Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

bài thu hoạch môn QHQT những nội dung cơ bản trong đường lối đối ngoại của đảng, nhà nước việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.93 KB, 23 trang )

BÀI THU HOẠCH
MÔN QUAN HỆ QUỐC TẾ
“NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI
CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY”


1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..................................................................................................................................................... 1
NỘI DUNG................................................................................................................................................. 2
CHƯƠNG 1................................................................................................................................................ 2
CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI
THỜI KỲ ĐỔI MỚI................................................................................................................................... 2
1.

Cơ sở hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới........................................................................2
1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại...................................................................2
1.2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc......................................................................................................4
1.3. Tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong nước........................................................................................4
1.4. Tình hình thế giới và khu vực..................................................................................................................5

2.

Quá trình hình thành, phát triển đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới..............................................9
2.1. Giai đoạn từ Đại hội VI của Đảng (1986) đến năm 1995......................................................................9
2.2. Giai đoạn từ sau Đại hội VIII (1996) đến năm 2010 - giai đoạn mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập
quốc tế.............................................................................................................................................11
2.3. Giai đoạn từ sau Đại hội XI (2011) đến nay - giai đoạn đưa các quan hệ đi vào chiều sâu và hội nhập quốc
tế toàn diện.....................................................................................................................................12



CHƯƠNG 2.............................................................................................................................................. 13
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM'
HIỆN NAY 13
1.

Mục tiêu đối ngoại............................................................................................................................... 13

2.

Nguyên tắc đối ngoại........................................................................................................................... 13

3.

Nhiệm vụ đối ngoại.............................................................................................................................. 14

4.

Phương châm đối ngoại....................................................................................................................... 15
4.1. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; dựa và phát huy nội lực là chính, tranh thủ
tối đa ngoại lực...............................................................................................................................15
4.2. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; vừa hợp tác, vừa đấu tranh...............................................................16
4.3. Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.......................................17
4.4. Chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả...............................................................................................17
4.5. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc....17

CHƯƠNG 3.............................................................................................................................................. 19
NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ NHIỆM VỤ ĐỐI NGOẠI VÀ QUAN HỆ....................................................19
QUỐC TẾ TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG...............................................................19
KẾT LUẬN............................................................................................................................................... 22

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................. 23


1
MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trở thành nhân tố ngày càng quan trọng trong chiến lược khu vực và
toàn cầu của các nước lớn. Hình ảnh và uy tín của Việt Nam đã được nâng cao trong mắt
bạn bè trong thời gian qua. Việt Nam vốn được biết đến và được u q, vì là đất nước có
nền văn hóa rất đặc sắc, có nhiều cộng đồng dân tộc và có lịch sử lâu dài. Đặc biệt bạn bè
quốc tế biết đến Việt Nam là dân tộc u chuộng hịa bình nhưng là dân tộc bất khuất và đã
giành được thắng lợi trong việc bảo vệ nền độc lập của mình trong chiều dài lịch sử. Việt
Nam cũng được biết đến nhiều về thành tựu của quá trình đổi mới, Việt Nam trở thành
điểm đến của các nhà đầu tư là đối tác thương mại trên thế giới. Những thành tựu trên
càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết khi thế giới trải qua những biến động to lớn, phức tạp
chưa từng có. Cơng tác đối ngoại đã đóng góp quan trọng, trở thành một điểm sáng trong
những thành tựu chung của cả dân tộc. Không chỉ giữ vững được môi trường hịa bình, ổn
định trong bối cảnh thế giới rất phức tạp, Việt Nam đã thể hiện được bản lĩnh, tinh thần
chủ động thích ứng, khả năng kiến tạo và tận dụng cơ hội để không ngừng nâng cao thế và
lực, uy tín quốc tế của đất nước. Trong bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
có câu: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ
có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản
phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên
tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân và tồn qn ta... ".
Để góp phần làm rõ cơ sở hoạch định và quá trình hình thành, phát triển đường lối
đối ngoại thời kỳ đổi mới; những nội dung cơ bản trong đường lối đối ngoại của Đảng,
Nhà nước Việt Nam hiện nay, đồng thời phân tích những điểm mới về nhiệm vụ đối ngoại
và quan hệ quốc tế trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Tôi chọn đề tài “Những nội
dung cơ bản trong đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay”



2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG
LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Cơ sở hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới
1.1.

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
Trong quá trình hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước

luôn kiên định lập trường, quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi
đây là cơ sở lý luận và là vấn đề có tính ngun tắc, bởi vì:
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam
cho hành động của Đảng ta. Những nội dung có tính khoa học và cách mạng về thời đại,
về vấn đề dân tộc và quốc tế, về quan hệ quốc tế và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng
nhân, về tư tưởng cùng tồn tại hịa bình giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác
nhau, về quyền dân tộc tự quyết trong quan hệ quốc tế... trong học thuyết Mác-Lênin luôn
được Đảng chú trọng nghiên cứu và vận dụng sáng tạo trong bối cảnh thế giới mới và điều
kiện cụ thể của Việt Nam.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thể hiện trên các vấn đề lớn, mang tính chiến
lược như:
Một là, độc lập dân tộc: Đây vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là phương châm hành
động của ngoại giao Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam phải ln giữ
vững tinh thần độc lập, tự chủ, tự mình quyết định đường lối, chủ trương của mình, vì
“muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Điều đó cũng có
nghĩa, chỉ trên tinh thần độc lập dân tộc, Đảng ta mới nắm được tình hình cụ thể, khả năng,
lợi ích của đất nước, từ đó mà đề ra chủ trương, chính sách phù hợp để đạt được mục tiêu
đã xác định. Vấn đề này càng quan trọng trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi lợi ích quốc
gia, dân tộc được đặt lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế.

Hai là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại: Theo Hồ Chí Minh, sức
mạnh dân tộc bao gồm sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần.


