Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.9 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ MINH NGỌC

BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI –
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số

: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI - 2013


i


ii


iii



iv


v


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, việc giải quyết tranh
chấp thường phải tuân theo một quy trình tố tụng chặt chẽ do pháp luật quy định,
bao gồm nhiều giai đoạn thường được thực hiện tuần tự nối tiếp, giai đoạn này là cơ
sở thực hiện cho giai đoạn sau. Vì vậy, thời gian kể từ khi trọng tài thương mại thụ
lý vụ tranh chấp cho đến trọng tài thương mại ra phán quyết chính thức giải quyết
về nội dung tranh chấp là tương đối dài. Trong khoảng thời gian này, vì lợi ích của
mình hoặc do thiếu thiện chí, một trong số các bên tranh chấp có hành vi tNu tán tài
sản, hủy hoại hoặc xâm phạm chứng cứ... Thực tế này đòi hỏi phải có sự can thiệp
ngay bằng quyết định tạm thời của cơ quan có thNm quyền chống lại các hành vi đó
nhằm bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng tài sản và giữ được tài sản bảo đảm cho
việc thi quyết định của trọng tài thương mại sau này… Quyết định của cơ quan có
thNm quyền sẽ đưa ra các biện pháp có tính khNn cấp (các biện pháp này được áp
dụng ngay, kịp thời) và tính tạm thời (các biện pháp chỉ được áp dụng lâu nhất cho
đến khi việc giải quyết tranh chấp kết thúc). Các biện pháp này có nhiều hình thức
khác nhau và có tên gọi không hoàn toàn giống nhau theo pháp luật các nước và
pháp luật quốc tế như “các biện pháp khNn cấp tạm thời cho sự bảo vệ”, “các biện
pháp khNn cấp tạm thời hoặc bảo vệ”, “các biện pháp lâm thời hoặc bảo vệ”, “các
biện pháp khNn cấp tạm thời”. Tuy nhiên, cho dù tên gọi gì thì về nguyên tắc các
biện pháp này nhằm để thực hiện các lệnh tạm giữ nguyên hiện trạng, trong khi chờ

đợi kết quả của quá trình tố tụng trọng tài thương mại. Các biện pháp khNn cấp tạm
thời trong tố tụng trọng tài thương mại được ghi nhận và hiệu quả của nó đã được
kiểm chứng qua thực tiễn tố tụng trọng tài thương mại nhiều nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, biện pháp khNn cấp tạm thời đã được pháp luật trọng tài thương
mại ghi nhận từ năm 2003, thời điểm Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 ra
đời. Sau hơn 7 năm triển khai thi hành, Pháp lệnh này đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế,
bao gồm cả các vấn đề liên quan đến biện pháp khNn cấp tạm thời. Vì vậy, hiện nay,


2

các quy định về biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại đã
được sửa đổi, bổ sung trong Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Như đã đề cập ở
trên, biện pháp khNn cấp tạm thời là những biện pháp có ý nghĩa rất thiết thực, cần
được áp dụng kịp thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy, mặc dù các quy định về biện pháp khNn cấp tạm thời
trong pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam đã được hoàn thiện hơn nhưng
dường như các quy định này vẫn chưa phát huy được hiệu quả như nó vốn có. Biện
pháp khNn cấp tạm thời được sử dụng chưa nhiều trong tố tụng trọng tài thương mại
ở Việt Nam. Trong tình hình như vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện các quy
định của pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam về biện pháp khNn cấp tạm thời,
thực tiễn áp dụng các quy định này để nhận biết được những thành tựu đã đạt được
cũng như hạn chế còn tồn tại để từ đó đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định về biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại và nâng
cao hơn nữa hiệu quả việc áp dụng các biện pháp này là cần thiết.
Xuất phát từ những điểm nêu trên, người viết đã chọn vấn đề “Biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu của Luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật
Kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2.1. Ở nước ngoài
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đề cập đến biện pháp khNn cấp tạm thời
trong tố tụng trọng tài thương mại mà người viết có thể tiếp cận được bao gồm:
- “Pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế”, sách của nhóm tác giả
Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby, Constantine Partasides được xuất
bản vào năm 2004, được dịch sang tiếng Việt từ nguyên bản tiếng Anh và xuất bản
năm 2009 với sự hợp tác của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI), Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). Cuốn sách này đề cập đến


