1
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Học phần: Triết học Mác – Lênin
ĐỀ TÀI: Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng và vận dụng
vào phân tích mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức ở Việt
Nam hiện nay.
Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :
Lớp
:
Mã sinh viên
:
Đào Thị Hữu
Bùi Thị Hồng Ngọc
K24CLCTCC
24A4010800
Hà nội, ngày 16 tháng 01 năm 2022
2
Mục lục
A. Phần mở đầu:..............................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................3
B. Nội dung triển khai:...................................................................................4
Chương I. Phần lý luận: Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng................................................................................................................4
1.1 Khái niệm.............................................................................................4
1.1.1 Cơ sở hạ tầng.................................................................................4
1.1.2 Kiến túc thượng tầng.....................................................................5
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội...................................................................................................5
1.2.1 Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
................................................................................................................5
1.2.2 Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng.........................................................................................................7
Chương II. Phần liên hệ thực tiễn và liên hệ bản thân.................................8
2.1 Liên hệ thực tiễn..................................................................................8
2.1.1 Tác động của kinh tế tới đạo đức và ngược lại ở Việt Nam hiện
nay..........................................................................................................8
2.2 Liên hệ bản thân.................................................................................11
2.2.1 Giải pháp xây dựng đạo đức nhà giáo trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 11
C. Kết luận.....................................................................................................12
D. Tài liệu tham khảo....................................................................................13
3
A. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, kinh tế thị trường đang trong quá trình phát triển
mạnh mẽ và đang từng bước được hồn thiện về cơ chế cũng như thế chế.
Điều này, mặc nhiên thừa nhận nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành
phần (có cả kinh tế tư nhân) được điều tiết bởi kinh tế thị trường. Trong công
cuộc đổi mới đất nước 15 năm qua, Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to
lớn. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ nhanh, đời sống của nhân
dân từng bước được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành quả đạt được thì cơng cuộc đổi mới đang đặt ra cho chúng ta
nhiều vấn đề xã hội đáng quan tâm, trong đó có vấn đề xuống cấp của đạo
đức. Điều này liên quan đến mặt trái của kinh tế thị trường, cũng như sự tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường đến các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội. Trong đó nổi lên những vấn đề về lợi ích và quan hệ lợi ích trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội, nhất là vấn đề kinh tế thị trường ảnh hưởng như thế
nào đến sự phát triển của xã hội về mặt đạo đức và ngược lại, đạo đức chi
phối như thế nào đến sự phát triển nhanh chóng của kinh tế thị trường hiện
nay.
Trước những thành quả mà kinh tế thị trường đã mang lại và những tác
động tiêu cực của nó, nhất là về mặt đạo đức, một số người đã cho rằng, sự
xuống cấp về mặt đạo đức xã hội bắt nguồn từ việc khuyến khích lợi ích cá
nhân trong người lao động. Họ cho rằng, đạo đức xã hội và lợi ích cá nhân
trong kinh tế thị trường là không thể dung hợp được với nhau. Nhưng cũng có
ý kiến cho rằng sự khuyến khích lợi ích cá nhân (là lợi ích cá nhân chính
đáng), điều này tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân phát triển mình về mọi
mặt nhất là về tài năng và trí tuệ. Hay nói khác đi, đó là với việc phát triển
kinh tế thị trường đã tạo ra mơi trường thuận lợi phát huy vai trị chủ thể cá
nhân, rằng kinh tế thị trường là cơ chế cho nhân cách con người phát triển tốt
4
nhất trong điều kiện hiện nay. Do đó, trong quá trình phát triển nền kinh tế ở
nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng. Theo chủ nghĩa Mác- Lê nin,“ Cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng khơng tách rời nhau, trong đó có cơ
sở hạ tầng giữ vai trị quyết định kiến trúc thượng tầng. Còn kiến trúc thượng
tầng là phản ánh cơ sở hạ tầng, nhưng nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối
với cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó”.
Vì thế, em xin chọn đề tài “Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng và vận dụng vào phân tích mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài để nghiên cứu.
B. Nội dung triển khai:
Chương I. Phần lý luận: Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng.
1.1 Khái niệm
1.1.1 Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong
sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
xuất vật chất của xã hội. Đây là toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên thực
tế mà trong quá trình vận động của nó hợp thành một cơ cấu kinh tế hiện
thực. C. Mác chỉ rõ: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu
kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc
thượng tầng pháp lý và chính trị, những hình thái ý thức xã hội nhất định
tương ứng với cơ sở hiện thực đó”.