3
Sức mạnh dân tộc là sức mạnh của thế và lực của đất nước sau 35 năm đổi mới; sức
mạnh tổng thể của Nhà nước và nhân dân, của kinh tế, quân sự, dân số, lãnh thổ; sức mạnh
của các giá trị lịch sử, truyền thống, văn hóa, tinh thần yêu nước, tinh thần lao động cần cù
và ý chí vươn lên của con người Việt Nam.
Sức mạnh thời đại thể hiện qua các trào lưu lớn của thời đại như: nội dung chủ yếu
của thời đại ngày nay, phong trào độc lập dân tộc, phong trào dân chủ và tiến bộ xã hội,
cũng như các xu thế lớn của thế giới như: quyền độc lập cho mọi quốc gia; quyền tự quyết
cho mọi dân tộc; xu thế hịa bình cho tồn thể giới và sự hợp tác bình đẳng giữa các quốc
gia,... Sức mạnh thời đại của thế giới hiện nay như: cuộc cách mạng khoa học - công nghệ;
xu thế tồn cầu hóa và liên kết khu vực; trào lưu tái cấu trúc và đổi mới mơ hình tăng
trưởng...
Ba là, ngoại giao tâm cơng: Đó là nền ngoại giao đề cao tính chất chính nghĩa, đánh
vào lịng người bằng chính nghĩa, bằng lẽ phải, đạo lý và nhân tính; là nền ngoại giao
mang tính nhân bản sâu sắc, phù hợp với khát vọng hịa bình, tự do, cơng lý...
Bốn là, ngoại giao hòa hiếu với các dân tộc khác: Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm
đối ngoại là một mặt trận, phải “thêm bạn, bớt thù”, “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều
bạn đồng minh hơn hết”, và đây cũng thể hiện tinh nhân văn của dân tộc Việt Nam. Đó là
nền ngoại giao ln dành mối quan tâm hàng đầu cho nhiệm vụ củng cố quan hệ với các
nước láng giềng, các nước trong khu vực, tập trung nỗ lực thiết lập và củng cố quan hệ với
các nước lớn, đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với mọi quốc gia khác trên
thế giới.
Năm là, ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến ”: Đó là nền ngoại giao kiên trì trong
ngun tắc nhưng linh hoạt, mềm mỏng, khéo léo trong sách lược. Theo quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại và hoạt động ngoại giao Việt Nam phải đặt lợi
ích quốc gia, dân tộc lên trên hết. Phương châm đối ngoại của Người là “dĩ bất biến ứng

vạn biến”, trong đó, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” trong giai đoạn hiện nay là cái “bất biến”. Cái “vạn biến” là
phải linh hoạt, khôn khéo trong bối cảnh tình hình thế giới đang có nhiều biến động.


4
Sáu là, ngoại giao nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước: Đó là nền ngoại
giao phải biết nắm vững thời cơ, chủ động tạo lập thời cơ, đồng thời chủ động tấn công
giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
1.2.

Truyền thống ngoại giao của dân tộc
Một trong những nét nổi bật hàng đầu trong truyền thống ngoại giao của dân tộc là

truyền thống ngoại giao hịa bình, hữu nghị. Đây là sự thể hiện tư tưởng đối ngoại nhân
văn, hòa hiếu bắt nguồn từ chiều sâu bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời, đây cũng cịn
được quy định bởi vai trị, vị trí địa-chiến lược, địa-chính trị quan trọng của nước ta ở khu
vực. Truyền thống ngoại giao của dân tộc Việt Nam là: (1) giữ vững nguyên tắc độc lập tự
chủ và chủ quyền quốc gia; (2) ngoại giao vì hịa bình, hòa hiếu, hữu nghị, khoan dung; (3)
ngoại giao rộng mở, biết tiếp thu thành tựu văn minh nhân loại để phát triển; (4) ngoại
giao với tinh thần chủ động, khôn khéo, sáng tạo, linh hoạt...
1.3.

Tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong nước
Bước vào thời kỳ đổi mới, đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thử thách to lớn:

Nền kinh tế nhiều năm tăng trưởng âm và siêu lạm phát, khiến cho đời sống nhân dân hết
sức khó khăn. Trên lĩnh vực đối ngoại, nước ta bị bao vây, cấm vận về kinh tế, bị cơ lập về
chính trị. Trong bối cảnh đó, Đại hội VI của Đảng thơng qua đường lối đổi mới toàn diện.
Đại hội VI đã xác định nhiệm vụ có tính cấp bách trước mắt là giải phóng sức sản xuất, tập

trung phát triển kinh tế - xã hội để nhanh chóng thốt ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh
tế - xã hội, phá thế bị bao vây, cấm vận, cô lập và mở rộng quan hệ đối ngoại.
Những Đại hội sau đó xác định nhiệm vụ cơ bản, lâu dài là sớm đưa Việt Nam thốt
khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn
đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đồng thời “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”.
Là một bộ phận hợp thành đường lối chung của Đảng Cộng sản Việt Nam, đường
lối đối ngoại của Đảng phải góp phần tận dụng thời cơ, thuận lợi,
đưa đất nước vượt qua những khó khăn thách thức đang đặt ra nhằm thực hiện thắng
lợi những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đường lối đối


5
ngoại thời kỳ đổi mới của Đảng được hoạch định nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực bên
ngoài, kết hợp một cách có hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phục vụ
mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh.
1.4.

