến tranh, sự phát triển kinh tế một
cách ồ ạt, khai thác tài ngun thiên nhiên khơng có sự kiểm sốt, việc bảo tồn
trùng tu thiếu chuyên nghiệp, không theo đúng chuẩn mực khoa học. Trong xu
thế thế hội nhập quốc tế, các quốc gia dân tộc cần phải hướng tới việc tơn trọng
sự đa dạng văn hóa và bảo vệ, tơn vinh bản sắc văn hóa dân tộc để tạo nền tảng
tinh thần cho phát triển. Một trong những biểu hiện của việc phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc là u cầu bảo vệ, giữ gìn, phát huy, tơn tạo cácgiá trị văn hóa
truyền thống, di tích lịch sử - danh lam thắng cảnh.
1.2.2.1. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn.
Trong thực tế, không phải bao giờ người ta cũng tìm được lời giải đúng
đắn cho vấn đề bảo tồn và phát triển bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nói

chung và giá trị văn hóa hóa – lễ hội hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc
tại chỗ trên địa bàn tỉnh Đắk Nơng nói riêng. Ngun nhân của mọi sự sai lầm
đều xuất phát từ nhận thức lệch lạc, trong đại bộ phận các trường hợp là do quá
coi trọng việc phát triển kinh tế, đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên hết. Điển hình
nhất là quy hoạch hệ thống bậc thang thủy điện trên sơng Đồng Nai, trong đó
10


thủy điện Đồng Nai 6 và thủy điện Đồng Nai 6 với diện tích chiếm đất khoảng
327 ha.Tuy nhiên, 2 dự án này ảnh hưởng trực tiếp tới vườn quốc gia Cát
Tiên(khu dự trữ sinh quyển thế giới, là Trung tâm đa dạng sinh học cao của thế
giới thuộc tiểu vùng bảo tồn sinh thái khẩn cấp, và là vùng Chim Đặc hữu Đơng
Nam Á với nhiều lồi q hiếm, có giá trị tồn cầu). Ngồi ra việc tiếp tục xây
dựng các cơng trình thủy điện trên dịng chính sơng Đồng Nai sẽ tiếp tục đẩy
con sơng này vào tình trạng tồi tệ hơn về môi trường, sinh thái, đe dọa đến an
ninh lương thực, an sinh xã hội và sinh kế của hàng chục triệu người. Những tổn
mang đến cho thế hệ tương lai rất lớn.Tuy nhiên, hình như các nhà kinh tế, các
nhà quy hoạch chỉ nhận thức đơn giản rằng, di sản văn hóa là tài sản riêng của
ngành văn hóa, chỉ có cơ quan văn hóa mới hưởng lợi từ các dự án văn hóa. Việc
khơng coi trọng đúng mức tầm quan trọng của các di sản văn hóa và thái độ thờ
ơ của các cá nhân, tập thể có liên quan có thể dẫn đến di sản văn hóa bị xóa sổ
hồn tồn, mơi trường thiên nhiên bị đe dọa nghiêm trọng.
Mặt khác, do những tác động mạnh mẽ các dịng văn hóa tín ngưỡng, sự
phát triển của xã hội đã làm thay đổi môi trường của văn hóa truyền thống, một
bộ phận lớn người dân thờ ơ hoặc quay lưng với văn hóa truyền thống… Trong
khi đó, số nghệ nhân ít, hầu hết đã già, điều kiện và phương tiện truyền dạy các
giá trị văn hóa cho thế hệ trẻ cịn q thơ sơ, đơn giản nên cơng tác bảo tồn văn
hóa truyền thống đã khó khănlại càng thêm khó khăn.
Nhiều nghi lễ - lễ hội đã dần dần mất đi. Thậm chí, ngay cả những nghi lễ
truyền thống như lễ cưới, lễ tang cũng đã bị mai một, khơng cịn thể hiện được

