Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

BIỆN PHÁP KHẨN cấp tạm THỜI TRONG tố TỤNG TRỌNG tài THƯƠNG mại tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.88 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG

NGUYỄN THANH TRUYỀN

BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Mã ngành: 60340102

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS-TS. NGUYỄN TIẾN HOÀNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2021


2

NỘI DUNG ĐỀ CƯƠNG
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội càng phát triển, tranh chấp ngày càng gia tăng và phức tạp. Pháp luật
cần phải có những cơ chế giải quyết tranh chấp linh hoạt để tiết kiệm thời gian, chi
phí và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên.
Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết tranh chấp khơng ít trường hợp tài sản
liên quan đến vụ việc có nguy cơ bị tiêu hủy hay dịch chuyển hoặc chứng từ, giấy tờ
liên quan đến vụ việc nằm trong tay người thứ ba nhưng họ lại không thiện chí hợp
tác với trọng tài. Để đảm bảo lợi ích cho các bên, pháp luật đã trao cho trọng tài
thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Theo quy định tại Điều 48 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (LTTTM)
thì các bên trong quan hệ pháp luật đang có tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng


trọng tài (HĐTT) hoặc Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT).
Việc yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng
tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Khi nguyên đơn khởi kiện ra trọng tài, trọng tài ở đây được hiểu là HĐTT
chứ không phải trung tâm trọng tài, vì chỉ có HĐTT mới có quyền áp dụng các
BPKCTT. Xét về mặt thực tiễn, nếu cần áp dụng các BPKCTT, nguyên đơn có thể
gặp phải một số bất lợi về mặt thời gian nếu phải chờ bị đơn chỉ định trọng tài viên
và ban thư ký hồn tất thủ tục thành lập HĐTT. Thời gian có thể kéo dài đủ lâu để
bị đơn (nếu muốn) có thể tẩu tán đáng kể các tài sản tranh chấp.
Thêm vào đó, các chủ thể khác có liên quan trong vụ tranh chấp thường chỉ
cho rằng chỉ tòa án mới có quyền áp dụng các BPKCTT can thiệp và hạn chế các
quyền định đoạt tài sản của họ. Họ cho rằng HĐTT dù có thẩm quyền áp dụng các
BPKCTT thì cũng chỉ mang tính chất tư và chỉ được áp dụng cho các bên đương sự
trong vụ tranh chấp, khó có lý do để áp dụng làm hạn chế quyền lợi với người thứ
ba.
Việc pháp luật cho phép các bên có quyền u cầu HĐTT hoặc Tịa án áp
dụng BPKCTT nhằm đảm bảo quyền lợi của mình trong vụ việc giải quyết tranh
chấp, khi các bên thấy cần phải bảo vệ tài sản bị tranh chấp trước nguy cơ tẩu tán tài


3

sản hoặc các hành vi khác nhằm giảm giá trị của tài sản tranh chấp. Sự hỗ trợ của
Tòa án đối với trọng tài thể hiện rất rõ ở việc Tịa án có thể dùng sức mạnh cưỡng
chế nhà nước mà mình có được để áp dụng các BPKCTT, điều mà HĐTT tuy cũng
có thể thực hiện nhưng khơng thể thực hiện triệt để, tốt bằng Nhà nước do không
nhân danh Nhà nước và thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc áp dụng BPKCTT của
Tịa án có giá trị pháp lý cao hơn, hiệu quả thi hành tốt hơn việc áp dụng BPKCTT
của HĐTT.
Vì những lý do như trên đã nêu, việc chọn vấn đề “Biện pháp khẩn cấp tạm

thời trong tố tụng trọng tài thương mại tại Việt Nam” nhằm tìm ra những giải pháp
hợp lý, phù hợp với tình hình của pháp luật Việt Nam, góp phần nâng cao chất
lượng BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại tại Việt Nam.
2. Tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Thời gian qua đã có một số cơng trình khoa học về vấn đề này được cơng bố
mà tiêu biểu phải kể đến một số cơng trình sau đây:
- Một số luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh;
- Một số luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Kinh tế - Luật (Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh);
- Nghị định số 63/2011/NĐ-CP ngày 28 tháng 7 năm 2011 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TTTM;
- Thông tư 12/2012/TT-BTP ngày 7 tháng 11 năm 2012 ban hành một số biếu
mẫu về tổ chức và hoạt động trọng tài thương mại;
- Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 3 năm 2014 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định Luật
TTTM.
Việc ban hành các quy định trên đã đáp ứng được mục tiêu quản lý, góp phần
hồn thiện pháp luật về trọng tài thương mại, đảm bảo hoạt động giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài được thuận lợi và ngày càng có hiệu quả hơn, nhất là Nghị
quyết 01/2014-HĐTP.
Ngồi ra, cịn có: Một số ý kiến về hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện
hình thức, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 7/2017,... Có thể nhận thấy rằng các


4

cơng trình kể trên mới chỉ nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm
2015, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 về BPKCTT trong tố tụng trọng tài mà
chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về pháp luật thương mại
theo quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, việc nghiên cứu một cách tồn diện

các quy định về BPKCTT tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định này trên thực tế
có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
3. Phạm vi giới hạn nghiên cứu của đề tài
Với giới hạn của một đề tài luận văn thạc sỹ luật học, học viên tập trung
nghiên cứu các quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Luật Trọng tài
Thương mại năm 2010, Quy tắc tố tụng trọng tài và các văn bản pháp luật khác có
liên quan đến BPKCTT. Đồng thời, học viên cũng sẽ nghiên cứu so sánh, đối chiếu,
đánh giá với các quy định về BPKCTT trong Bộ luật Dân sự 2015. Trên cơ sở
những nghiên cứu về lý luận, quy định của pháp luật hiện hành, học viên cũng
nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích thực tế những việc có liên quan đến đề tài, nhằm
xem xét vấn đề áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Qua đó, học viên sẽ chỉ ra những
hạn chế trong quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra một
số giải pháp nhằm hồn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.
4. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Các quan điểm về BPKCTT để làm rõ cơ sở lý luận,
đánh giá pháp luật và thực tiễn áp dụng; các quy định của pháp luật hiện hành về
thực hiện BPKCTT (Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và Bộ luật Tố tụng Dân
sự năm 2015), các văn bản liên quan và các trường hợp thực tế điển hình để chỉ ra
những vướng mắc trong các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng.
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về hợp đồng thương mại, mà cụ thể là tập trung vào các quy định về BPKCTT
trong Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và
các văn bản hướng dẫn, đặt trong tương quan một số quy định của Luật thương mại,
Luật doanh nghiệp… và thực tiễn áp dụng các quy định về BPKCTT.
5. Mục tiêu nghiên cứu