3

biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại quốc tế dưới góc độ
là một nội dung rất nhỏ với lượng thông tin hạn chế.
- “Interim measures in international commercial arbitration: past, present and
future” (tạm dịch: Biện pháp khNn cấp tạm thời trong trọng tài thương mại quốc tế:
quá khứ, hiện tại và tương lai), Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Sandeep
Adhipathi, Khoa Luật Trường Đại học Georgia (Hoa Kỳ), được thực hiện năm 2003
với sự hướng dẫn khoa học của Giáo sư Gabriel M. Wilner. Tác giả đã tiếp cận biện
pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại quốc tế toàn diện hơn, có
sự so sánh quy định giữa các quốc gia như Hoa Kỳ, Anh, Thụy Sỹ…
Nhìn chung, ở nước ngoài, các tác giả thường nghiên cứu biện pháp khNn cấp tạm
thời trong tố tụng trọng tài thương mại quốc tế hơn là tố tụng trọng tài thương mại
trong nước. Điều này có thể được lý giải rằng, trên thế giới, trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến hơn đối với các tranh chấp phát sinh từ các
hoạt động thương mại có yếu tố quốc tế. Người viết hiện chưa tìm thấy công trình
nghiên cứu khoa học nào của nước ngoài đề cập biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố
tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam.
2.2. Ở Việt Nam
Theo tìm hiểu của người viết, hiện nay ở Việt Nam có rất ít công trình

nghiên cứu mà đối tượng nghiên cứu là biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng
trọng tài thương mại. Cụ thể mới chỉ có 2 công trình, đó là:
- “Biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài của tác giả Phạm Duy
Nghĩa, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng quốc hội, Số 23 năm
2010. Vì chỉ dừng lại là một bài viết ngắn đăng trên tạp chí chuyên ngành nên tác
giả chỉ tiếp cận biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài ở góc độ nhất
định, không đưa ra những cơ sở lý luận và phân tích toàn diện về vấn đề này.
- “Biện pháp khNn cấp tạm thời trong pháp luật Việt Nam về trọng tài thương
mại”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phan Nhựt Bình, Trường Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh được thực hiện vào năm 2010 với sự hướng dẫn khoa học của GS.


4

TS. Nguyễn Thị Mơ. Với công trình nghiên cứu này, tác giả đã chú trọng nghiên
cứu một số vấn đề lý luận về trọng tài thương mại và các biện pháp khNn cấp tạm
thời trong tố tụng trọng tài thương mại. Đặc biệt, tác giả đã tìm hiểu phân tích
những quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010, so sánh với những quy
định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 để chỉ ra những điểm tiến bộ
của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cũng như những điểm còn hạn chế của
Luật này về vấn đề áp dụng biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài
thương mại, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các
quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Tác giả thực hiện công trình
nghiên cứu này khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 chưa có hiệu lực, đến nay,
do thực tiễn đã có những thay đổi nhất định, một số kiến nghị tác giả đề xuất đã
không còn tính thời sự, không đáp ứng được những thay đổi của thực tiễn.
Ngoài ra, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khoa học có đề cập đến
biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại dưới góc độ vấn đề
có liên quan đến đối tượng nghiên cứu, đó là:
- “ThNm quyền của Hội đồng trọng tài và vai trò của Tòa án trong quá trình tố

tụng trọng tài” của tác giả Đào Trí Úc, đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật
học (26) năm 2010.
- “Sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Tống Vân Huyền, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, được thực hiện vào năm 2011.
- “Tác động của những quy định mới trong Luật Trọng tài thương mại tới hoạt
động giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ
Luật học của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền, Trường Đại học Luật Hà Nội, được
thực hiện vào năm 2012 với sự hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Thị Lan Anh.
- “Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại
theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả


5

Phan Chân Nhân, Trường Đại học Luật Hà Nội, được thực hiện vào năm 2012 với
sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Viết Tý.
Nhìn chung, những công trình này đề cập đến biện pháp khNn cấp tạm thời
trong tố tụng trọng tài thương mại với lượng thông tin còn hạn chế.
Từ việc điểm qua các công trình nghiên cứu về hoặc có liên quan tới biện pháp
khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại, có thể khẳng định, kể từ khi
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 có hiệu lực pháp luật, chưa có công trình
nghiên cứu khoa học nào mang đến cho người đọc cái nhìn toàn diện về lý luận và
thực tiễn áp dụng biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại ở
Việt Nam. Vì thế, Luận văn này được hoàn thành với tham vọng sẽ là một công
trình nghiên cứu khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn diện và có tính hệ thống về vấn
đề biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam từ lý
luận đến thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về
biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại, đánh giá thực trạng
pháp luật hiện hành về biện pháp khNn cấp tạm thời, từ đó kiến nghị một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về các biện
pháp này trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích của việc nghiên cứu đề tài, các nhiệm vụ được đặt ra là:
- Làm rõ về khái niệm và đặc điểm trọng tài thương mại, khái niệm và đặc
điểm cũng như thủ tục của tố tụng trọng tài thương mại.
- Làm rõ khái niệm và đặc điểm của biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng
trọng tài thương mại, sự cần thiết phải có các quy định về biện pháp khNn cấp tạm