bản sắc và phong tục riêng của mỗi dân tộc. Những nhạc cụ dân tộc từ bao đời
vốn là niềm kiêu hãnh của các dân tộc Tây Nguyên thì nay đã bị mai một và
mất dần, tuy đã được khôi phục nhưng là số nhỏ trong các bon, buôn của đồng
bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở Đăk Nông. Các lớp chế tác và hoạt động bảo tồn
nhạc cụ mà tỉnh Đắk Nông đã triển khai cũng chưa khôi phục được bao nhiêu.
Trong khi đó một số nhạc cụ dân tộc được về xuôi đem bán “đồng nát”.
Tốc độ đô thị hóa làng bản phát triển nhanh, rừng tự nhiên ngày càng bị
tàn –phá dẫn đến nhà sàn, nhà rông khơng cịn điều kiện để tồn tại, phát triển,
thay vào đó là kiến trúc nhà của người xi và kèm theo đó là sự mai một về
văn hóa trang phục, thổ cẩm, đan lát truyền thống.
Cồng chiêng và các loại nhạc cụ bằng tre, nứa đang đứng trước nguy cơ
mất dần, bởi vì cồng chiêng khơng được coi là của cải, khơng cịn giữ được vai
trị là vật “thiêng” là nhạc khí dân gian chủ đạo của những lớp người trẻ. Lớp
11


nghệ nhân lớn tuổi dần dần qua đời mà không trao truyền lại kỹ năng chế tác
nhạc cụ, do vậy nhiều loại nhạc cụ bị mai một dần.
Trong quá trình giao thoa văn hóa giữa các dân tộc tỉnh Đắk Nơng nói
riêng và các dân tộc tây ngun nói chung, bên cạnh sự tiếp nhận những tinh
hoa văn hóa một cách tích cực thì vẫn có sự bào mịn văn hóa truyền thống, sự
lai căng diễn ra ở nhiều phương diện khác nhau về văn hóa. Một số phong trào
“cách tân” theo “nếp sống mới” một cách phiến diện như “xóa khố, xóa nhà
dài, xóa nhà sàn” dẫn đến nhiều văn hóa phi vật thể khơng cịn điều kiện để tồn
tại, môi trường diễn xướng không gian dần dần mất đi, tạo ra khoảng trống tâm
linh trong đời sống tinh thần của các đồng bào dân tộc thiểu số; cùng với đó đạo
tinh lành, cơng giáo đi vào tín ngưỡng của một bộ phận đồng bào dẫn đến xóa
bỏ lễ hội, xóa bỏ cồng chiêng dẫn đến nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân
tộc ở những vùng này.
Theo số liệu thống kê của ngành Văn hóa và Du lịch trên 138 bon đồng

bào dân tộc tại chỗ thì các di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh Đắk Nơng cịn 31
lễ hội truyền thống, 436 bộ cồng chiêng (trong đó có 71 bộ mới cấp); nghệ nhân
biết sử dụng cồng chiêng khoảng 618 người; nghệ nhân biết sử dụng các loại
nhạc cụ khác là 121 người; nghệ nhân biết chế tác nhạc cụ dân gian là 62 người
và nghệ nhân biết sử thi, dân ca, dân vũ là 247 người. Đây là một con số quá
khiêm tốn đối với di sản một nền văn hóa truyền thống đồ sộ của các dân tộc
thiểu số tại chỗ tỉnh Đăk Nông.
1.2.2.2. Nguyên nhân
Nhận thức của các cấp, các ngành, tồn xã hội về vai trị, ý nghĩa của bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa – lễ hội hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ các
dân tộc tại chỗ trên địa bàn tỉnhđã được nâng cao nhưng chưa sâu sắc, tồn diện
và chưa được cụ thể hóa bằng các biện pháp, kế hoạch, chương trình.
Mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong quá trình đổi mới đất nước
và hội nhập quốc tế vẫn chưa được quan tâm xử lý đúng mức đúng tầm. Cá biệt,
có nơi vẫn tồn tại xu thế đặt các mục tiêu, dự án phát triển kinh tế cao hơn mục
tiêu bảo vệ di tích, thắng cảnh như: cụm thác Gia Long – Trinh Nữ. Cụm thác Gia
long – Trinh Nữ là một trong những thắng cảnh nỗi tiếng của Tây Nguyên nói
chung và Đắk Nơng nói riêng. Tuy nhiên do u cầu phát triển, thủy điển Sêrêpok
đã được chính phủ cho phép đầu tư để tạo nguồn năng lượng phục vụ cho mục
tiêu cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, từ khi cơng trình thủy điện được đầu
tư đưa vào vận hành khai thác đến nay môi trường thiên nhiên (rừng, chim, thú,
12