5

Nghiên cứu giải quyết các vụ tranh chấp có BPKCTT trong tố tụng trọng tài,

trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
Mục đích nghiên cứu đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn, từ đó
đề ra các giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BPKCTT theo quy định
của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Trọng tài thương mại và các luật chuyên ngành
khác có liên quan.
Việc nghiên cứu đề tài là nhằm mục đích chỉ rõ những vấn đề lý luận về thực
hiện BPKCTT; thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng, từ đó đề xuất các giải
pháp hồn thiện pháp luật về BPKCTT trong tố tụng trọng tài.
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận và nghiên cứu các chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của nhà nước về cải cách tư pháp; các quan điểm nghiên cứu
luật học, các quy định của pháp luật về quyền yêu cầu áp dụng và quá trình thực
hiện các BPKCTT trong giải quyết TCKDTM để làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
- Khái niệm, đặc điểm, phân loại BPKCTT;
- Khái niệm chung về BPKCTT trong giải quyết TCKDTM;
- Đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của BPKCTT trong giải quyết TCKDTM;
- Đánh giá tổng quát lịch sử hình thành và phát triển các BPKCTT; phân tích
các quy định về việc áp dụng BPKCTT, những bất cập, hạn chế và đề ra các giải
pháp, phương hướng hoàn thiện việc áp dụng các BPKCTT trong giải quyết
TCKDTM trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, tác giả vận dụng một số phương pháp
nghiên cứu khoa học luật, cụ thể:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Được sử dụng để tổng hợp, phân tích các
khái niệm quy định pháp luật hiện hành trong việc thực thi các quy định pháp luật
về thực hiện hợp đồng thương mại và chỉ ra những điểm bất cập trong việc thực thi
các quy định này ở Việt Nam;
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để so sánh,
đối chiếu những quy định của pháp luật hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi



6

hành, so sánh các quy định pháp luật với thực tiễn áp dụng, từ đó chỉ ra những mâu
thuẫn và những khó khăn cịn tồn tại trong thực tế;
- Phương pháp thống kê: nhằm chỉ ra những thực trạng còn tồn tại trong việc
thực thi các quy định pháp luật về thực hiện hợp đồng thương mại, từ đó đề ra
phương hướng và các giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về thực hiện hợp đồng thương mại.
Bên cạnh đó, luận văn cịn sử dụng các phương pháp: Diễn dịch, quy nạp…
để nghiên cứu và làm sáng tỏ nội dung của luận văn; nhận diện những tồn tại, bất
cập của pháp luật về này, từ đó đề xuất giải pháp phù hợp, nhằm hồn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả áp dụng trong quá trình thực hiện pháp luật về Biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại tại Việt Nam.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa khoa học
Về phương diện lý luận: luận văn đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề có
liên quan đến BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại tại Việt Nam.
Tính tạm thời của biện pháp này được thể hiện ở chỗ, quyết định áp dụng
BPKCTT chưa phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ việc dân sự. Đây chỉ là
biện pháp tạm thời được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, chưa
phải là quyết định về giải quyết vụ việc dân sự. Sau khi quyết định áp dụng
BPKCTT, nếu lý do của việc áp dụng khơng cịn nữa thì HĐTT có thể huỷ bỏ quyết
định này. Tuy vậy, việc áp dụng BPKCTT có thể gây thiệt hại đến quyền, lợi ích của
người bị áp dụng và người khác. Do vậy, HĐTT phải xem xét thận trọng trước khi
quyết định áp dụng biện pháp này và phải thực hiện đúng các quy định của pháp
luật để tránh việc gây thiệt hại cho đương sự và các chủ thể khác.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn ứng dụng
Với mục đích là để giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo tồn tình
trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo đảm việc thi hành án nên việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời mang nhiều ý nghĩa không những đối với việc giải



7

quyết vụ việc dân sự của toà án mà cả đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự.
Trên thực tế, vì lợi ích của mình hoặc do thiếu thiện chí, nhiều người đã có
hành vi tẩu tán tài sản, huỷ hoại hoặc xâm phạm chứng cứ, mua chuộc người làm
chứng... Việc áp dụng BPKCTT trong những trường hợp này một mặt chống lại
được các hành vi đó, bảo vệ được chửng cứ, giữ nguyên được giá trị chứng minh
của chứng cứ, tránh cho hồ sơ vụ việc dân sự bị sai lệch, bảo đảm việc giải quyết
đúng được vụ việc dân sự. Mặt khác, qua đó cịn bảo tồn được tình trạng tài sản,
tránh việc gây thiệt hại không thể khắc phục được, giữ được tài sản bảo đảm cho
việc thi hành bản án, quyết định của HĐTT sau này.
Ngoài ra, việc áp dụng BPKCTT đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp bách của
đương sự, tạo điều kiện cho đương sự sớm ổn định được cuộc sống của họ và những
người sống phụ thuộc vào họ. Trên cơ sở đó, bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự.
Các quy định về BPKCTT là công cụ pháp lý quan trọng để các đương sự có
thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách hợp pháp. Như vậy, việc
áp dụng BPKCTT trong q trình giải quyết vụ việc dân sự khơng chỉ có ý nghĩa
pháp lý mà cịn có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Mặt khác, do những xung đột về lợi ích nên có những vụ việc đương sự đã
tẩu tán tài sản, hủy loại chứng cứ, gây khó khăn cho đương sự trong việc bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời tạo ra những khó khăn nhất định trong
việc giải quyết vụ việc của HĐTT. Vì thế, việc áp dụng các BPKCTT trong trường
hợp này đã góp phần ngăn chặn các hành vi sai trái, bảo vệ bằng chứng, giữ nguyên
được giá trị chứng minh của chứng cứ, giúp cho việc giải quyết vụ việc dân sự được
chính xác.
8. Danh mục tài liệu tham khảo

a. Văn bản quy phạm pháp luật
Luật Thương mại năm 2005, NXB Tư Pháp, Hà Nội.
Luật Trọng tài Thương mại 2010, NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật.
Bộ luật Dân sự năm 2015, NXB Thế Giới, Hà Nội.