6

thời trong tố tụng trọng tài thương mại và các loại biện pháp khNn cấp tạm thời
trong tố tụng trọng tài thương mại.
- Đánh giá thực trạng các quy định và tình hình áp dụng biện pháp khNn cấp
tạm thời trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về thương mại của trọng tài thương
mại, qua đó làm rõ những điểm hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật về
trọng tài thương mại của Việt Nam hiện hành và những vướng mắc trong quá trình
áp dụng các quy định đó trong thực tiễn.
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về biện pháp khNn
cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại và nâng cao hiệu quả điều chỉnh của
các quy định đó trong thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn bao gồm những vấn đề sau:
- Các quy định của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam, trong đó tập
trung nghiên cứ các quy định của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam về biện

pháp khNn cấp tạm thời và quy định về vấn đề này trong pháp luật của một số nước
trên thế giới, cũng như trong Luật mẫu của Uỷ ban Liên hợp quốc về trọng tài
thương mại quốc tế (UNCITRAL).
- Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật trọng tài thương mại Việt
Nam về biện pháp khNn cấp tạm thời trong những năm gần đây.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Biện pháp khNn cấp tạm thời là một vấn đề nghiên cứu tương đối lớn, có phạm
vi nghiên cứu rộng nên có thể được nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau
và với nhiều nội dung khác nhau. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu biện pháp khNn
cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại, không nghiên cứu biện pháp khNn
cấp tạm thời trong tố tụng hành chính hay dân sự.


7

Mặc dù trong Luận văn có tham khảo quy định về biện pháp khNn cấp tạm thời
của pháp luật một số nước và Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại
quốc tế cũng như tham khảo pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam trước
đây về biện pháp khNn cấp tạm thời; tuy nhiên, Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu
các quy định của pháp luật trọng tài Việt Nam hiện hành về biện pháp khNn cấp tạm
thời mà chủ yếu là các quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 về biện
pháp khNn cấp tạm thời.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Trong suốt quá trình thực hiện Luận văn, người viết đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành phù hợp dựa trên cơ sở phương pháp luận
đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật. Các phương pháp nghiên cứu mà người viết đã sử dụng để giải
quyết nội dung khoa học của đề tài bao gồm: Phương pháp tiếp cận lịch sử, phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê.
Phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng nhiều trong Chương 1 để làm rõ

những khái niệm, phạm trù mà Luận văn sử dụng từ đó rút ra những kết luận khoa
học làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và xác định định hướng, giải pháp cho
việc hoàn thiện pháp luật về biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài
thương mại ở Việt Nam.
Phương pháp tiếp cận lịch sử, phân tích, so sánh, phương pháp thống kê được
sử dụng trong Chương 2 của Luận văn để luận giải cho nhận định, đánh giá về thực
trạng pháp luật về biện pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại ở
Việt Nam hiện nay.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng ở Chương 2 và Chương 3 của Luận văn
để rút ra những kết luận và định ra được các giải pháp hoàn thiện pháp luật về biện
pháp khNn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.


8

6. Kết cấu của luận văn
Nội dung của Luận văn gồm 3 nội dung chính như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về trọng tài thương mại và các biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại;
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố
tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam;
- Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam.


9

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

VÀ CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát về trọng tài thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trọng tài thương mại
1.1.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại
Hiện nay, trọng tài thƣơng mại đã là một thuật ngữ được biết đến và sử dụng
phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Vậy trọng tài thương mại là gì? Về mặt ngôn ngữ,
để hiểu thế nào là trọng tài thương mại, tác giả cho rằng cần phải làm rõ hai khái
niệm trọng tài và thƣơng mại.
Thuật ngữ trọng tài có thể được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, là phương thức
giải quyết tranh chấp, phân biệt với phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án;
và thứ hai, là cơ quan (tổ chức) thực hiện việc giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên,
theo nghiên cứu của các luật gia ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển,
định nghĩa trọng tài với tư cách là phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến hơn
[25, tr.617].
Từ điển Luật học Black’s Law Dictionary giải nghĩa thuật ngữ trọng tài như
sau: “Trọng tài: là một phương thức giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba
trung lập thường do các bên lựa chọn và phán quyết của bên thứ ba này có tính bắt
buộc thi hành đối với các bên tranh chấp” [28, tr.199].
Theo Okezie Chukwumerije, “Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp
giữa các bên với nhau, được thực hiện thông qua một cá nhân do các bên lựa chọn
hoặc bởi việc dựa trên những thủ tục hay những tổ chức nhất định được lựa chọn
bởi chính các bên”. Với quan điểm tương tự, James và Nicholas cho rằng trọng tài
được coi như là một tiến trình tư được mở ra theo sự thỏa thuận của các bên nhằm


10

giải quyết một tranh chấp đang tồn tại hoặc có thể sẽ phát sinh bởi một Hội đồng
trọng tài gồm một hoặc nhiều trọng tài viên [16, tr.24].