nguồn nước) đã bị đe dọa, thây đổidẫn đến cụm thác trên mất hẳn đi vẻ đẹp hùng
vĩ, hoang sơ, tráng lệ, thơ mộng ngày nào.
Cơng tác xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích cịn
thiếu định hướng, thiếu những chính sách, chế tài cụ thể để khuyến khích, kêu gọi
sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân. Mặt khác nguồn lực của Nhà nước đầu tư
cho phát triển văn hóa nói chung và công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn

hóa – lễ hội hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ trên địa bàn tỉnh
không tương xứng.
Công tác tuyên truyền về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – lễ hội
hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ trên địa bàn tỉnh chưa được
chú trọng, thông tin còn hạn chế. Hoạt động tổ chức giới thiệu bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa – lễ hội hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ
trên địa bàn tỉnh chưa được làm một cách khoa học, bài bản, chưa có sự kết hợp
chặt chẽ giữa các ngành, các cấp.
Năng lực tham mưu công tác của đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa cơ
sở đã có những chuyển biến rõ rệt, góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và phát
huy giá trị di sản văn hoá. Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiêù hạn chế như: trình độ
chun mơn nghiệp vụ chưa cao, khả năng vận động quần chúng tham gia vào các
hoạt động bảo tồn di sản văn hóa chưa thực sự hiệu quả.

13


CHƯƠNG II
MỤC TIÊU VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN TỐT CÔNG
TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỄ HỘI
HOA VĂN CỒNG CHIÊNG VÀ NHẠC CỤ CÁC DÂN TỘC TẠI CHỖ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NƠNG
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng đã nêu lên những định hướng chung cho sự nghiệp xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Riêng việc bảo tồn, phát huy giá trị
văn hoá đã xác định: Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại;
Giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hố, con người Việt
Nam, ni dưỡng giáo dục thế hệ trẻ. Giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống

lịch sử cách mạng, đạo đức lối sống; Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, xây
dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hố, ngơn ngữ,
chữ viết của các dân tộc thiểu số.
2.1. Mục tiêu.
2.1.1. Bảo đảm tính nguyên gốc, tính xác thực lịch sử:
Việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa – lễ hội hoa văn cơng chiêng và
nhạc cụ các dân tộc tại chỗ nhằm bảo đảm tính ngun gốc, tính xác thực lịch sử,
để góp phần giữ gìn ngọn lửa truyền thống. Do đó, cơng tác bảo tồn phát huy giá trị
văn hóa truyền thống, chúng takhơng nên thực hiện theo cơng thức hay mơ hình
sẵn có mang tính vạn năng, cứng nhắc. Ngược lại, trong cơng tác bảo tồn và trùng
tu di tích, các chiến lược cụ thể, những mơ hình, ngun tắc mang tính chất lý
thuyết phải được vận dụng linh hoạt tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử, nét đặc thù và
các mặt giá trị tiêu biểu của những di tích cụ thể.Trong đó, ưu tiên hàng đầu là bảo
vệ và phát huy các mặt giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, để tiếp tục chuyển giao yếu
tố nguyên gốc và tính xác lịch sử của di tích cho thế hệ tiếp theo.
Tuy nhiên công tác bảo tồn chỉ nên can thiệp tối thiểu tới di tích, nhưng cần
thiết phải có cơ chế duy tu bảo dưỡng thường xuyên định kỳ để đảm bảo cho di
tích ổn định lâu dài. Ngồi ra, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phải được triển
khai song song với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và ngược lại, phát triển
phải kết hợp với bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa.