Tình hình thế giới và khu vực
Tình hình thế giới và khu vực từ sau Chiến tranh lạnh đến nay nổi lên một số

đặc điểm và xu thế vận động chủ yếu tác động đến việc hoạch định đường lối đối
ngoại của Việt Nam, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cục diện chính trị - an ninh thế giới có nhiều chuyển biến lớn, trong đó
nổi bật là sự thay đổi lớn trong tương quan lực lượng giữa các nước lớn.
Cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở
các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Liên Xô tan rã, trật tự thế giới hai cực chấm
dứt đã làm đảo lộn các quan hệ liên minh kinh tế, chính trị, quân sự được thiết lập

trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Tương quan lực lượng thế giới cũng có sự thay đổi
nghiêng hẳn về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn thời đại giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục tồn tại, song khơng cịn là nhân tố duy nhất chi
phối quan hệ quốc tế cũng như việc tập hợp lực lượng giữa các nước trên thế giới.
Trong thời kỳ quá độ hình thành trật tự thế giới mới, tất cả các nước trên thế
giới tuy ở các mức độ khác nhau đều đứng trước những thách thức mới như: xung đột
khu vực, mâu thuẫn quốc gia, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; hố ngăn cách giàu - nghèo; sự
bất bình đẳng trong quan hệ giữa các nước; nhu cầu phát triển kinh tế và ổn định chính
trị ở mỗi nước; hoạt động ngày càng tăng của chủ nghĩa khủng bố, sự tăng lên của
những vấn đề mang tính tồn cầu...
Đặc biệt, trong quá trình hình thành trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh, tương
quan lực lượng của thế giới có sự thay đổi lớn, bản đồ quyền lực có sự chuyển dịch.
Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ, trong khi Mỹ tiếp tục suy yếu tương đối. Bên
cạnh đó, sự trỗi dậy của một số cường quốc trong nhóm BRICS


6
đang gây sức ép phải xây dựng luật chơi mới trong quan hệ quốc tế ngày càng tăng. Hịa
bình, ổn định, hợp tác để phát triển trở thành xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các
quốc gia trên the giới trong giai đoạn hiện nay của thời đại.
Thứ hai, sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 đang tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Sự phát triển khoa học - công nghệ đã và đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0, nước nào chiếm lĩnh khoa học - công nghệ sẽ tiếp tục phát triển nhanh chóng và
ngược lại. Trong quan hệ giữa các nước lớn, nước nào giành và giữ ưu thế về cơng nghệ
cao thì nước đó có ưu thế trong việc giành ngôi vị siêu cường số 1 thế giới.
Tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 càng làm cho sự tùy thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia trong nền sản xuất được quốc tế hóa, khiến cho xu hướng đa
dạng hóa quan hệ đối ngoại của các nước trở thành đòi hỏi khách quan. Các nước ra sức

mở rộng quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, với tất cả
những ai có khả năng hợp tác hiệu quả; việc xác định bạn - thù, hình thức và mức độ quan
hệ cũng trở nên rất linh hoạt. Phương thức tập hợp lực lượng theo kiểu truyền thống đã
được thay bằng sự tập hợp lực lượng trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc. Tồn cầu hóa là
một q trình khách quan, lơi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Đối với đại bộ phận
các nước trên thế giới, tồn cầu hóa là q trình ln chứa đựng tính hai mặt: thuận lợi và
khó khăn, thời cơ và thách thức, tích cực và tiêu cực, hợp tác và đấu tranh.
Hơn nữa, nền kinh tế số là kết quả của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ dẫn tới
sự dịch chuyển quyền lực tồn cầu trên cả phương diện khơng gian địa lý và chủ thể quyền
lực. Trong nền kinh tế số, cạnh tranh quốc tế sẽ tập trung trong không gian số, trên lĩnh
vực kinh tế, khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong thế giới của
kinh tế số, hợp tác và hội nhập quốc tế sẽ vừa có động lực mới bởi sự gắn kết ngày càng
chặt chẽ giữa các quốc gia, khu vực qua khơng gian số và mạng Internet tồn cầu, nhưng
cạnh tranh, cọ xát và xung đột lợi ích giữa các quốc gia và trên phạm vi toàn cầu cũng sẽ
ngày càng mở rộng và trở nên sâu sắc, khốc liệt hơn. Cuộc cạnh tranh này sẽ có tác động
quan trọng tới việc hình thành những hình thức hợp tác, những tuyến lợi ích, những tập


7
hợp lực lượng mới trên thế giới, có ý nghĩa quyết định đối với việc đẩy nhanh quá trình
định hình những đường nét cơ bản của trật tự kinh tế khu vực, quốc tế mới, nhất là ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương.
Thứ ba, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, nhất là ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương.
Một đặc điểm nổi bật của thế giới trong giai đoạn hiện nay là các nước lớn và quan
hệ giữa các nước lớn trở thành nhân tố có vai trị quan trọng đến sự phát triển thế giới.
Trong thập niên gần đây, các nước lớn có nhiều điều chỉnh quan trọng theo hướng đặt lợi
ích quốc gia lên trên hết, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ. Kể từ Đại hội XIX Đảng Cộng
sản Trung Quốc năm 2017, Trung Quốc cơ bản đã từ bỏ phương châm “giấu mình chờ
thời” sang hướng “chủ động hơn, cứng rắn hơn”, quyết đoán theo đuổi lợi ích cốt lõi, kể cả