Như vậy, với ý nghĩa là một cơ quan (tổ chức) thực hiện việc giải quyết tranh
chấp, trọng tài là bên thứ ba trung lập, bao gồm một hay nhiều trọng tài viên là
những người hành nghề tự do nhân danh cá nhân hoặc nhân danh trung tâm trọng
tài, do các bên đương sự thỏa thuận thành lập để giải quyết tranh chấp phát sinh
giữa các bên. Với ý nghĩa là một phương thức giải quyết tranh chấp, trọng tài là
phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tư, được thực hiện bởi các tổ chức xã
hội nghề nghiệp, không nhân danh quyền lực nhà nước; do đó, thủ tục tố tụng rất
linh hoạt và mềm dẻo, đảm bảo tối đa quyền định đoạt của các bên tranh chấp (khác
với tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp công, nhân danh quyền lực nhà
nước, bị ràng buộc nghiêm ngặt bởi các thủ tục tố tụng).
Hiện nay, trên thế giới hiện nay tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thuật
ngữ thƣơng mại. Có thể khẳng định rằng, chưa có sự thống nhất hoàn toàn về định
nghĩa thế nào là thương mại. Người ta cho rằng có nhiều lý do dẫn tới sự khác biệt
nhau trong định nghĩa hoạt động thương mại ở các nước, đó là: (i) Các đạo luật về
thương mại của các nước được xây dựng ở những thời kỳ khác nhau; (ii) Cấu trúc
hệ thống pháp luật các nước khác nhau; và (iii) Quá trình thương mại hóa các hành
vi dân sự hay ngược lại dân sự hóa các hành vi thương mại luôn xảy ra theo sự phát
triển của xã hội [17, tr.47].
Nhằm cung cấp một cách hiểu thống nhất về khái niệm thương mại, năm 1985,
Ủy ban Pháp luật Thương mại của Liên hợp quốc đã xây dựng một đạo luật mẫu về
trọng tài thương mại (thường gọi là Luật mẫu của UNCITRAL về Trọng tài Thương
mại quốc tế), tại đoạn ghi chú 2 Điều 1 nhấn mạnh rằng: “Thuật ngữ “thương mại”
cần được giải thích theo nghĩa rộng bao hàm cả các vấn đề phát sinh từ các quan
hệ có bản chất thương mại, dù là quan hệ hợp đồng hoặc không phải là quan hệ
hợp đồng. Những quan hệ có bản chất thương mại bao gồm, nhưng không giới hạn
bởi các giao dịch sau: giao dịch thương mại để cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá


11


hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại; hoa hồng;
thuê mua; xây dựng công trình; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính; ngân
hàng; bảo hiểm; thỏa thuận thăm dò hoặc khai thác; liên doanh và các hình thức
hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh khác; vận tải hàng hoá hoặc hành khách
bằng đường hàng không; đường biển, đường sắt hoặc đường bộ”.
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật thương mại không có quy định cụ thể nào về
thuật ngữ thương mại. Luật Thương mại năm 2005 quy định về hoạt động thương
mại tại Khoản 1 Điều 3 như sau: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Từ quy định này, có
thể thấy rằng khái niệm thương mại ở Việt Nam đã được hiểu theo nghĩa rộng,
không chỉ bao gồm 14 hành vi thương mại được đề cập đến trong Luật Thương mại
năm 1997, mà bao trùm các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, các
khía cạnh thương mại của đầu tư và sở hữu trí tuệ, khá tương đồng với khái niệm
thương mại mà Luật mẫu UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế đã đề cập.
Hoạt động thương mại tiềm Nn nhiều rủi ro, bao gồm cả việc nảy sinh tranh
chấp thương mại là những bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi giữa các bên khi tham
gia vào quan hệ thương mại. Vì vậy, để hoạt động thương mại được tiến hành bình
thường và lợi ích chính đáng của các bên được bảo vệ, đòi hỏi phải có phương thức
để loại trừ các tranh chấp. Trọng tài, với ý nghĩa là một phương thức giải quyết
tranh chấp tư với thủ tục tố tụng linh hoạt mềm dẻo, đảm bảo tối đa quyền định đoạt
của các bên tranh chấp, rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực
thương mại. Hiện nay, các quốc gia đều thiết lập cơ sở pháp lý, trao thNm quyền cho
trọng tài giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại. Ngược trở lại, thương mại
là lĩnh vực chủ yếu mà trọng tài tham gia giải quyết tranh chấp. Sở dĩ như vậy là vì
ở thời kỳ đầu hình thành cơ chế giải quyết tranh chấp trọng tài với tư cách là một
biện pháp giải quyết tranh chấp tư, trọng tài chỉ được các nhà nước trao thNm quyền
giải quyết tranh chấp thương mại mà chủ yếu là tranh chấp từ hợp đồng thương mại.
Đối với các tranh chấp thuộc các lĩnh vực khác như hôn nhân gia đình (như việc