Trong một xã hội, có thể tồn tại nhiều loại hình quan hệ sản xuất khác
nhau, bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội
cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của một xã hội tương lai. Cơ sở hạ tầng
chính là sự tổng hợp của các quan hệ sản xuất ấy, trong đó quan hệ sản xuất
5
thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác.
Do đó, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, bên cạnh những quan hệ sản xuất
tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống thì quan hệ sản xuất thống trị vẫn là
đặc trưng cơ bản của xã hội ấy. Sự tồn tại của ba loại hình quan hệ sản xuất
cấu thành cơ sở hạ tầng của một xã hội phản ánh tính chất vận động, phát
triển liên tục của lực lượng sản xuất với các tính chất kế thừa và phát triển.
1.1.2 Kiến túc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với
những thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng
hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm
tư tưởng về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tơn giáo, nghệ thuật, triết học…
cùng những thiết kế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các
đoàn thể và tổ chức xã hội khác. Các yếu tố về quan điểm tư tưởng và thiết
chế xã hội có quan hệ với nhau, cùng với những quan hệ nội tại trong các yếu
tố đó hợp thành kiến trúc hợp thượng tầng của xã hội.
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là
một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội. Cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cơ bản của xã hội gắn bó hữu cơ, có
quan hệ biện chứng, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định, còn kiến
trúc thượng tầng tác động mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng.
1.2.1 Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng, bởi vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu
kinh tế xét đến cùng quyết định tính tất yếu chính trị - xã hội.
6
Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm
địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh
thần. Quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị
tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn
trong lĩnh vực tư tưởng.
Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng
tầng: nhà nước, pháp luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều khơng
thể giải thích từ chính nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc
vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định. Cơ sở hạ tầng không chỉ sản
sinh ra một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng - tức là quyết định nguồn
gốc, mà còn quyết định đến cơ cấu, tính chất và sự vận động, phát triển của
kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng
phải thay đổi theo. C.Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tồn bộ cái kiến
trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”. Vai trị quyết
định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng không chỉ biểu hiện
trong giai đoạn chuyển đổi từ hình thái khinh tế - xã hội này sang hình thái
kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong một hình thái kinh tế - xã hội
nhất định. Khi có sự biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng thì cũng sẽ dẫn đến
sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng.
Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng đưa tới sự thay đổi của kiến trúc thượng
tầng. Nhưng sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạptạp, có
những bộ phận của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự
thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị, luật pháp,v.v.; có những nhân tố
riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn được kế thừa để xây dựng kiến trúc
thượng tầng mới.
7
1.2.2 Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng
quyết định nhưng có sự tác động trở lại to lớn đối với kiến trúc thượng tầng.
Bởi vì kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối so với cơ sở hạ tầng.
Lĩnh vực ý thức, tinh thần khi ra đời, tồn tại thì đều có quy luật vận động nội
tại của nó. Vai trị của kiến trúc thượng tầng chính là vai trị tích cực, tự giác
của ý thức, tư tưởng. Vai trò của kiến trúc thượng tầng còn do sức mạnh vật
chất của bộ máy tổ chức - thể chế ln có tác động một cách mạnh mẽ trở lại
cơ sở hạ tầng. Ph.Ăngghen khẳng định: “Quan điểm tư tưởng, đến lượt mình,
nó tác động trở lại đến cơ sở hạ tầng kinh tế và có thể biến đổi cơ sở hạ tầng
đó trong những giới hạn nhất định”.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được
thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng
cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng cũ. Mặt khác, kiến trúc thượng tầng trong các xã hội có
giai cấp cịn đảm bảo sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa
vị thống trị về kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống trị
về chính trị và tư tưởng thì cơ sở kinh tế của nó khơng thể đứng vững được.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo
hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh
tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng, kinh tế phát
triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sơ sở hạ tầng,
kinh tế, kìm hãm phát triển đời sống xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến
bộ nảy sinh trong quá trình của cơ sở kinh tế mới – mới phản ánh nhu cầu của
sự phát triển kinh tế, mới có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu
kiến trúc thượng tầng là sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi thời thì gây tác
8
dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội. Tất nhiên sự kìm hãm chỉ là tạm
thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục.
Chương II. Phần liên hệ thực tiễn và liên hệ bản thân
2.1 Liên hệ thực tiễn
2.1.1 Tác động của kinh tế tới đạo đức và ngược lại ở Việt Nam hiện nay
Một câu nói khá phổ biến phản ánh rất thực tâm trạng của nhiều người
chúng ta: “Mong kinh tế như hơm nay, cịn đạo đức trở lại như ngày xưa”.