ở Biển Đông. Nước Mỹ trong nhiệm kỳ của Tổng thống D.Trump thực hiện phương châm
“Nước Mỹ trên hết”, theo đó, các chính sách được triển khai theo hướng thực dụng, coi
trọng cơ chế hợp tác song phương hơn đa phương. Các nước lớn và trung tâm quyền lực
khác như Nga, Nhật Bản, Ân Độ, EU cũng có những điều chỉnh theo hướng ngày càng đề
cao lợi ích quốc gia - dân tộc.
Đặc biệt, ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và
Trung Quốc đã chuyển sang giai đoạn gay gắt hơn, quyết liệt hơn. Nếu như trên bình diện
thế giới, cục diện thế giới cơ bản vẫn cục diện “nhất siêu, đa cường” thì ở khu vực châu Á
- Thái Bình Dương đang định hình ngày càng rõ nét cục diện “lưỡng siêu, đa cường”.
Nhìn chung, thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, cùng với xu thế hịa bình, hợp tác vì phát
triển, các nước lớn, một mặt, thường thỏa hiệp với Mỹ để tìm tiếng nói chung nhằm tăng
cường hợp tác; mặt khác, lại đấu tranh gay gắt với nhau nhằm giành lấy những điều kiện
thuận lợi nhất cho phát triển cũng như khẳng định vị thế của nước mình trong trật tự thế
giới mới đang trong quá trình hình thành, chống tham vọng thiết lập trật tự thế giới đơn
cực do Mỹ lãnh đạo. Sự cạnh tranh, tranh giành ảnh hưởng và lợi ích giữa các nước lớn thể
hiện trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều khu vực trên thế giới vẫn tiếp tục gay gắt trong mối quan
hệ vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa kiềm chế lẫn nhau.


8
Thứ tư, nhiều vấn đề mang tính tồn cầu nổi lên, tác động lớn đến đời sống quan hệ
quốc tế.
Nhân loại ngày nay đang đối phó với nhiều vấn đề mang tính tồn cầu cấp bách địi
hỏi phải có sự hợp tác đa phương để giải quyết. Do tính chất nghiêm trọng và phức tạp của
những vấn đề toàn cầu tiếp tục địi hỏi các nước phải tích cực phối hợp, hợp tác một cách
hiệu quả, thiết thực cả trong khuôn khổ song phương cũng như đa phương. Đây cũng là
nguyên nhân khách quan của xu thế hợp tác trong quan hệ quốc tế giai đoạn hiện nay.
Thứ năm, tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, châu Á - Thái Bình Dương trở thành khu vực phát
triển năng động, góp phần vào sự phát triển chung của thế giới. Cùng với vị thế quốc tế

ngày càng tăng, châu Á - Thái Bình Dương cũng là nơi diễn ra sự tranh giành ảnh hưởng
một cách quyết liệt giữa các nước lớn. Những biến đổi sâu sắc của mơi trường địa-chính
trị và địa-kinh tế tại châu Á - Thái Bình Dương kể từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh đã mở
ra một không gian phát triển mới cho khu vực và tạo nên vị thế mới của châu Á - Thái
Bình Dương trong quan hệ quốc tế. Có thể nói, vai trị của châu Á - Thái Bình Dương
trong quan hệ quốc tế ngày càng quan trọng hơn xét trên cả hai phương diện: chính trị - an
ninh và kinh tế.
Tuy nhiên, tình hình an ninh chính trị châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục diễn biến
rất phức tạp. Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và các thực thể quyền lực khác đã tạo nên cục
diện ganh đua quyết liệt, tập hợp lực lượng, hịa hỗn, liên kết đa phương đa diện, cạnh
tranh và hợp tác hết sức năng động, tùy thuộc lẫn nhau vơ cùng sâu sắc. Châu Á - Thái
Bình Dương cịn thiếu một cấu trúc nội tại ổn định có vai trị lãnh đạo, chi phối tồn diện
cả về kinh tế lẫn chính trị trong khu vực; sự ổn định an ninh khu vực phụ thuộc vào những
yếu tố bên ngồi, trong đó đặc biệt phải kể đến vai trị can dự của Mỹ. Ở châu Á - Thái
Bình Dương hiện vẫn cịn tồn tại nhiều yếu tố có khả năng gây mất ổn định, địi hỏi phải
có sự tham gia mạnh mẽ của các nước liên quan để giải quyết. Đáng chú ý nhất là chương
trình hạt nhân của Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên, vấn đề eo biển Đài Loan và
những mâu thuẫn, xung đột chủ quyền ở Biển Đông và Biển Hoa Đông...


9
2. Quá trình hình thành, phát triển đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới
2.1. Giai đoạn từ Đại hội VI của Đảng (1986) đến năm 1995 Đây là giai đoạn
hình thành đường lối đối ngoại đổi mới, đồng thời phá thế bị bao vây cấm vận về kinh tế,
bị cơ lập về chính trị, thể hiện qua các văn kiện sau:
Đại hội VI của Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đồng thời
cũng mở đầu q trình hình thành chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. Đại hội xác định
nhiệm vụ hàng đầu là tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện chính sách đối ngoại thêm bạn, bớt thù; phá thế
bị bao vây, cấm vận; mở rộng quan hệ quốc tế, theo đó phương hướng đối ngoại được xác

định: (1) Phát triển và củng cố quan hệ hợp tác tồn diện với Lào và Campuchia, trên cơ
sở tơn trọng độc lập chủ quyền mỗi nước; (2) Đoàn kết và hợp tác tồn diện với Liên Xơ là
hịn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam; (3) sẵn sàng đàm
phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, tiến tới bình
thường hóa quan hệ; (4) Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại
hịa bình.
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI (1988) đã đánh dấu sự hình thành bước đầu
chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa. Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại
chuyển từ chỗ chú trọng nhân tố chính trị - quân sự sang ưu tiên cho nhân tố kinh tế, ưu
tiên giữ vững hịa bình, độc lập dân tộc, có cách tiếp cận tồn diện hơn về tình hình thế
giới và khu vực. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này, Đảng ta triển khai chính sách đối
ngoại “thêm bạn, bớt thù”, nhấn mạnh chủ trương phát triển quan hệ với tất cả các nước có
chế độ chính trị khác nhau trên ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ,
bình đẳng, cùng có lợi, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau...
Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (1989) một lần nữa tái khẳng định đối ngoại phải
chuyển từ chính trị-an ninh là chủ yếu sang chính trị - kinh tế là chủ yếu; thúc đẩy quá
trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc; xác định lộ trình cải thiện quan hệ với các
nước ASEAN; xác định lộ trình rút quân khỏi Campuchia; tiếp cận lộ trình bình thường
hóa quan hệ với Mỹ...