12

chia tài sản chung giữa vợ và chồng), sở hữu trí tuệ (không liên quan đến tài sản),
lao động… các nhà nước thường can thiệp trực tiếp bằng việc bắt buộc giải quyết
tại tòa án hoặc một cơ quan nhà nước có thNm quyền nhất định vì chúng được coi là
vấn đề thuộc chính sách công [16, tr.28]. Ngày nay, mặc dù nhiều nước như Anh,
Mỹ, Đức, Thụy Điển, Nhật, Trung Quốc… đã mở rộng thNm quyền của trọng tài,
theo đó, trọng tài không chỉ giải quyết các tranh chấp thương mại truyền thống mà
còn có thể giải quyết tranh chấp về lao động và dân sự (tất nhiên, các nhà nước vẫn
loại trừ thNm quyền giải quyết các tranh chấp bắt nguồn từ những quan hệ liên quan
tới lợi ích công và trật tự công của trọng tài); tuy nhiên, thNm quyền chủ yếu của
trọng tài chủ yếu trong lĩnh vực thương mại. Chính vì điều này, khi nhắc đến trọng
tài người ta thường nghĩ tới trọng tài thương mại.
Từ những phân tích ở trên, có thể kết luận rằng: Trọng tài thương mại là một
phương thức giải quyết tranh chấp về thương mại (mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác)
dựa trên sự thỏa thuận của các bên về việc giao tranh chấp cho trọng tài thương
mại giải quyết.
1.1.1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại
Với ý nghĩa là một phương thức giải quyết tranh chấp về thương mại, trọng tài
thương mại có những đặc điểm chủ yếu dưới đây:
- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp mang tính tài
phán: Không giống như các phương thức giải quyết tranh chấp như thương lượng,
trung gian hay hòa giải ngoài tố tụng – đây là những phương thức giải quyết tranh
chấp không mang tính tài phán; theo đó, những kết quả giải quyết tranh chấp có được
thực hiện bởi các bên hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự thiện chí cũng như tinh
thần tự nguyện của các bên – khi giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài,
tương tự như Tòa án, các bên buộc phải thực hiện theo phán quyết của cơ quan xét
xử; nếu các bên không thi hành đúng theo các phán quyết đó thì có cơ chế đảm bảo

thi hành phán quyết.


13

- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp tư: Khác với
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp công, nhân danh quyền lực nhà nước,
bị ràng buộc nghiêm ngặt bởi các thủ tục tố tụng, trọng tài thương mại là phương
thức giải quyết tranh chấp có tính chất tư, được thực hiện bởi các tổ chức xã hội
nghề nghiệp, không nhân danh quyền lực nhà nước; do đó, thủ tục tố tụng rất linh
hoạt và mềm dẻo, đảm bảo tối đa quyền định đoạt của các bên tranh chấp.
- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp đề cao ý chí
thỏa thuận giữa các bên: Chính ý chí thống nhất của các bên là cơ sở để việc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại được hình thành. Khác với giải quyết
tranh chấp bằng Tòa án, nguyên tắc đề cao ý chí của các bên liên quan tới cả quá
trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, từ việc lựa chọn trung tâm
trọng tài đến việc lựa chọn trọng tài viên, từ thủ tục xét xử cho đến những quy định
về hủy phán quyết trọng tài.
- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp mà thủ tục
xét xử kín, đảm bảo bí mật kinh doanh và uy tín của các bên tranh chấp: Đây là
điểm đặc trưng của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với Tòa án.
Xét xử tại Tòa án thường là xét xử công khai, thông tin về vụ tranh chấp sẽ được
thông báo rộng rãi. Ngược lại, khi xét xử bằng trọng tài, các thông tin về vụ tranh
chấp sẽ được giữ kín, bí mật kinh doanh và uy tín của các bên tranh chấp không bị
ảnh hưởng.
- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp dứt điểm:
Khi xét xử tại Tòa án, một vụ tranh chấp có thể phải trải qua hai cấp xét xử là sơ
thNm và phúc thNm. Việc này có thể kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp, gây tốn
kém về thời gian, chi phí cho các bên tranh chấp. Ngược lại, trọng tài chỉ tiến hành
xét xử một lần và phán quyết trọng tài có giá trị chung thNm đối với các bên, các

bên không có quyền kháng cáo. Điều này giúp các bên giải quyết dứt điểm tranh
chấp.