8

Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
b. Tài liệu chuyên môn
PGS-TS. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình Luật thương mại: Phần Chung
và Thương Nhân, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Một số luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Một số luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Kinh tế - Luật (Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh).
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 7/2017.
c. Tài liệu internet
/>9. Tiến độ thực hiện luận văn: 6 tháng, kể từ tháng 6 đến tháng 11/2021
STT Nội dung nghiên cứu

Thời gian dự kiến

Kết quả nghiên cứu
dự định đạt được

1

Xây dựng và bảo vệ đề cương 1,5 tháng

Đề


cương

hoàn

luận văn

thiện, được thơng
qua

2
3
4
5
6

Thu thập tài liệu
Viết
Viết
Viết
Chỉnh sửa theo góp ý của giáo

7

viên hướng dẫn
Nộp luận văn, chuẩn bị bài trình 1/2 tháng
bày, đăng ký bảo vệ
Tổng thời gian

1 tháng

1 tháng (tháng 8)
1 tháng (tháng 9)
1 tháng (tháng 10)
1/2 tháng

Chương 1
Chương 2
Chương 3
Luận văn

hoàn

thành

6 tháng

10. Đề xuất người hướng dẫn
Đề xuất người hướng dẫn khoa học: PGS-TS. Nguyễn Tiến Hoàng
11.Kết cấu dự kiến của luận văn
Ngoài phần cam đoan, mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của Luận văn được kết cấu thành 3 chương:


9

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của các BPKCTT và nguyên tắc áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương

mại tại Hội đồng trọng tài
1.1.1. Khái niệm
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp Tòa án quyết định áp dụng trước
khi thụ lý hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu
cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tranh chấp, tránh gây
thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.
Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể gây ra thiệt hại về quyền và
lợi ích cho bên bị áp dụng và người khác. Do đó, khi áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời phải rất thận trọng, phải thực hiện đúng quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm
Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vối mục đích giải quyết nhu cầu
cấp bách của đương sự, bảo tồn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo
đảm việc thi hành án. Do đó, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp và nhu cầu
cấp bách của đương sự, tạo điều kiện cho đương sự sớm ổn định được cuộc sống
của bản thân cũng như của những ngưồi sống phụ thuộc vào họ.
1.1.2.1.Tính khẩn cấp
Hội đồng trọng tài phải ra quyết định áp dụng ngay và quyết định này được
thực hiện ngay sau khi Hội đồng trọng tài ra quyết định, nếu khơng sẽ mất hết ý
nghĩa, tác dụng.
1.1.2.2. Tính tạm thời
Quyết định áp dụng BPKCTT chưa phải là quyết định cuối cùng về giải
quyết vụ việc dân sự, nếu lý do của việc áp dụng khơng cịn nữa thì Hội đồng trọng
tài hoặc Tịa án có thể hủy bỏ quyết định này.
1.1.2.3. Tính hiệu lực thi hành ngay khi được ban hành


10

BPKCTT là một cơng cụ pháp lý có sức cưỡng chế mạnh mẽ trong các vụ

tranh chấp dân sự. Nó tạo ra hậu quả pháp lý ngay lập tức đến đối tượng bị áp dụng
bởi Quyết định áp dụng BPKCTT có hiệu lực như một bản án chung thẩm, tức có
giá trị thi hành ngay khi ban hành.
1.1.3. Ý nghĩa
Ý nghĩa của việc áp dụng BPKCTT là nhằm bảo vệ kịp thời các quyền và lợi
ích hợp pháp và nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn được tài sản tranh
chấp hoặc bảo vệ được chứng cứ… Hội đồng trọng tài phải xem xét, quyết
định áp dụng khi đương sự có u cầu và xuất trình được chứng cứ chứng
minh việc áp dụng biện pháp này là có cơ sở và cần thiết.
1.1.4. Nguyên tắc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại
1.1.4.1. Nguyên tắc chung
Hội đồng trọng tài chỉ có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có
đủ cả bốn điều kiện sau:
- Phải có đương sự yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm
thời;
- Người yêu cầu phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó;
- Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã thực hiện nghĩa vụ
bảo đảm về tài chính để bảo đảm việc bồi thường những thiệt hại do việc yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng.
- Chưa có đương sự nào u cầu Tịa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời.
1.1.4.2. Nguyên tắc riêng
Thông qua người giải quyết là trọng tài viên; không công khai (trừ các bên
có thỏa thuận); theo yêu cầu của bên khởi kiện; phán quyết mang tính chất chung
thẩm, có sự ràng buộc, bắt buộc các bên phải thi hành; có thỏa thuận về việc giải
quyết bằng trọng tài thương mại; tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng
tài thương mại; linh hoạt, nhanh chóng.



11

Giải quyết trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền
lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình; tuân theo
một trình tự thủ tục nhất định, quyết định trọng tài không được công bố công khai,
rộng rãi, do đó bảo vệ được uy tín của các bên, giữ bí mật trong kinh doanh.
Phán quyết của trọng tài là chung thẩm, sau khi trọng tài đưa ra phán quyết
thì các bên khơng có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay tòa án nào.
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp khẩn cấp tạm thời
1.2.1. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Luật Trọng tài thương mại năm
2010
1.2.1.1. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp
Trong quá trình giải quyết việc tranh chấp, Hội đồng trọng tài, có thể áp
dụng biện pháp khẩn cấp này khi hội tụ đầy đủ các điều kiện: (1) đối tượng mà
đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTTphải là tài sản đang có tranh chấp; (2) người
đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản hoặc người khác đang có hành vi làm thay đổi hiện
trạng của tài sản như phá hủy, tháo dỡ, lắp ghép xây dựng thêm hoặc có hành vi
khác làm thay đổi hiện trạng tài sản; (3) người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực
hiện nghĩa vụ bảo đảm tài chính.
Đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTT này phải đưa ra tài liệu, chứng cứ
chứng minh bên đang chiếm hữu, giữ tài sản đang có hành vi làm thay đổi hiện
trạng tài sản. Hội đồng trọng tài hoặc Thẩm phán phải xem xét các yêu cầu, các căn
cứ mà đương sự đã đưa ra để quyết định có áp dụng biện pháp khẩn cấp đó hay
khơng.
1.2.1.2. Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một
số hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình
tố tụng trọng tài
Trong quá trình trọng tài giải quyết tranh chấp, nếu thấy đương sự nào đó
đang có hành vi (hành động hoặc khơng hành động) mà hành vi đó sẽ có tác động

gây bất lợi cho quá trình tố tụng thì đương sự bên kia có quyền u cầu trọng tài
hoặc Tịa án áp dụng biện pháp cấm hoặc buộc bên tranh chấp thực hiện một hoặc
một số hành vi nhất định. Khi có đương sự yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp này,