1
0
Đại hội VII của Đảng (1991) xác định nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững hịa bình, mở
rộng quan hệ hữu nghị và họp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Trên tinh thần đó, Đại hội đề ra chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại,
hợp tác bình đẳng cùng có lợi với tất cả các nước khơng phân biệt chế độ chính trị khác
nhau trên cơ sở các ngun tắc cùng tồn tại hịa bình. Cũng tại Đại hội này, lần đầu tiên
Đảng ta đưa ra phương châm chiến lược trong chính sách đối ngoại: “Việt Nam muốn là
bạn với các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”,

đồng thời khẳng định chính sách đối ngoại hịa bình, độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa của Nhà nước Việt Nam.
Khẳng định mục tiêu của đối ngoại là giữ vững hịa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị
và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII đã nêu ra 4 phương châm chỉ đạo, xử lý
các vấn đề quốc tế: (1) bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; (2) giữ vững độc lập tự chủ,
tự lực tự cường, đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; (3) nắm vững
hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; (4) tham gia hợp tác với các nước
trong khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước, chú trọng quan hệ với các
nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn. Bốn phương châm này được xem là cẩm nang trong
xử lý các vấn đề đối ngoại cho mọi cấp, mọi ngành và mọi địa phương.
Với chính sách đối ngoại đúng đắn, ngồi việc huy động nguồn lực từ bên ngoài để
cùng nguồn lực trong nước, chúng ta không những đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội, mà còn phá được thế bị bao vây, cấm vận về kinh tế, bị cơ lập về chính trị, tạo
điều kiện thuận lợi để đất nước bước vào chặng đường phát triển mới - chặng đường đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2.

Giai đoạn từ sau Đại hội VIII (1996) đến năm 2010 - giai đoạn mở rộng

quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế
Trước những biến đổi của tình hình thế giới và xuất phát từ nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam, các Đại hội VIII, IX và X của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối
đối ngoại đổi mới, cụ thể như sau:


1
1
Đại hội VIII của Đảng lần đầu tiên nêu nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế và khu

vực theo hướng xây dựng nền kinh tế mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới. Đại hội VIII cũng đồng thời tuyên bố “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội IX của Đảng (2001) bổ sung làm rõ thêm chính sách đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Tại Đại hội này, lần đầu
tiên Đảng ta đưa ra chủ trương chủ động hội nhập kinh tể quốc tế và khu vực. Đại hội IX
nêu rõ: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội X của Đảng (2006) tiếp tục bổ sung đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới
với tuyên bố: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực... Đưa các quan hệ quốc tế đã
được thiết lập vào chiều sâu, ổn định và bền vững”. Đại hội cũng bổ sung quan điểm hội
nhập quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Với chủ trương đúng đắn này, quan hệ đối ngoại của Việt Nam không ngừng được
mở rộng. Đến cuối năm 2010, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 179 nước, quan hệ kinh
tế - thương mại với 224 quốc gia và vùng lãnh thổ, thu hút ngày càng nhiều nguồn lực quý
báu cho phát triển kinh tế - xã hội nước nhà. Đây cũng là giai đoạn Việt Nam đẩy mạnh
hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực như: tích cực triển khai các hoạt động trong
khuôn khổ AFTA, là thành viên sáng lập ASEM năm 1996 và đăng cai tổ chức Hội nghị
thượng đỉnh ASEM- 5 năm 2004; tham gia APEC năm 1998 và đăng cai tổ chức Hội nghị
thượng đỉnh APEC năm 2006; chính thức trở thành thành viên WTO đầu năm 2007.
2.3.

Giai đoạn từ sau Đại hội XI (2011) đến nay - giai đoạn đưa các quan hệ đi

vào chiều sâu và hội nhập quốc tế toàn diện
Đại hội XI của Đảng lần đầu tiên xác định mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là “vì
lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Đảng đã
chuyển nội dung trọng tâm của đối ngoại từ hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế sang
hội nhập quốc tế một cách toàn diện bằng chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc

tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.


1
2
Đại hội XII của Đảng (2016), nhấn mạnh mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là phải
bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, xác định nhiệm vụ đối ngoại là phải nâng
cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, kiên quyết, kiên
trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc... Đại hội nhấn mạnh nhiệm vụ đối ngoại là phải “tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp
tác đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương, chủ
động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương”.
Đại hội XIII của Đảng (2021) tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế..., chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành
viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
CHƯƠNG 2
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA
ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Mục tiêu đối ngoại
Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; góp
phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thể kỷ XXI, nước ta trở
thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, Đại hội XIII của Đảng
tiếp tục khẳng định mục tiêu hàng đầu của hoạt động đối ngoại là bảo đảm cao nhất lợi ích
quốc gia - dân tộc. Lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc
xuyên suốt của đối ngoại. Đối ngoại vì lợi ích quốc gia - dân tộc thể hiện qua các nhiệm vụ
như: Đoàn kết dân tộc, tập hợp lực lượng đông đảo người Việt Nam trong và ngoài nước,
phát huy tối đa nguồn lực trong nước, đồng thời huy động có hiệu quả nguồn lực nước

ngồi vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh; đồng thời bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ;
đồn kết quốc tế, tác động tích cực tới nỗ lực tập hợp lực lượng quốc tế của Việt Nam vì
mục tiêu hịa bình, hợp tác và phát triển; nâng cao uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam,
khẳng định mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta là vì lợi ích quốc gia - dân tộc.