14


2.1.2. Huy động, sử dụng tốt hiệu quả nguồn lực của xã hội cho công
tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa:
Huy động mạnh mẽ nội lực, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ
của Trung ương để tiếp tục sưu tầm, nghiên cứu bảo tồn phát huy các giá trị văn
hóa – lễ hội hoa văn công chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ, tập trung xây
dựng và củng cố các thiết chế văn hóa một mặt là để nâng cao đời sống tinh

thần, nâng cao nhận thức và tạo ra sự hưởng ứng của nhân dân nhằm thực hiện
tốt nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc trong tình hình mới, mặt khác góp phần làm thất bại âm mưu “diễn biến hịa
bình” của các thế lực thù địch.
2.1.3. Bảo tồn, giữ gìn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống
dân tộc trong quá trình phát triển, hội nhập quốc tế.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng giao lưu hợp tác, giao lưu văn
hóa cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của nền Văn hóa Việt
Nam đương đại dựa trên tinh hoa văn hóa nhân loại, chúng ta cần tiếp tục làm
tốt hơn nữa cơng tác bảo tồn, giữ gìn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa truyền
thống dân tộc.
Tạo ra một lực lượng nghệ nhân trẻ, nòng cốt để kế cận lớp nghệ nhân cha
ông trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân
tộc thiểu số tại chỗ; khôi phục môi trường sinh hoạt văn hóa truyền thống, kết
hợp với các hoạt động văn hóa hiện đại để các nghệ nhân và lớp trẻ có điều kiện
thuận lợi hoạt động, thực hành, hịa nhập với xu thế phát triển chung của toàn xã
hội, nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng của các dân tộc M’nông, Êđê, Mạ tỉnh
Đăk Nông. Phát huy các giá trị văn hóa để phục vụ đời sống của cộng đồng, góp
phần làm phục vụ phát triển ngành du lịch, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào các dân tộc tại chỗ trong tỉnh.
2.2. Kiến nghị các giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – lễ
hội, hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông.
2.2.1. Khảo sát, sưu tầm, kiểm kê, phân loại, lập hồ sơ khoa học:

Đối với di sản văn hóa vật thể trọng tâm là thống kế về kiến trúc, kiểu dáng,
chất liệu của từng loại hoa văn nhạc cụ. Kiểm kê phân loại và lập hồ sơ khoa
học cho từng loại bộ cồng chiêng, nhạc cụ một cách chính xác, đầy đủ, tỷ mỷ.
Ngoài ra đối với các di sản văn hóa phi vật thể cịn phải thực hiện cả bằng ghi
âm, ghi hình từng loại di sản

15


2.2.2. Tạo lập môi trường hoạt động cho các loại hình di sản:
Các di sản văn hóa hồn tồn có khả năng và trở thành những nhân tố tham
gia vào cuộc sống văn hóa hiện nay, tồn tại và phát triển như một nhân tố sống
chứ không phải trở thành văn hóa đóng khung trong hồ sơ lưu trữ.
2.2.2.1. Về lễ hội:Mỗi loại hình văn hóa đều tồn tại và phát triển trong một
mơi trường riêng biệt, nếu khơng có mơi trường để hoạt động, các loại hình văn
hóa sẽ bị mất đi. Trong khi đó, “Cộng đồng bon”, “Ngày hội văn hóa” và “Lễ
hội” là mơi trường thuận lợi nhất để các loại hình văn hóa phi vật thể (trong đó
có hoa văn, cồng chiêng và nhạc cụ) hoạt động và phát triển.
a) Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và xây dựng chương trình, nội dung
hoạt động, cho các bon nhằm khôi phục lại 4 giá trị văn hóa truyền thống (lễ hội,
hoa văn, cồng chiêng, nhạc cụ) phục vụ khách du lịch qua đó quảng bá giá trị
văn hóa truyền thống
b) Nâng cao chất lượng các lễ hội truyền thống tiến bộ tiêu biểu mang tính
nhân văn cao; duy trì, mở rộng mơ hình “Ngày hội văn hóa” ở cấp tỉnh và cấp
huyện cho các dân tộc thiểu số tại chỗ. Xây dựng và xuất bản các ấn phẩm (sách,
tranh ảnh, băng đĩa) làm tài liệu, tư liệu bảo tồn, giới thiệu, quảng bá di sản văn
hóa, lễ hội, hoa văn, cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc bản địa đến với các
tầng lớp nhân dân trong tỉnh, bạn bè trong nước và quốc tế.
c) Khơi phục và duy trì lễ hội: tổ chức lễ hội đặc sắc, khôi phục và bảo tồn
hoa văn trên trang phục, trên cây nêu, cột lễ, hoa văn trong trang trí lễ hội, biểu
diễn cồng chiêng và nhạc cụ để quảng bá phục vụ khách du lịch.
d) Khôi phục chương trình Văn nghệ dân gian, mua sắm trang phục, đạo cụ
cho các đội văn nghệ dân gian đi phục vụ cộng đồng các dân tộc trong tỉnh.
2.2.2.2. Truyền dạy và tập huấn:Tổ chức truyền dạy là một hoạt động hết
sức quan trọng trong công tác bảo tồn để các nghệ nhân có thể chuyển giao,
truyền lại những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng của mình về di sản văn hóa