12

nếu thấy u cầu đó là chính đáng và đương sự đã xuất trình được tài liệu, chứng cứ
chứng minh cho việc cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp này thì trọng tài
hoặc Tịa án phải áp dụng ngay.
1.2.1.3. Kê biên tài sản đang tranh chấp
Kê biên tài sản chỉ áp dụng cho trường hợp người chiếm giữ tài sản đang có
tranh chấp có hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản đang có tranh chấp gây khó khăn
trong việc xem xét, giải quyết của Hội đồng trọng tài hoặc thi hành án sau này, thì
theo yêu cầu của một trong các bên đương sự Hội đồng trọng tài hoặc Tịa án có
quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp này.
Tài sản kê biên có thể thu giữ bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc lập biên
bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết
định của Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án. Khi lập biên bản kê biên phải ghi rõ ngày,
giờ, loại tài sản, mô tả đầy đủ, chính xác tình trạng tài sản . Nếu cơ quan, người thứ
ba được giao quản lý tài sản kê biên có thể được hưởng thù lao theo quy định của
pháp luật.
1.2.1.4. Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của
một hoặc các bên tranh chấp
Có những tài sản đang tranh chấp hoặc có liên quan đến tranh chấp, nếu
khơng xử lý kịp thời sẽ làm hư hỏng, mất giá trị, giảm giá trị hoặc làm biến dạng tài
sản, thì theo yêu cầu của một trong các bên tranh chấp có thể áp dụng BPKCTT
“bảo tồn, cất giữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một hoặc các bên tranh
chấp” thì Hội đồng trọng tài hoặc Tịa án sẽ áp dụng biện pháp này khi các bên
đương sự đã đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần thiết phải áp

dụng biện pháp khẩn cấp này.
1.2.1.5. Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên
Để kịp thời xử lý những nhu cầu cấp bách của đương sự, dù hai bên cịn đang
có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, về hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ…
đang phải chờ Hội đồng trọng tài phán xử, thì theo yêu cầu của một trong các bên
tranh chấp, Hội đồng trọng tài hoặc Tịa án có thể áp dụng BPKCTT về việc trả tiền


13

giữa các bên tranh chấp khi bên yêu cầu đã chứng minh yêu cầu áp dụng biện pháp
này là chính đáng, cần thiết.
1.2.1.6. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp
Dù tố tụng trọng tài được diễn ra trong thời gian không dài so với tố tụng tại
Tịa án, nhưng nó vẫn cần một khoảng thời gian nhất định. Lợi dụng thời gian tố
tụng trọng tài đang diễn ra một bên tranh chấp có thể có hành vi bán, chuyển
nhượng, cho thuê, tặng cho… tài sản đang có tranh chấp, hành vi này đe dọa gây ra
những thiệt hại cho đương sự khác hoặc gây khó khăn trong việc giải quyết tranh
chấp, xử lý tài sản tranh chấp. Do đó, khi có yêu cầu của một trong các bên đương
sự áp dụng biện pháp khẩn cấp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản
đang có tranh chấp thì Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án phải áp dụng biện pháp này.
Các BPKCTT được quy định tại khoản 2 Điều 49 Luật TTTM, có biện pháp
chỉ là một hành vi, một đối tượng, một hoạt động chuyển dịch, một hành động…
cần ngăn chặn hoặc buộc phải thực hiện, cấm thực hiện, nhưng có BPKCTT có quy
định kép, nên chứa đựng nhiều nội dung, nhiều hành vi, hoạt động cần điều chỉnh
bằng BPKCTT.
Khi áp dụng BPKCTT khơng phải bê ngun xi tồn bộ các hành vi, các hoạt
động, các nội dung trong các điểm, khoản quy định biện pháp kép đó mà chỉ nêu
những hành vi, hoạt động nào cần điều chỉnh, ngăn chặn theo yêu cầu của đương sự.
Nếu thực tế đang diễn ra hoặc sẽ diễn ra tất cả các hành vi, hoạt động… được quy

định trong BPKCTT đó và một bên yêu cầu áp dụng biện pháp ngăn chặn toàn bộ
các hành vi, hoạt động… đang hoặc sẽ diễn ra được quy định trong BPKCTT đó thì
mới ghi ngun văn tất cả hành vi, hoạt động được quy định trong điểm, khoản quy
định về BPKCTT đó.
1.3. Thẩm quyền, thủ tục áp dụng BPKCTT của Hội đồng trọng tài
1.3.1. Thẩm quyền
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, một trong các bên tranh chấp yêu cầu
Hội đồng trọng tài áp dụng BPKCTT thì Hội đồng trọng tài có quyền áp dụng
BPKCTT và chỉ được áp dụng các BPKCTT mà đương sự đã yêu cầu.


14

Theo Điều 49 Luật TTTM thì hội đồng trọng tài chỉ có thẩm quyền áp dụng
BPKCTT đối với các bên tranh chấp mà khơng có thẩm quyền đối với bên thứ ba.
Điều này là khác với thẩm quyền của Tòa án, bởi Tịa án có quyền áp dụng
BPKCTT đối với cả bên thứ ba nếu được yêu cầu và xét thấy có đủ căn cứ theo luật.
Trong trường hợp có yêu cầu và trọng tài áp dụng cho bên thứ ba, cần làm rõ bên
thứ ba có liên quan đến thỏa thuận trọng tài hay khơng, vì thơng thường, thỏa thuận
trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên tham gia thỏa thuận đó. Chỉ một số
ít trường hợp bên thứ ba trong thỏa thuận trọng tài bị ràng buộc bởi thỏa thuận đó,
có thể kể ra là:
- Thứ nhất, theo học thuyết “tập đồn cơng ty”, mà theo đó những quyền lợi
và trách nhiệm phát sinh từ một thỏa thuận trọng tài trong một số trường hợp có thể
mở rộng sang các thành viên khác trong tập đoàn;
- Thứ hai, do hiệu lực của quy tắc chung về chuyển nhượng, đại lý và kế
thừa. Theo đó một chi nhánh của một bên trong điều khoản trọng tài có thể là đồng
bị đơn trong q trình tố tụng trọng tài ...
Tuy nhiên, cần phải chỉ rõ rằng những trường hợp trên là hạn chế và thông
thường, thỏa thuận trọng tài không liên quan đến bên thứ ba. Để việc hiểu và áp