1
3
2. Nguyên tắc đối ngoại
Nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt, bao trùm trong đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta là: hịa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng thời, phải sáng
tạo, năng động, linh hoạt trong xử lý các tình huống, phù hợp với hồn cảnh cụ thể, với vị
trí của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc
điểm của từng đối tác. Trong xử lý tình huống, cần “ba tránh”: tránh bị cô lập, tránh xung
đột và tránh đối đầu.
Các nguyên tắc cụ thể bao gồm: (1) Tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh
thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, (2) Không dùng vũ lực hoặc đe doạ
dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế; (3) Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua
thương lượng hịa bình; (4) tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
3. Nhiệm vụ đối ngoại
Xuất phát từ nhiệm vụ cách mạng nước ta giai đoạn hiện nay và trên cơ sở những
biến động của tình hình thế giới thời gian gần đây, Đại hội XIII của Đảng đã xác định:
“Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và
hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất
nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại
với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Như vậy,
nhiệm vụ đối ngoại thể hiện trên các vấn đề sau:

Thứ nhất, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Nhiệm vụ đối ngoại trước hết phải bảo vệ được lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc bao gồm: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được
điều này, vấn đề đầu tiên phải xây dựng nền quốc phịng chính quy, ngày càng hiện đại,
ngồi ra phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sử dụng sức mạnh trong
nước và sức mạnh bên ngồi và do đó, đối ngoại có tầm rất quan trọng.


1
4
Thứ hai, đối ngoại có nhiệm vụ tạo lập và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định,
huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước.
Giữ vững mơi trường hịa bình bao gồm: hịa bình, ổn định trên tất cả lĩnh vực ở
trong nước, là môi trường hịa bình ở khu vực, trước hết là khu vực Đông Nam Á, tiếp đến
là khu vực Đông Á và rộng hơn là khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đây là cơ sở quan
trọng để chúng ta mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho
phát triển đất nước. Điều này càng quan trọng trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi tồn
cầu hóa và cuộc Cách mạng cơng nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ và tác động sâu rộng.
Thứ ba, đối ngoại có nhiệm vụ nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường
quốc tế.
Đảng ta đã khẳng định Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Hoạt động đối ngoại nhằm tăng cường quan hệ hịa
bình, hữu nghị với các nước, đẩy mạnh quan hệ hợp tác cùng có lợi với các đối tác trên các
lĩnh vực khác nhau, đồng thời làm tròn nghĩa vụ của nước thành viên và có đóng góp tích
cực cho sự phát triển của tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia. Đây chính là tiền đề quan
trọng để trên cơ sở đó, chúng ta có thể huy động được nguồn lực bên ngoài cùng với
nguồn lực bên trong phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.

Thứ tư, đối ngoại đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là cao nhất, song Việt Nam vẫn ln
kiên trì chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng
định nhiệm vụ của đối ngoại là góp phần vào cuộc đấu tranh vì mục tiêu của thời đại là
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nhiệm vụ đối ngoại theo tinh thần của Đại hội XIII của Đảng nhằm đạt được ba lợi
ích có quan hệ mật thiết với nhau: An ninh - Phát triển - Vị thế, trong đó vấn đề phát triển
đất nước là nhiệm vụ quan trọng nhất. Phục vụ cho phát triển đất nước được coi là nhiệm
vụ hàng đầu của đối ngoại, vì chỉ có phát triển mới tạo nên nền tảng vật chất cho việc thực
hiện mục tiêu an ninh và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Tuy nhiên, khơng thể có sự
phát triển và phát huy được ảnh hưởng quốc tế nếu không giữ vững được an ninh, bảo vệ
chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.


1
5
4. Phương châm đối ngoại
4.1.

Phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; dựa và phát

huy nội lực là chính, tranh thủ tối đa ngoại lực
Nội hàm của “sức mạnh dân tộc” trong bối cảnh ngày nay bao gồm cả các yếu tố
sức mạnh “cứng” như kinh tế, quân sự, con người..., các nguồn lực có thể huy động ở
trong nước và các yếu tố của sức mạnh “mềm” như văn hóa, truyền thống... Sức mạnh
cứng và sức mạnh mềm cần được vận dụng, kết hợp một cách hiệu quả, linh hoạt để bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.
Nội hàm sức mạnh thời đại bao gồm: lựa chọn con đường phát triển phù hợp với
nội dung chủ yếu của thời đại ngày nay và những nhân tố mới trong giai đoạn hiện nay là
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ; xu thế tồn cầu hóa, hợp tác liên kết khu vực; xu
thế hịa bình, hợp tác, phát triển...

Việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thế giới ngày nay cũng
có nhiều thay đổi. Hoạt động đối ngoại của các nước trên thế giới ngày nay ln đặt lợi ích
quốc gia - dân tộc lên hàng đầu, cho nên việc tìm ra phương thức hữu hiệu để kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong từng vấn đề cụ thể là nhân tố quyết định thành
bại của phương châm này.
4.2.

Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; vừa hợp tác, vừa đấu tranh
Trong điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng

hóa, Việt Nam đứng trước những cơ hội mới, song nguy cơ và thách thức tư bên ngồi
cũng gia tăng. Do đó, cần nhận thức đúng và nắm vững vấn đề hợp tác và đấu tranh, coi
đây là hai mặt gắn bó hữu cơ của quan hệ quốc tế. Trong phương châm nắm vững hai mặt
hợp tác và đấu tranh, Đảng ta nhấn mạnh một nhận thức mới, đó là đấu tranh nhằm thúc
đẩy hợp tác, tránh trực diện đối đầu, không để cho các thế lực không thân thiện với Việt
Nam lợi dụng sơ hở để đẩy ta vào thế cô lập, đặc biệt là tránh một cuộc xung đột quân sự
hoặc bị khiêu khích vũ trang. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh còn nhằm lợi dụng
mâu thuẫn và sự cạnh tranh giữa các đối tác có quan hệ với nước ta, nhất là giữa các nước
lớn, tranh thủ những lực lượng có thể tranh thủ được, phân hóa và thu hẹp đến mức có thể
được các thế lực chống đối hoặc khơng thân thiện với Việt Nam.