14

- Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, linh hoạt, thuận lợi
cho các bên: Khi xét xử tại Tòa án, các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của
Tòa án về thủ tục, thời gian, địa điểm và cách thức xét xử. Trong khi đó, với trọng
tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa điểm và cách
thức xét xử theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong
khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng
hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Với ý nghĩa là cơ quan giải quyết tranh chấp về thương mại, trọng tài thương
mại có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Trọng tài thương mại là một tổ chức xã hội nghề nghiệp: Trọng tài thương
mại không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước, không do Nhà nước thành lập nên
và cũng không hoạt động bằng ngân sách nhà nước; do đó không nhân danh quyền
lực nhà nước khi giải quyết tranh chấp. Trọng tài là các tổ chức xã hội nghề nghiệp,
phi chính phủ. Các trọng tài viên không phải là các công chức, viên chức Nhà nước,
không do Nhà nước bổ nhiệm và không hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp mang tính trung lập
do các bên lựa chọn: Việc lựa chọn trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp
cho phép các bên được tự do thỏa thuận về thành phần Hội đồng trọng tài, tiêu
chuNn trọng tài viên, cách thức chỉ định trọng tài viên, quốc tịch trọng tài viên…
Việc này sẽ đảm bảo tính trung lập, công bằng cao hơn, tạo sự an tâm cho các bên
tranh chấp; đặc biệt là đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Thường thì
những tranh chấp có yếu tố nước ngoài, như tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài
và nhà đầu tư trong nước, nếu được giải quyết bởi Tòa án nước tiếp nhận đầu tư sẽ
mang lại những cảm nhận về sự không trung lập của Tòa án, những quan ngại rằng

tranh chấp không được xét xử công bằng, cho dù điều này có trên thực tế hay
không.
- Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp mang tính chuyên
môn cao: Khi mang một vụ việc ra xét xử ở Tòa án, có khả năng thNm phán được


15

chỉ định để giải quyết vụ việc không có trình độ chuyên môn liên quan đến đối
tượng tranh chấp, đặc biệt các ngành đặc thù chuyên môn cao như: dầu khí, xây
dựng, tài chính, đầu tư, hàng hải, bảo hiểm… Khi giải quyết bằng trọng tài, các bên
hoàn toàn có thể lựa chọn trọng tài viên có trình độ chuyên môn phù hợp với đối
tượng tranh chấp, góp phần nâng cao hiệu quả, công bằng và tính chính xác trong
giải quyết tranh chấp.
- Trọng tài thương mại cần đến sự hỗ trợ của Tòa án trong quá trình giải
quyết tranh chấp: Như phân tích ở trên, trọng tài thương mại là một tổ chức xã hội
nghề nghiệp, chỉ có thNm quyền giải quyết tranh chấp theo sự lựa chọn của các bên
nên phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước, không đại diện
cho ý chí của nhà nước mà đại diện cho ý chí của các bên tranh chấp. Do đó, trong
quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài thương mại cần phải có sự hỗ trợ của Tòa
án đối với một số hoạt động như: chỉ định trọng tài, thay đổi trọng tài; xem xét lại
quyết định của Hội đồng trọng tài; áp dụng biện pháp khNn cấp tạm thời; như thu
thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng; hủy phán quyết của trọng tài...
1.1.1.3. Các hình thức trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là: (i) trọng tài vụ việc
(trọng tài ad-hoc); và (ii) trọng tài thường trực (trọng tài quy chế).
Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) là hình thức trọng tài được thành lập để
giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể theo sự thỏa thuận của các bên và tự chấm dứt
hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp. Đặc điểm cơ bản của trọng
tài vụ việc là không có trụ sở cố định, không có cơ quan thường trực, không có quy

chế hoạt động riêng và không có quy tắc tố tụng riêng. Khi sử dụng hình thức trọng
tài này, các bên phải tự thỏa thuận để lập ra quy tắc tố tụng, chọn trọng tài viên và
địa điểm xét xử. Đây là hình thức trọng tài đơn giản, linh hoạt, mềm dẻo nên phù
hợp với những tranh chấp ít phức tạp, có nhu cầu giải quyết nhanh chóng. Tuy
nhiên, hình thức trọng tài này có nhược điểm là tiến trình xét xử dễ bị trì hoãn nếu