Nghe có vẻ nghịch lý, nhưng đó là điều có thực, như nhiều vị cao niên thường
tâm sự: “Thời chiến tranh, thời bao cấp mình thiếu thốn đủ thứ, nhưng rất
giàu có về lý tưởng, nhân cách, tình nghĩa, sống thanh thản chứ đâu nhiều bức
xúc như thời nay”.
Nói ngắn gọn là đạo đức xã hội nước ta đang xuống cấp - điều làm mọi
người khơng bằng lịng và thường xun lo ngại. Sự xuống cấp của đạo đức
xã hội có thể định lượng như gần đây một số trí giả phát biểu: “Đạo đức
xuống cấp ở mức đáng báo động!”(1), “Thực trạng xuống cấp của văn hóa, đạo
đức xã hội đã ở mức độ nguy hiểm”(2).
Trong vòng một vài năm nay, các phương tiện truyền thông đã nêu lên
khá nhiều biểu hiện “chưa từng có” so với trước đây ở xã hội chúng ta - về
của sự xuống cấp đạo đức, với chiều hướng ngày càng gia tăng, mức độ ngày
càng nghiêm trọng.
Trước tiên là lĩnh vực kinh tế. Nhờ vận động theo cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ bao năm nay, nước ta đạt được nhiều
thành tựu to lớn về kinh tế và an sinh xã hội, đời sống của nhân dân được cải
thiện đáng kể so với trước. Nhưng sự xuống cấp về đạo đức thể hiện rất rõ
trong lĩnh vực này qua những đại án hình sự và nhiều vụ án kinh tế mà nhiều
người chịu sự trừng phạt của pháp luật lại nằm trong “bộ phận khơng nhỏ cán
bộ, đảng viên suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”.
9
Đạo đức xã hội xuống cấp còn thể hiện ở những hành vi bạo lực trong
nhiều lĩnh vực khác nhau, từ bạo lực gia đình, bạo lực học đường... đến bạo
lực nơi cơng cộng. Có những người sẵn sàng dùng vũ khí “nóng”, vũ khí
“lạnh” để giải quyết các mâu thuẫn trong mọi quan hệ giữa cha mẹ và con,
anh chị em, vợ chồng, hàng xóm láng giềng, bạn bè… Nhiều trường hợp dẫn
đến kết cục thật thương tâm.
Thói tham lam, ích kỷ, thói vơ cảm lan rộng gây nhiều tác hại cho cộng
đồng, phản lại thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi người đều tìm cách kiếm được nhiều
tiền, điều này là chính đáng, tuy nhiên một số người đã tôn sùng đồng tiền
một cách mù quáng, coi “tiền là trên hết” và tìm mọi thủ đoạn để có nhiều
tiền, tạo mọi điều kiện để mặt trái của đồng tiền phát huy. Khi đồng tiền lên
ngơi cũng chính là lúc đạo đức xuống cấp.
Kinh tế thị trường có nhiều mặt tích cực nên phát huy, nhưng những mặt
tiêu cực của nó cũng cần được nhận diện một cách khách quan và khoa học
hơn nữa, để phê phán và khắc phục hữu hiệu. Điều này quả là chúng ta làm
chưa tốt, không tốt, thậm chí cịn có hiện tượng bng lỏng, thả nổi rất nguy
hiểm. Phải thẳng thắn chỉ ra rằng, đạo đức xã hội và kinh tế chưa song hành,
đạo đức xã hội chưa bắt kịp sự phát triển của kinh tế.
Chúng ta phải thực sự chú ý đến đạo đức do
Một là, trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đạo đức
tư sản và những tập quán đạo đức lạc hậu của người sản xuất nhỏ, tàn dư của
đạo đức phong kiến có cơ sở kinh tế, xã hội cho sự tồn tại của chúng, chứ
không phải chỉ do sự bảo thủ của tập quán truyền thống. Và, tất nhiên là sự
xâm nhập, bổ sung lẫn nhau giữa các hệ thống giá trị, các chuẩn mực đạo đức
truyền thống và hiện đại, đồng thời cũng tạo ra sự tác động xung khắc, gạt bỏ
lẫn nhau giữa một sồ mặt trong chúng. Trong tình hình đó, kế thừa và đồi mới
10
những hệ thống giá trị, những quy tắc ứng xử nhằm xây dựng một nền đạo
đức Việt Nam lành mạnh, giàu tính dân tộc và hiện đại và việc làm cần thiết.
Hai là, cùng với sự phát triển nền sản xuất hàng hóa, khối lượng tiền và
uy lực của đồng tiền cũng tăng lên. Đồng tiền vốn có giá trị nhiều mặt của nó
cho cả các cá nhân và cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong mọi thời đại.