1
6
Trong xử lý các vấn đề quốc tế, yêu cầu đặt ra là phải kết hợp nhuần nhuyễn hai
mặt hợp tác và đấu tranh, tránh hợp tác một chiều hoặc đấu tranh một chiều, cả hai khuynh
hưởng này đều dẫn tới tình huống bất lợi cho đất nước, cần phải tỉnh táo, có sách lược
khơn khéo trong hợp tác và đấu tranh, để mở rộng được quan hệ đối ngoại, “thêm bạn bớt
thù”, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định phục vụ mục tiêu phát triển đất nước.
4.3.


Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước
Phương châm này thể hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam

là mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần gìn giữ mơi trường hịa bình, ổn định, phát triển ở
khu vực và trên thế giới. Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt chú trọng hợp tác khu vực,
nhất là đối với các nước láng giềng nhằm tạo một môi trường hịa bình, ổn định lâu dài,
xác lập một vị thế có lợi hoặc chí ít là ít bất lợi nhất trong quan hệ quốc tế.
Cùng với việc đặt cao quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng và khu
vực, Đảng và Nhà nước Việt Nam đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng quan hệ
với tất cả các nước, đặc biệt là các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn, vì đó là những lực
lượng có ảnh hưởng quan trọng đến an ninh và phát triển của khu vực và của Việt Nam.
Với các nước lớn, phải coi trọng giữ quan hệ cân bằng, khôn khéo lợi dụng mâu thuẫn
giữa các nước này nhằm tạo được thế cân bằng chiến lược, tranh thủ mọi yếu tố thuận lợi
để phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng.
Trong quan hệ với các nước lớn, Việt Nam kiên trì chính sách độc lập tự chủ, tránh
khơng để rơi vào những tình huống phức tạp và bị động hoặc liên minh với một nước lớn
này chống lại một nước lớn khác.
4.4.

Chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả
Đây là phương châm, đồng thời cũng là một định hướng quan trọng về đối ngoại

của Đại hội XIII của Đảng. Để đảm bảo tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả, vấn
đề đầu tiên là phải xác định đúng các biện pháp để nâng cao hiệu quả đối ngoại như: nâng
cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược phục vụ cho hoạch định chính
sách; đưa các quan hệ đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững...
4.5.

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ


của Tổ quốc


1
7
Vấn đề độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là thiêng
liêng, không thể nhượng bộ, do đó cần phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ. Tuy
nhiên, hiện nay vấn đề tranh chấp Biển Đông là vấn đề lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều
nước, nhất là nước lớn Trung Quốc, cho nên giải quyết vấn đề này phải kiên trì, cần có
thời gian, khơng thể nóng vội. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phải trên cơ sở giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định cho phát triển đất nước.
Để làm tốt nhiệm vụ này cần thực hiện tốt một số biện pháp sau: Một là, tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục quan điểm kiên quyết, kiên trì bảo vệ Tổ quốc, tạo sự
thống nhất cao nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đây là biện
pháp quan trọng hàng đầu nhằm củng cố vững chắc lòng tin vào sự lãnh đạo, chỉ đạo và
những quyết sách của Đảng, Nhà nước trong vệc giả quyết các tình huống xảy ra. Công tác
tuyên truyền cần phải làm sáng tỏ, chống tư tưởng chần chừ, do dự, mặt khác lại phải khắc
phục triệt để tư tưởn g nóng vội, thiếu cân nhắc, tính tốn dẫn đến ứng xử sai lầm, những
hậu quả khôn lường. Hai là, làm tốt công tác nghiên cứu, tham mưu dự báo chiến lược làm
cơ sở xác định phương án xử lý, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Ba là,
phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trong thực hiện quan điểm “kiên quyết,
kiên trì” để vửa bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vừa giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định,
làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Bốn là, tăng cường hợp tác quốc
phịng, an ninh, đối ngoại, góp phần nâng cao thế và lực để kiên quyết, kiên trì bảo vệ
vững chắc Tổ quốc. Năm là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự
giúp đỡ và đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế.
CHƯƠNG 3
NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ NHIỆM VỤ ĐỐI NGOẠI VÀ QUAN HỆ QUỐC TẾ
TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

Đại hội XIII xác định triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng với các điểm mới sau:
Thứ nhất, về mục tiêu đối ngoại, Đại hội Đảng XII xác định: “Bảo đảm lợi ích tối
cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình
đẳng và cùng có lợi... ”. Đại hội Đảng XIII có cách nhìn nhận và xác định rõ hơn: “Bảo


1
8
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.
Như vậy, tại Đại hội XIII khẳng định rõ hơn lợi ích quốc gia - dân tộc luôn được
quan tâm và xác định là mục tiêu trọng yếu trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Lợi ích quốc gia dân tộc bao gồm nhiều yếu tố lợi ích: Chính trị, văn hóa - xã hội, quốc
phịng - an ninh. Trong đó lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc Việt Nam là độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu
rộng, sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tăng. Chính vì vậy, Đảng ta cũng khẳng
định trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, việc đảm bảo lợi ích quốc gia - dân
tộc là lợi ích dân tộc chân chính, không phải là lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi. Đảm bảo cao
nhất lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Thứ hai, xác định rõ hơn vai trò của hoạt động đối ngoại. Báo cáo chính trị Đại hội
XIII nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và
giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển
đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước’”. Đây là lần đầu tiên Văn kiện Đại hội
Đảng xác định cụ thể và sâu sắc vị trí, vai trị của cơng tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Điều đó làm sáng rõ hơn nhiệm vụ trọng yếu của công tác đối ngoại là tiên phong trong
việc giữ vững mơi trường hịa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, đối ngoại để phục vụ đối nội. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm
thúc đẩy quan hệ kinh tế, tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy

mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và tồn vẹn lãnh thổ vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
Thứ ba, xác định chủ trương mới trong xây dựng nền ngoại giao và đội ngũ cán bộ
đối ngoại. Đại hội XIII đã xác định: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với 3
trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Như vậy, cùng
với chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến tới hiện
đại, Đại hội XIII cũng đặt ra nhiệm vụ có tính chiến lược đó là xây dựng nền ngoại giao
tồn diện, hiện đại. Đây là bước tiến mới có tính đột phá đối với hoạt động đối ngoại.