16

các bên không thống nhất được thủ tục giải quyết hoặc gặp trở ngại trong việc lựa
chọn trọng tài viên.
Trọng tài thường trực (trọng tài quy chế) là hình thức trọng tài được thành
lập có tổ chức, có trụ sở cố định, có danh sách trọng tài viên, hoạt động theo điều lệ
tổ chức và các quy tắc tố tụng riêng. Các quy tắc này thường được soạn thảo bởi các
nhà chuyên môn nhiều kinh nghiệm để áp dụng cho các quá trình trọng tài được tiến
hành dưới sự quản lý của cơ quan thường trực, bao gồm các quy định cụ thể về thủ
tục tố tụng như những nội dung cần có trong đơn khởi kiện, cách lựa chọn trọng tài
viên, ngôn ngữ dùng trong tố tụng trọng tài, địa điểm xét xử, luật áp dụng nếu tranh
chấp thương mại có yếu tố nước ngoài… Các bên có thể thỏa thuận kéo dài hay rút
ngắn thời gian thực hiện một số bước tố tụng nào đó. Thậm chí, luật pháp của một
số nước còn cho phép các bên được quyền thỏa thuận ex aequo ex bono (không áp
dụng pháp luật để giải quyết mà dựa vào ý kiến riêng của Ủy ban trọng tài [13,
tr.56]. Điều này là rất thuận lợi cho các doanh nghiệp mới bước vào nghề, không
am hiểu pháp luật, chưa kịp tìm hiểu về thủ tục tố tụng trọng tài. Nếu họ không
muốn có điều bất lợi cho mình thì họ chọn trọng tài thường trực với bộ Quy tắc có
sẵn để giải quyết tranh chấp. Một ưu điểm khác nữa là vấn đề lựa chọn trọng tài
viên trong trường hợp vụ việc tranh chấp gây căng thẳng làm cản trở việc lựa chọn
trọng tài viên thì sự chỉ định của Chủ tịch Trung tâm trọng tài là hết sức cần thiết.
Hiện nay, trọng tài ad-hoc được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới bởi
những ưu thế của nó giúp các bên có thể thỏa thuận riêng cho mình về những tình

tiết cụ thể liên quan đến việc giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó, hệ thống trọng tài thường trực cũng không ngừng lớn mạnh và
phát triển. Trọng tài thường trực được thành lập ở hầu hết các nước dưới những hình
thức đa dạng như trung tâm trọng tài (Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế
Australia – ACICA, Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore - SIAC, Trung tâm trọng
tài quốc tế Hồng Kông – HIAC, Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VIAC…), hiệp hội trọng tài (Hiệp


17

hội trọng tài Hoa Kỳ - AAA, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản - JCAA …), viện trọng tài
(Viện trọng tài Stockholm Thụy Điển – SCC)…
1.1.2. Tố tụng trọng tài thương mại
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tố tụng trọng tài thương mại
Tố tụng là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng La tinh (procudure), được
hiểu là một đường lối phải tuân theo để đi đến chỗ thắng kiện. Trong thuật ngữ khoa
học pháp lý còn có một thuật ngữ khác tương đương với thuật ngữ tố tụng, hay
được sử dụng lẫn với thuật ngữ tố tụng đó là thuật ngữ thủ tục, có nguồn gốc từ
tiếng Nhật Bản, được hiểu là một thể thức phải làm để đạt được một kết quả nhất
định [7, tr.3-4]. Thuật ngữ tố tụng cũng gần giống như thuật ngữ thủ tục, chỉ về việc
kiện tụng do cơ quan có thNm quyền giải quyết.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp một cách khách
quan, công bằng, việc giải quyết tranh chấp thường phải tuân theo một quy trình
chặt chẽ do pháp luật quy định, gọi là quy trình tố tụng. Quy trình tố tụng bao gồm
nhiều giai đoạn thường được thực hiện tuần tự nối tiếp, giai đoạn này là cơ sở thực
hiện cho giai đoạn sau.
Như vậy, tố tụng trọng tài thương mại là quy trình giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài thương mại do pháp luật quy định.
Từ các đặc điểm của trọng tài thương mại đã phân tích ở mục 1.1.1.2. có thể

thấy tố tụng trọng tài thương mại có những đặc điểm để phân biệt với tố tụng tòa án
đó là: (i) Tố tụng trọng tài thương mại chỉ tiến hành xét xử một lần, khác với tố tụng
tòa án xét xử theo hai cấp; (ii) Tố tụng trọng tài thương mại tiến hành xét xử kín;
(iii) Tố tụng trọng tài thương mại đảm bảo ý chí tự nguyện của các bên tham gia
tranh chấp; (iv) Tố tụng trọng tài không phụ thuộc vào lãnh thổ quốc gia của các
bên đương sự.