dụng thống nhất, khi sửa đổi, bổ sung Luật TTTM cần quy định rõ khi nào thì thỏa
thuận trọng tài sẽ có giá trị đối với bên thứ ba, và chỉ khi đó hội đồng trọng tài mới
có thẩm quyền áp dụng BPKCTTđối với bên thứ ba đó.
Trước khi áp dụng Hội đồng trọng tài phải hỏi đương sự và kiểm tra một
trong các bên đương sự đã yêu cầu Tòa án và Tòa án đã áp dụng một hoặc một số
BPKCTT hay chưa. Nếu một trong các bên đương sự đã yêu cầu Tòa án áp dụng
BPKCTT thì Hội đồng trọng tài phải từ chối việc áp dụng BPKCTT.
1.3.2. Điều kiện để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo quy định tại khoản 1, 3, 4 Điều 49 Luật TTTM thì Hội đồng trọng tài
chỉ có thể áp dụng BPKCTT khi có đủ 4 điều kiện sau:
- Phải có đương sự yêu cầu áp dụng một hoặc một số BPKCTT;
- Người yêu cầu phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng BPKCTT đó;


15

- Người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện nghĩa vụ bảo đảm về tài
chính để bảo đảm việc bồi thường những thiệt hại do việc yêu cầu áp dụng
BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng;
- Chưa có đương sự nào u cầu Tịa án áp dụng BPKCTT.
Nếu thiếu một trong bốn điều kiện nói trên thì Hội đồng trọng tài sẽ khơng
áp dụng BPKCTT.
1.3.3. Thủ tục áp dụng BPKCTT của Hội đồng trọng tài (Điều 50)
Đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTTphải làm đơn gửi đến Hội đồng trọng tài
(đầy đủ nội dung theo quy định). Khi bên yêu cầu áp dụng BPKCTT đã làm đơn và
xuất trình tài liệu, chứng cứ chứng minh sự cần thiết phải áp dụng BPKCTT, thì Hội
đồng trọng tài ra văn bản nêu cụ thể số tiền, tài sản khi thực hiện nghĩa vụ bảo đảm.
Trên cơ sở quyết định của Hội đồng trọng tài, bên yêu cầu áp dụng BPKCTT
phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Hội đồng trọng

tài ấn định tương ứng với giá trị thiệt hại có thể phát sinh, do áp dụng BPKCTT
khơng đúng gây ra để bảo vệ lợi ích của bên bị yêu cầu áp dụng BPKCTT. Khoản
tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá được gửi vào tài khoản phong tỏa tại
ngân hàng do Hội đồng trọng tài quyết định.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn, ngay sau khi bên yêu
cầu đã thực hiện biện pháp bảo đảm theo yêu cầu của Hội đồng trọng tài thì Hội
đồng trọng tài xem xét ra quyết định áp dụng BPKCTT. Trường hợp không chấp
nhận yêu cầu, Hội đồng trọng tài thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho bên
yêu cầu biết. Việc thi hành quyết định áp dụng BPKCTT của Hội đồng trọng tài
được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
1.4. Thẩm quyền, thủ tục thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT của Hội đồng
trọng tài (Điều 51)
1.4.1. Thẩm quyền
Sau khi Hội đồng trọng tài đã ra quyết định áp dụng BPKCTT, theo yêu cầu
của một bên, Hội đồng trọng tài có quyền thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT vào
bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết tranh chấp.
1.4.2. Thủ tục thay đổi, bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời


16

Bên yêu cầu thay đổi, bổ sung BPKCTT phải làm đơn gửi Hội đồng trọng
tài. Đơn yêu cầu thay đổi, bổ sung BPKCTTphải có các nội dung sau:
- Ngày, tháng, năm làm đơn;
- Tên, địa chỉ của bên có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Tên, địa chỉ của bên bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Tóm tắt nội dung tranh chấp;
- Lý do cần phải thay đổi, bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- BPKCTTcần được thay đổi, bổ sung và các yêu cầu cụ thể.
1.4.3. Hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời

Khi có một trong các căn cứ dưới đây thì Hội đồng trọng tài phải ra quyết
định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời:
- Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT đề nghị hủy bỏ;
- Bên phải thi hành quyết định áp dụng BPKCTT đã nộp tài sản hoặc có
người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu;
- Nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của pháp luật.
1.4.4. Thủ tục hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
- Bên yêu cầu phải có đơn đề nghị hủy bỏ BPKCTT gửi Hội đồng trọng tài.
- Hội đồng trọng tài xem xét ra quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời.
Khi Hội đồng trọng tài quyết định hủy bỏ BPKCTT thì phải xem xét, quyết
định để người đã thực hiện việc bảo đảm được nhận lại tài sản bảo đảm.
Nếu do việc yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người
bị áp dụng BPKCTT hoặc người thứ ba thì Hội đồng trọng tài không ra quyết định
trả lại tài sản bảo đảm cho người đã thực hiện biện pháp bảo đảm đó.
Quyết định hủy bỏ BPKCTT phải được gửi ngay cho các bên tranh chấp và
Cơ quan thi hành án dân sự.
1.4.5. Trách nhiệm của Hội đồng trọng tài khi áp dụng BPKCTT (Điều 52)
Hội đồng trọng tài chỉ áp dụng BPKCTT mà đương sự yêu cầu và đúng với
mức tài sản mà đương sự nêu ra. Trong trường hợp Hội đồng trọng tài áp dụng
BPKCTT khác, hoặc hội đồng trọng tài áp dụng vượt quá yêu cầu áp dụng


17

BPKCTT của bên yêu cầu mà gây thiệt hại bên bị áp dụng hoặc người thứ ba thì
người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tịa án để u cầu giải quyết bồi thường
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
1.4.6. Trách nhiệm của bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải chịu trách nhiệm về yêu cầu của mình.