1
9
Tính tồn diện của nền ngoại giao Việt Nam dựa trên cả ba trụ cột là đối ngoại
đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Về lĩnh vực, đó là ngoại giao chính trị,
ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa, cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi
và bảo hộ cơng dân. Triển khai đối ngoại khơng cịn chỉ là giữa nhà nước - nhà nước, mà
còn là địa phương, doanh nghiệp, người dân. Do đó, địa phương, doanh nghiệp, người dân
vừa là chủ thể triển khai công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, vừa là đối tượng, mục
đích để cơng tác đối ngoại hướng tới.
Thứ tư, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Văn kiện Đại
hội XII chủ trương: Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế. Đại hội XIII đã cụ thể hóa hơn và xác định những định hướng và nhiệm vụ
sâu rộng hơn về hội nhập quốc tế. Báo cáo chính trị Đại hội XIII nhấn mạnh: “Chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc
gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Gắn kết chặt chẽ q trình
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh
tổng hợp, huy động tiềm năng của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước,
nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước”
Rõ ràng là Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn các đặc điểm của môi trường

quốc tế cũng như các hệ thống công cụ, quyền lực được sử dụng để chi phối, kiểm soát và
vận dụng linh hoạt trong quá trình hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế không giới hạn
trong một phạm vi hay một lĩnh vực nào của đời sống quốc tế mà nó lan tỏa ở mọi cấp độ,
mọi lĩnh vực trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Thực hiện hội nhập quốc tế toàn diện, sâu
rộng là tham gia vào các q trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng.
Muốn việc thực hiện đó có hiệu quả nhất định phải tăng cường nội lực, giữ vững độc lập,
tự chủ, phát huy sức mạnh tổng hợp của quốc gia - dân tộc.
Thứ năm, chủ động, tích cực đóng góp đối với các hoạt động quốc tế. Văn kiện Đại
hội Đại hội XII nêu rõ: Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương,
đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Nhằm cụ thể hóa hơn và nâng cao tính chủ động,
tích cực, hiệu quả các hoạt động quốc tế, báo cáo chính trị Đại hội XIII nhấn mạnh: “Chủ


2
0
động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trị của Việt Nam trong xây dựng, định
hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam
kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã kỷ kết”.
Thực hiện những quan điểm chỉ đạo về đối ngoại của Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội
XII, Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, với trọng tâm là hội nhập kinh tế
quốc tế được đẩy mạnh, thu hút thêm nhiều nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. Hội
nhập chính trị, an ninh, quốc phịng ngày càng đi vào chiều sâu. Hội nhập văn hóa - xã hội,
khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo cũng đạt được những bước tiến quan trọng. Việt
Nam ngày càng nâng tầm hiệu quả và vai trò của đối ngoại đa phương, tích cực đóng góp
xây dựng, định hình các thể chế đa phương; từng bước phát huy vai trò hịa giải, góp phần
vào hịa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.
KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở,
đa phương hóa, đa dạng hóa, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và
truyền thống, bản sắc ngoại giao hòa hiếu của dân tộc, đối ngoại Việt Nam với sự kết hợp

chặt chẽ các trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân đã đóng
góp quan trọng vào thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới như khẳng
định của Đảng là “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc
tế như ngày nay”.
Bước vào giai đoạn mới với thế và lực mới sau 35 năm Đổi mới, dưới ánh sáng
đường lối Đại hội Đảng XIII, đất nước ta đang phấn đấu thực hiện khát vọng, mục tiêu
phát triển đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, một dấu mốc có ý nghĩa lịch sử của dân tộc ta trên con đường thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu tốt đẹp đó, địi
hỏi tồn Đảng, tồn dân quyết tâm, nỗ lực rất cao đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ cơng cuộc
đổi mới, trong đó một nhiệm vụ quan trọng là “triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt
động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”, “tiếp tục phát
huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững mơi trường hịa bình,
ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy
tín của đất nước”.


2
1
Thế giới đang diễn biến mau lẹ, phức tạp, đan xen nhiều cơ hội và thách thức. Các
quốc gia, dân tộc đều cố gắng nắm bắt những cơ hội đang đến với mình. Tuy trước mắt
cịn nhiều khó khăn, nhưng tương lai phát triển của đất nước ta rất sáng lạng. Dưới sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng, sự quản lý hiệu quả của Nhà nước, với sự đồng thuận và ủng hộ
của nhân dân, sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, đối ngoại sẽ tiếp tục đóng góp
xứng đáng vào sự nghiệp phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
cơng bằng, văn minh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VIII, IX, X, XI, XII, XIII


2.

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Xây dựng Đảng cộng

sản Việt Nam (Dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb.Lý luận chính trị,
H.2021
3.

Đặng Đinh Quý: Bàn thêm về khái niệm và nội hàm “hội nhập quốc tế" của

Việt Nam trong giai đoạn mới, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 4/2012.
4.

Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo tình hình đầu tư

trực tiếp nước ngồi 9 tháng năm 2020
5.

Phạm Bình Minh: Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn

mới, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr.69-79
6.

Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05-11-2016 về thực hiện có hiệu quả tiến

trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta
tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII) Văn phòng Trung
ương Đảng, H.2016




×