cho thế hệ sau. Mở các lớp truyền dạy 3 môn chủ yếu: cồng chiêng, chế tác và
sử dụng nhạc cụ, hát dân ca.
Mở lớp bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ làm công tác bảo tồn, giáo viên
dạy hát nhạc trong các trường phổ thông và dân tộc nội trú, nâng cao năng lực
cho các nghệ nhân truyền dạy.
2.2.2.3. Nghiên cứu và ứng dụng các giá trị văn hóa lễ hội, hoa văn,
cồng chiêng và nhạc cụ:Nghiên cứu và xây dựng 01 bộ tư liệu về di sản cồng
chiêng (ký âm và phân tích sâu về phương diện âm nhạc và nghệ thuật diễn tấu
16


của 3 dân tộc M’nông, Mạ và Ê đê); Sáng tác tác phẩm âm nhạc khai thác từ
chất liệu dân gian dân tộc M’nông, Mạ và Ê đê.
2.2.3. Cơ chế chính sách:Xây dựng cơ chế chính sách phù hợp và tăng
cường nguồn lực cho công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – lễ hội
hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ trên địa bàn tỉnh Đắk Nơng.
Mỗi loại hình di sản địi hỏi phải có cơ chế chính sách khác nhau để đáp
ứng được nhu cầu tồn tại và phát triển. Ví dụ như đối với Nhà Rơng, Nhà dài
phải có cơ chế cho khai thác gỗ và vật liệu xây dựng từ rừng, phải có chính sách
hỗ trợ về vốn, phải coi nhà rơng là thiết chế văn hóa để hỗ trợ đầu tư.
Các di sản văn hoá trọng điểm là những di sản văn hố đang xuống cấp, đang
có nguy cơ mai một hay biến mất cần có kế hoạch lưu giữ, bảo vệ ngay. Đối với
quy hoạch di sản văn hố gắn với du lịch nên có sự tính tốn, đề ra kế hoạch theo
mốc thời gian cụ thể, với tầm nhìn chiến lược; cần có sự quan tâm đầu tư về nguồn
lực một cách đồng bộ đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa.
Có chính sách đãi ngộ đối với các nghệ nhân dân gian trên các loại hình
hoạt động văn hóa để thu hút họ tham gia vào công tác bảo tồn và phát huy các
giá trị truyền thống.
Tổ chức hội thảo, trưng cầu ý kiến của các chuyên gia , các đơn vị chuyên
ngành để góp ý cho quy hoạch, kế hoạch chương trình của địa phương đối với

cơng tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – lễ hội hoa văn cồng chiêng và
nhạc cụ các dân tộc tại chỗ trên địa bàn tỉnh; ngoài ra chú ý đến ý kiến của đồng
bào dân tộc tại chỗ
2.2.4. Kiện toàn bộ máy lãnh đạo, quản lý.