Trong trường hợp bên yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng và gây thiệt hại cho
bên kia hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.
Kết luận Chương 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM
THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI TẠI HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI
2.1. Thực trạng
Nếu so sánh giữa ưu và nhược điểm thì việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại qua hệ thống trọng tài là con đường tốt hơn cho các doanh
nghiệp. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại đến nay bằng
trọng tài chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với số lượng tranh chấp xảy ra trong đời sống
thương mại ở nước ta.
Nguyên nhân:
- Ý thức về pháp luật của các doanh nghiệp và việc kinh doanh trong điều
kiện cạnh tranh khốc liệt làm cho các chủ thể trong quan hệ đều vi phạm hợp đồng.
Trong một giao dịch, bên này vi phạm việc này, bên kia sai việc khác; hoặc hôm
nay, bên này sai, thì ngày mai, bên kia sai; người ta tìm cách thương thuyết “tay
đơi” để giải quyết ổn thoả, nhằm giữ quan hệ làm ăn lâu dài. Vì lẽ đó, việc đưa nhau
ra xử lý bằng trọng tài hoặc tồ án các bên đều khơng muốn.
- Nhiều doanh nghiệp, cá nhân không am hiểu những vấn đề liên quan đến tố
tụng thông qua con đường trọng tài thương mại. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, ở
nước ta có trọng tài kinh tế nhà nước - cơ quan này quản lý hợp đồng kinh tế giữa
các chủ thể kinh tế nhà nước. Nhưng việc đó đã bãi bỏ lâu. Từ đó, các doanh nghiệp
chỉ quen tranh chấp bằng con đường tố tụng tại Tòa án. Thực tế cho thấy, hầu hết


18

các hợp đồng thương mại chỉ có quy định hai biện pháp tranh chấp là tự thương
lượng giải quyết, nếu khơng giải quyết được thì đưa ra giải quyết tại tồ án có thẩm

quyền. Trong một ngàn hợp đồng, chỉ có một vài hợp đồng chế định việc tranh chấp
tại Trung tâm trọng tài. Như vậy, phương pháp tự xử và xử lý tranh chấp tại Tòa án
đã ăn sâu vào tiềm thức của các doanh nghiệp.
- Trọng tài thương mại là một tổ chức phi Chính phủ. Chúng ta sống trong hệ
thống chính trị mà người dân nghĩ rằng chỉ có các quyết định của Đảng và Nhà
nước mới có hiệu lực và tính khả thi
- Tồn tại trong bản thân của các trung tâm trọng tài. Đến thời điểm hiện nay,
chúng ta chỉ có thể liệt kê các trung tâm trọng tài trên đầu ngón tay. Dồng thời, hoạt
động của các trung tâm trọng tài chỉ dựa vào nguồn vốn tự có của các nhà sáng lập,
nguồn thu từ các vụ tranh chấp. Nhưng các vụ tranh chấp quá ít ỏi, nguồn thu quá
hạn hẹp, hạn chế khả năng phát triển công nghệ, chất lượng chuyên môn của trọng
tài viên…
2.1.1. Trước thời điểm áp dụng Luật Trọng tài thương mại năm 2010
Trước đây pháp luật Việt Nam chỉ quy định việc áp dụng BPKCTT trong tố
tụng tòa án kể cả trong trường họp các bên lựa chọn trọng tài làm phương thức giải
quyết tranh chấp thì khi có nhu cầu áp dụng BPKCTT thì vẫn phải gửi đơn đến tịa
án có thẩm quyền để tịa án quyết định hỗ trợ cho hoạt động giải quyết tranh chấp
của trọng tài và bảo vệ lợi ích cho đương sự.
2.1.2. Từ khi áp dụng Luật Trọng tài thương mại năm 2010
Việc ra đời của Luật Trọng tài thương mại 2010 đã mở rộng hơn nữa phạm vi
của việc áp dụng các BPKCTT, Tịa án từ chủ thể duy nhất có thẩm quyền ban hành
quyết định áp dụng BPKCTT thì nay Hội đồng trọng tài cũng có thẩm quyền ban
hành. Các quy đỊnh này nhằm làm tăng thêm vị thế của phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài so với trước đây. Tăng thêm sự chọn lựa giữa các hình
thức giải quyết tranh chấp. Giúp việc giải quyết các tranh chấp được giải quyết
nhanh chóng giảm tải xét xử cho ngành tịa án, tiết kiệm được cơng sức thời gian
cho các bên trong tranh chấp.


19


2.2. Nguyên nhân Hội đồng trọng tài ít áp dụng BPKCTT trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 49 Luật TTTM thì một trong số 6
BPKCTT mà Hội đồng trọng tài có quyền áp dụng là “Cấm thay đổi hiện trạng tài
sản đang tranh chấp”. Ta biết rằng, “cấm thay đổi hiện trạng tài sản là việc cấm
người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản có những hành vi tháo dỡ, lắp ghép, xây
dựng thêm; hoặc hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản như phá hỏng, phá
hủy”. Như vậy, rất dễ thấy biện pháp này sẽ khơng có khả năng thực thi trong
trường hợp tài sản tranh chấp đang thuộc quyền chiếm hữu (hoặc gửi giữ) bởi người
thứ ba và người này đang có những hành vi làm “thay đổi hiện trạng” tài sản đó.
Cũng tương tự như vậy khi ta xem xét quy định tại điểm c khoản 2 Điều 49
Luật TTTM về BPKCTT “kê biên tài sản đang tranh chấp”. Rõ ràng là biện pháp
này, nếu được ban hành, sẽ bị phá sản ngay lập tức nếu tài sản đang tranh chấp đang
nằm trong quyền kiểm soát của người thứ ba. Hơn nữa, việc kê biên tài sản thường
chỉ được thực hiện nhân danh pháp luật và ln mang tính chất cưỡng chế nhà
nước.
Hội đồng trọng tài chỉ có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có
đủ cả bốn điều kiện sau:
- Phải có đương sự yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm
thời;
- Người yêu cầu phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó;
- Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã thực hiện nghĩa vụ
bảo đảm về tài chính để bảo đảm việc bồi thường những thiệt hại do việc yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng;
- Chưa có đương sự nào u cầu Tịa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời.
Ngoài ra, khi nguyên đơn khởi kiện ra trọng tài, trọng tài ở đây được hiểu là
Hội đồng trọng tài chứ không phải trung tâm trọng tài vì chỉ có hội đồng trọng tài

mới có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Xét về mặt thực tiễn, nếu