18

1.1.2.2. Thủ tục tố tụng trọng tài thương mại
Thủ tục tố tụng trọng tài là một trong những nội dung thỏa thuận giữa các bên
tranh chấp. Các bên có thể tự đưa ra những quy tắc riêng của mình nhưng thông
thường họ thống nhất lựa chọn một trong những bản quy tắc tố tụng trọng tài của
các trung tâm trọng tài có uy tín. Các quy tắc trọng tài đều có trình tự, thủ tục chính
như sau:
♦ Nộp đơn kiện
Đơn kiện do nguyên đơn đệ trình, phải chứa đựng những nội dung nhất định
theo quy định của pháp luật về trọng tài hoặc trong bản quy tắc tố tụng của các
trung tâm trọng tài. Khoản 2 Điều 20 Quy tắc Trọng tài của UNCITRAL năm 2010
quy định đơn kiện phải làm rõ ít nhất những vấn đề như: tên và địa chỉ của các bên;
các yêu cầu của nguyên đơn, căn cứ pháp lý để nguyên đơn đưa đơn kiện (điều
khoản, thỏa thuận trọng tài); các vấn đề đang tranh cãi; yêu cầu đòi bồi thường.
Sau khi nhận được đơn kiện, bị đơn có thể trả lời đơn kiện bằng bản tự bảo vệ
hoặc nộp đơn kiện lại tại chính trọng tài đã được hai bên chọn. Nếu thấy việc kiện
tại trọng tài là bất hợp lý thì bị đơn có thể đề nghị Tòa án có thNm quyền tuyên bố
rằng tranh chấp không thể xét xử bằng trọng tài.
♦ Chọn và chỉ định trọng tài viên
Trên cơ sở số trọng tài viên và tiêu chuNn trọng tài viên đã được xác định
trong thỏa thuận trọng tài, các bên sẽ tiến hành lựa chọn trọng tài viên theo hai

cách: (i) Thứ nhất, nếu điều khoản trọng tài quy định chỉ cần một trọng tài viên duy
nhất thì nguyên đơn có thể đưa ra một danh sách ít nhất năm trọng tài viên để bị đơn
chọn lấy một trong số đó; (ii) Thứ hai, nếu điều khoản trọng tài quy định cần ba
trọng tài viên thì thường mỗi bên chọn một trọng tài viên, sau đó, hai trọng tài viên
chọn trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài.
Trong trường hợp không thống nhất được việc lựa chọn trọng tài viên, các bên
sẽ chọn một cơ quan có thNm quyền giúp họ chỉ định trọng tài viên (nếu là trọng tài


19

vụ việc thì cơ quan đó thường là Tòa án, nếu trọng tài thường trực thì Chủ tịch Trung
tâm trọng tài thường là người được giao nhiệm vụ này). Các trọng tài viên được chọn
có quyền và nghĩa vụ khước từ hoặc bị một hay các bên tranh chấp khước từ nếu thấy
có cơ sở để tin rằng họ không vô tư, khách quan do có các mối liên hệ nhất định đối
với vụ tranh chấp hoặc/và với các bên tranh chấp.
♦ ChuNn bị xét xử
Đây là giai đoạn để các bên tranh chấp cũng như các trọng tài viên tiến hành
các hoạt động chính: điều tra, nghiên cứu hồ sơ và tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa
trọng tài viên và các bên tranh chấp. Trọng tài viên, theo sáng kiến của các bên có
thể nghe người làm chứng, giám định viên trình bày về những vấn đề có liên quan
đến tranh chấp, hoặc trong một số trường hợp có thể cần đến sự hỗ trợ của Tòa án vì
các lệnh của trọng tài thường không có giá trị bắt buộc đối với người thứ ba. Pháp
luật của một số nước không cho phép trọng tài viên được gặp gỡ các bên trước khi
xét xử.
♦ Các phiên họp xét xử
Trong phần lớn các vụ việc giải quyết bằng trọng tài thương mại, phiên họp
xét xử là thời điểm đầu tiên mà các bên tranh chấp và trọng tài viên thực sự gặp
nhau, do vậy, đây là cơ hội để từng bên trình bày tất cả các tài liệu, chứng cứ của
mình và kiểm tra các lập luận, chứng cứ của phía bên kia. Để đảm bảo bí mật kinh

doanh, các phiên họp không tiến hành công khai và chỉ có các bên tranh chấp, đại
diện của họ và trọng tài viên tham dự. Các trọng tài viên đóng vai trò tích cực trong
việc điều khiển, yêu cầu các bên đưa ra những chứng cứ, lập luận cần thiết để làm
rõ vụ việc. Hai nguyên tắc quan trọng để đảm bảo giá trị của phán quyết trọng tài
được quy định tại Khoản 1 Điều 17 Quy tắc Trọng tài của UNCITRAL năm 2010
là: (i) Các bên được đối xử công bằng; và (ii) Tại bất cứ giai đoạn nào của quá trình
tố tụng, các bên đều có cơ hội đầy đủ để trình bày vấn đề của mình.


×