Củng cố kiện toàn bộ máy tổ chức và biên chế ngành văn hóa cấp huyện và
cấp tỉnh. Quy hoạch đào tạo cán bộ chuyên viên người dân tộc tại chỗ trong bộ
máy quản lý và điều hành các hoạt động văn hóa ở các cấp.
Thành lập các chi hội: Văn học nghệ thuật dân gian, văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số của tỉnh. Phối hợp sáng tác các giá trị văn hóa mới phù hợp
được cộng đồng dân tộc tại chỗ chấp nhận để tuyên truyền giới thiệu, giao lưu
văn hóa trong q trình hội nhập quốc tế; xây dựng các giải thưởng về văn học
dân gian cấp tỉnh tổ chức hằng năm để cũng cố và phát huy vốn văn hóa dân
gian cổ truyền các dân tộc trong tỉnh thơng qua đó đấu tranh làm thất bại âm
mưu “diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực văn hóa của các thế lực thù địch, bảo vệ
giá trị văn hóa truyền thống, yêu nước cách mạng.
17


KẾT LUẬN
Di tích lịch sử, văn hóa là tài sản vơ giá trong kho tàng di sản văn hóa lâu
đời của các dân tộc, là những chứng tích vật chất phản ảnh sâu sắc nhất về đặc
trưng văn hóa về cội nguồn và truyền thống đấu tranh dựng nước giữ nước hào
hùng vĩ đại của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.Trong những năm qua, khi di
sản văn hóa của nước ta được ghi vào danh mục di sản văn hóa và thiên nhiên
thế giới đã thúc đẩy phát triển ngành du lịch của đất nước, qua đó quảng bá giới
thiệu văn hóa, truyền thống dân tộc Việt Nam với bạn bè quốc tế, đồng thời tiếp
thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú thêm văn dân tộc.
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ
các dân tộc tại chỗ tỉnh Đắk Nơng nói riêng và bảo tồn và phát huy giá trị văn

hóa truyền thống nói chung là một vấn đề mang tính quy luật trong sự nghiệp
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một nội
dung hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy
nhiên, trong điều kiện hiện nay, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ
hội hoa văn cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ tỉnh Đắk Nơng gặp
khơng ít khó khăn và thách thức. Do đó, địi hỏi các ngành, các cấp, các nhà lãnh
đạo phải có những chiến lược, cách tiếp cận, các hướng đi, phương pháp áp dụng
một cách khoa học, linh hoạt phù hợp với thực tiễn mới đem lại hiệu quả cao.Trong
khuôn khổ nội dung Tiểu luận chỉ mới nêu lên, khái quát một số nội dung có tính
cơ bản cả về măt lý luận và thực tiễn. Chưa nghiên cứu sâu, chưa nêu lên được hết
các nội dung quan trọng một cách chi tiết về các giải pháp cần phải được tổ chức
thực hiện ở địa phương.Những hạn chế, thiếu sót này xuất phát từ khả năng nhận
thức và nắm bắt thực tiễn chưa thật tốt của bản thân.Kính mong nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ của Thầy Cơ giáo Khoa Văn hóa phát triển.
Xin chân thành cảm ơn sự tận tình truyền đạt kiến thức từng môn học,
từng buổi học của các thầy cơ giáo ở các khoa của Học viện hành chính khu vực
III. Với kiến thức đã được học cùng với trải nghiệm thực tế đã giúp tơi hồn
thành Tiểu luận này./.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương lần thứ XI;
2. Luật di sản văn hóa ngày 29 tháng 6 năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật di sản văn hóa ngày 18 tháng 6 năm 2009;
3. Nghị định số 98/2010/NĐ- CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính
phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa
4. Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng

Chính phủ về chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020;
5. Quyết định số 22/QĐ- TTg ngày 05 tháng 01 năm 2010 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt đề án phát triển văn hóa nơng thơn đến năm 2015
và định hướng đến năm 2020;
6. Nghị quyết số 02/2010/NQ-HĐND ngày 06/5/2010 của Hội đồng nhân
dân tỉnh Đắk Nông về Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa Lễ hội – Hoa văn –
Cồng chiêng và nhạc cụ các dân tộc tại chỗ tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2010 –
2015;
7. Giáo trình cao cấp lý luận chính trị - 12 chuyên đề bắt buộc Học Viện
chính trị khu vực III;

19



×