20

cần áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, nguyên đơn có thể gặp phải một số
bất lợi về mặt thời gian nếu phải chờ bị đơn chỉ định trọng tài viên và ban thư ký
hoàn tất thủ tục thành lập hội đồng trọng tài. Thời gian có thể kéo dài đủ lâu để bị
đơn (nếu muốn) có thể tẩu tán đáng kể các tài sản tranh chấp.
Thêm vào đó, các chủ thể khác có liên quan trong vụ tranh chấp thường chỉ
cho rằng chỉ tịa án mới có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời can
thiệp và hạn chế các quyền định đoạt tài sản của họ. Họ cho rằng hội đồng trọng tài
dù có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời thì cũng chỉ mang tính
chất tư và chỉ được áp dụng cho các bên đương sự trong vụ tranh chấp, khó có lý do
để áp dụng làm hạn chế quyền lợi với người thứ ba.
2.2.1. So sánh việc áp dụng BPKCTT theo Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 và Luật
Trọng tài thương mại 2010
2.2.2. Một số quy định của Luật Trọng tài thương mại về BPKCTT
Khoản 3 Điều 49 Luật có quy định: “Trong quá trình giải quyết tranh chấp,
nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn
cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều này mà sau đó lại có đơn yêu cầu Hội
đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng trọng tài phải từ
chối”, và khoản 5 Điều 53 cũng có quy định: “Trong quá trình giải quyết tranh
chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một
số biện pháp khẩn cấp tạm thời mà lại có đơn u cầu Tịa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời thì Tòa án phải từ chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài”. Theo đó, nguyên tắc của Luật là nếu hội đồng trọng tài đã áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tịa án sẽ từ chối, trừ trường hợp những nội dung
không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài. Nếu Tòa án đã áp dụng biện pháp

khẩn cấp tạm thời thì hội đồng phải từ chối. Ta có thể thấy Tịa án đóng vai trị hỗ
trợ rất lớn trong trường hợp các bên đã có u cầu Tịa án áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền
của hội đồng trọng tài.


21

Như vậy ta có thể thấy Luật đã dự liệu và phân định phạm vi thẩm quyền áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giữa hội đồng trọng tài và Tịa án nhằm tránh
tình trạng xung đột về thẩm quyền, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc trong mọi
trường hợp các bên đều có thể làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc pháp luật cho phép các bên có quyền yêu cầu hội đồng trọng tài hoặc
Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo quyền lợi của mình
trong vụ việc giải quyết tranh chấp, khi các bên thấy cần phải bảo vệ tài sản bị
tranh chấp trước nguy cơ tẩu tán tài sản hoặc các hành vi khác nhằm giảm giá trị
của tài sản tranh chấp. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thể hiện rất rõ ở việc
Tịa án có thể dùng sức mạnh cưỡng chế nhà nước mà mình có được để áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời, điều mà Hội đồng trọng tài tuy cũng có thể thực
hiện nhưng khơng thể thực hiện triệt để, tốt bằng Nhà nước do khơng có được nhân
danh Nhà nước và thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời của Tòa án có giá trị pháp lý cao hơn, hiệu quả thi hành tốt hơn việc
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài.
2.2.3. Trách nhiệm nặng nề của trọng tài viên, Hội đồng trọng tài
Quyền giám sát hoạt động tố tụng của Hội đồng trọng tài trước hết thuộc về
các bên tranh chấp. Điều 43 khoản 2 Luật TTTM quy định “Trong quá trình giải
quyết tranh chấp, nếu phát hiện Hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền, các bên có
thể khiếu nại với Hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm xem xét,
quyết định”. Cơ chế giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật Việt Nam rất

hạn chế, theo kiểu “vừa đá bóng, vừa thổi cịi”.
Hiện nay, Luật TTTM quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động
trọng tài tại các Điều 1, 41, 42, 43, 44, 47, 48, 49, 53, 68, 68, 70, 71; vai trò của Tòa
án chỉ nằm ở giai đoạn khởi đầu và khi đã kết thúc quá trình tố tụng trọng tài. Nếu
hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền hoặc có những sai phạm trong suốt quá
trình tố tụng, việc ngăn chặn và khắc phục hậu quả do hành vi sai phạm của Hội
đồng trọng tài là hết sức khó khăn, nan giải, phải nhờ sự can thiệp của Tòa án.


22

Nhưng vai trị của Tịa án trong q trình tố tụng trọng tài được luật quy định rất mờ
nhạt cả Luật TTTM lẫn Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
2.2.4. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa tố tụng Trọng tài và Tòa án:
1. Trọng tài Thương mại chỉ giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động
kinh doanh, thương mại với điều kiện các bên có thoả thuận trọng tài; nếu các bên
khơng có thoả thuận trọng tài, Tịa án có thẩm quyền đương nhiên giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại.
2. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại được tiến hành khơng
cơng khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Tịa án xét xử cơng khai.
Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân
tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh,
bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đương sự theo u cầu chính đáng của họ thì
Tịa án có thể xét xử kín.
3. Trọng tài giải quyết tranh chấp nhanh (Phán quyết trọng tài là chung
thẩm). Tòa án giải quyết chậm, phải bảo đảm 2 cấp xét xử: Sơ thẩm, phúc thẩm
thậm chí giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
4. Điểm giống nhau của cả hai thủ tục tố tụng Trọng tài thương mại và Tòa
án là: Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài
và Hội đồng xét xử có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa

vụ của mình trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Kết luận Chương 2
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN
CẤP TẠM THỜI TRONG TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
3.1. Một số yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về BPKCTT
3.1.1. Phù hợp với chính sách phát triển nền kinh tế thị trường của Việt Nam
3.1.2. Đảm bảo sự thống nhất với hệ thống văn bản pháp luật, đặc biệt là Bộ luật
Tố tụng dân sự 2015
3.1.3. Đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế trong xu thế toàn cầu
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về BPKCTT


23

3.2.1. Về khái niệm
3.2.2. Các quy định về điều kiện có hiệu lực
3.2.3. Các quy định về căn cứ vơ hiệu và hậu quả pháp lý
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPKCTT trong việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
3.3.1. Nâng cao vai trò của trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp
kinh tế
Như đã phân tích tại Chương 2, luận văn xin đề xuất một số giải pháp để
nâng cao sức hấp dẫn của hoạt động trọng tài tại Việt Nam trên cơ sở khắc phục
những tồn tại, đồng thời duy trì những thành tựu đã đạt được một cách ổn định
trong tương lai.
Thứ nhất: Cần có cơ chế hỗ trợ pháp lý từ phía Nhà nước đối với các tổ chức
phi Chính phủ, trong đó có Trọng tài thương mại. Đây là một giải pháp quan trọng.
Nếu có sự hỗ trợ thích đáng thì Trọng tài thương mại có thể phát huy mạnh mẽ được
chức năng và vai trò của mình. Ở các nước trên thế giới, người ta chỉ giải quyết

tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài là chủ yếu, giải quyết qua toà án
chiếm một tỷ lệ không lớn. Qua khảo sát thực tế, các tổ chức phi Chính phủ chưa
được các cơ quan, xã hội đánh giá đúng “tầm”… Có một thực trạng là các tổ chức
phi Chính phủ khơng được tiếp cận nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước. Ví dụ,
nhiều người làm việc trong các tổ chức dân sự hiện nay nguyên là cán bộ, Đảng
viên lâu năm của Đảng khơng có cơ hội đào tạo tại các trường như: Nguyễn ái
Quốc… Cần phải nêu ra vấn đề đó để chúng ta thấy rằng: nếu tư duy và nhận thức
của xã hội, Nhà nước khơng có sự hỗ trợ đúng mức thì các tổ chức phi Chính phủ,
trong đó có trọng tài kinh tế khơng thể phát huy hết vai trị của mình trong việc thực
hiện chức năng quản lý xã hội dân sự.
Về mặt pháp lý, thiết nghĩ cần phải nâng cấp Pháp lệnh Trọng tài thành Luật Trọng
tài và ban hành Luật về hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ. Có như vậy, mới
tạo ra được những yếu tố bền vững đối với việc tổ chức và hoạt động của các tổ
chức phi Chính phủ.


24

Thứ hai: Cần có sự trợ giúp ban đầu về mặt vật chất. Thiết nghĩ, chỉ cần có
sự hỗ trợ một phần nhỏ nguồn kinh phí Nhà nước đang cấp cho các cơ quan quản lý
hiện nay thì các tổ chức phi Chính phủ thuộc ngành luật pháp, cũng như các ngành
nghề khác sẽ làm “nên chuyện”, sẽ gánh vác một phần lớn chức năng quản lý của
Nhà nước, tiết kiệm trong chi phí quốc dân. Nguồn này, có thể khai thác từ việc
giảm thiểu chi phí hành chính, giảm bớt biên chế tại các tổ chức Nhà nước. Có thể
ban hành cơ chế cho thuê trụ sở đối với các tổ chức phi Chính phủ. Nên có cơ chế
để các tổ chức phi Chính phủ được khai thác và tự quản lý nguồn tài chính viện trợ
của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ, các tổ chức quốc tế. Một số đề án,
chương trình, thiết nghĩ nên chuyển giao cho tổ chức dân sự thực hiện.
Thứ ba: Cần có các biện pháp giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân hiểu biết
vai trò và ý nghĩa của tổ chức xã hội dân sự đối với quá trình phát triển kinh tế – xã

hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường đã hội nhập.
Với xu hướng hội nhập, tồn cầu hố hiện nay, các tranh chấp sẽ diễn ra
thường xuyên, phổ biến và gia tăng về số lượng, gia tăng tính chất phức tạp cùng
với sự phát triển về quy mô, nhịp độ, các loại, dạng hoạt động thương mại trong
phạm vi quốc gia, cũng như quốc tế.
Trong bối cảnh đó, giải quyết nhanh, gọn, có hiệu quả, hợp lý các tranh chấp
thương mại càng trở nên cần thiết đối với mục tiêu thúc đấy hoạt động kinh doanh
thương mại. Bởi lẽ, nếu chúng được giải quyết nhanh, gọn, hợp lý, có hiệu quả các
tranh chấp thương mại không những tạo điều kiện để hoạt động kinh doanh thương
mại diễn ra một cách suôn sẻ, không gặp ách tắc, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
kinh doanh được bảo đảm mà cịn tạo mơi trường tâm lý tốt cho các thương nhân
yên tâm, mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, kinh doanh.
Với những tiện ích rõ rệt của mình và với xu hướng được ưa thích, sử dụng
rộng rãi trong đời sống thương mại ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới, việc giải
quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài sẽ hứa hẹn một bước phát triển, trong
những năm tới, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong tranh chấp quan
hệ kinh tế.


25

Bộ Tư pháp đang chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng dự
thảo đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ trọng tài viên, trung tâm trọng tài và định
hướng một hoặc một số trung tâm trọng tài điểm có khả năng cạnh tranh quốc tế
giai đoạn 2018 - 2023”.
3.3.2. Nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ
Sớm hoàn thiện thể chế về pháp luật thương mại, trọng tài thương mại và hệ
thống pháp luật hỗ trợ hoạt động của TTTM. Điều này nhằm đảm bảo cơ chế giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài có hiệu quả, đảm bảo các phán quyết trọng tài đã có
hiệu lực pháp lý được thi hành trên thực tế, hạn chế việc hủy phán quyết trọng tài

thiếu cơ sở pháp lý. Thêm nữa, cần xây dựng, ban hành cơ chế tăng cường sự kiểm
tra, giám sát việc triển khai thi hành quy định pháp luật TTTM, đặc biệt là giám sát
việc hủy phán quyết trọng tài; giám sát việc công nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Đối với trọng tài viên, đề án yêu cầu nâng cao
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng về chun mơn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, trình
độ ngoại ngữ, kỹ năng giải quyết tranh chấp, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ
trọng tài viên; đặc biệt trong các lĩnh vực chuyên sâu như đầu tư, thương mại quốc
tế, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Thêm nữa, nhanh chóng nghiên cứu, triển khai
việc thành lập Hiệp hội TTTM toàn quốc nhằm hỗ trợ việc phát triển hoạt động
trọng tài nói chung và phát triển đội ngũ trọng tài viên nói riêng. Đồng thời, nghiên
cứu xây dựng, ban hành và triển khai Bộ quy tắc đạo đức mẫu về nghề nghiệp trọng
tài viên. Đối với Trung tâm trọng tài, đề án yêu cầu phải nâng cao tính chuyên
nghiệp, hội nhập quốc tế của Trung tâm trọng tài; các trung tâm trọng tài chú trọng
xây dựng đội ngũ trọng tài viên có chất lượng, chun nghiệp, có trình độ ngoại ngữ
phù hợp đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã
hội và hội nhập quốc tế. Ngoài ra, các Trung tâm TTTM nên xây dựng quy tắc tố
tụng phù hợp với Luật TTTM, Quy tắc trọng tài Uncitral và thực tiễn của Việt Nam
trong hoạt động TTTM. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường cơ sở vật chất, đầu tư
trang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động TTTM nhằm đáp ứng nhu cầu giải
quyết tranh chấp ngày càng tăng và yêu cầu hội nhập quốc tế. Thêm nữa, các trung
tâm trọng tài cũng chủ động xây dựng cơ chế, chính sách thu hút đội ngũ trọng tài


×