Tiền là một vật vô tri vô giác, nhưng khi được thần thánh hóa và được coi là
giá trị duy nhất thì sẽ biến thành tai họa, trở thành lực lượng thống trị làm tha
hóa con người. Và, một khi uy lực đồng tiền càng lớn thì khả năng phá hoại
những mối quan hệ tinh thần, đạo đức giữa người và người càng mạnh. Hiện
tượng hàng giả, hàng “rởm", hàng kém phẩm chất ngày một gia tăng, tinh
thần giúp đỡ nhau, kính già u trẻ, thấy việc nghĩa khơng từ nan của mọi
người ngày càng mờ nhạt và lòng yêu nghề, đạo đức nghề nghiệp cần có cũng
dần dần mất đi... Như vậy, đổi mới, mở cửa, lĩnh vực đạo đức giá trị với tính
cách là một trong những nội dung quan trọng của đời sống tinh thần trở thành
"điểm nóng" mà chúng ta khơng thể xem nhẹ. Tất nhiên, khơng vì mặt trái của
đồng tiền mà coi nhẹ chức năng xã hội của nó, định kiến vơ lý với nó, khơng
ủng hộ việc làm giàu chính đáng, bằng lòng với cái nghèo thanh bạch.
Ba là, việc giá tăng quyền chủ động kinh doanh cho cơ sở trong quá
trình đổi mới là cần thiết. Bên cạnh những án bộ lãnh đạo quản lý phát huy
được vai trị của mình, năng động sáng tạo, cịn khơng ít người lợi dụng quá
trình chuyển đổi cơ chế, lợi dụng sơ hở của chính sách, làm giàu bất chính.
Khơng chỉ lẻ tẻ ở một vài cá nhân riêng biệt, mà có tính chất tập đồn, móc
nối thành từng chuỗi, từng mạch rất rộng. Sự tha hóa đạo đức khơng chỉ biểu
hiện ở việc móc nối kiếm tiền lâm giàu bất chính, mà cịn là ở thái độ vô trách
nhiệm trong tiêu tiền và mục đích hưởng lạc, gây bất cơng lớn trong xã hội,
quần chúng bất bình. Đây khơng chỉ là hiện tượng xã hội bình thường, mà cịn
có "thách thức số một", là yếu tố kìm hãm lớn đối với hiệu quả quản lý đất
nước, là vấn đề "mang tính chính trị” khá nghiêm trọng.
11
Bốn là, trong nền kinh tế hàng hóa, cạnh tranh là tất yếu. Nhưng xuất
phát từ quan niệm đạo đức khác nhau dẫn đến phương thức cạnh tranh, kể cả
mục đích cạnh tranh khác nhau. Có cạnh tranh dẫn đến hủy hoại con người,
hủy hoại môi trường, tàn phá sản xuất, canh tranh theo “luật rừng". Có cạnh
tranh làm phồn vinh xí nghiệp tạo ra sản phẩm nhiều hơn và tốt hơn nhằm
thỏa mãn nhu cầu của con người, tạo ra cơ hội, việc làm nhiều hơn. Gần đây,
báo chí trong và ngoài nước bàn nhiều đến cạnh tranh lành mạnh, đạo đức
trong kinh doanh... Thực chất của cạnh tranh này là mục đích tâm lý, là nguồn
gốc đạo nghĩa. Phương thức này làm cho lý luận đạo đức và hành vi kinh tế
của con người thực sự dung hòa, hợp nhất làm một, và việc thực hiện luân lý
càng có yêu cầu thiết thực.
2.2 Liên hệ bản thân
2.2.1 Giải pháp xây dựng đạo đức nhà giáo trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa nhằm tạo lập mơi trường kinh tế, chính trị, xã hội lành mạnh cho xây
dựng đạo đức xã hội nói chung, đạo đức nhà giáo nói riêng. Thực hiện nội
dung này, cần tăng cường vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa đối với sự phát
triển kinh tế để bảo đảm các mục tiêu phát triển xã hội và con người. Nâng
cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia để tạo mơi trường chính trị - xã hội
lành mạnh; gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, phát
triển các giá trị đạo đức tốt đẹp, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý chí quyết
tâm và nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ chuyên
môn của mỗi cán bộ, công chức, trong đó có nhà giáo.
Hai là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với việc tăng
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục - đào tạo, gắn với
xây dựng đạo đức nhà giáo. Theo đó, cần tập trung hồn thiện thể chế, môi
trường minh bạch trong giáo dục theo quy định của pháp luật. Tăng cường
12
hiệu quả kiểm tra, thanh tra, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, giám sát việc thực thi
pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm góp phần “chủ động
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Ba là, thực hiện tốt chính sách xã hội đối với nhà giáo phù hợp với yêu
cầu và điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh, nhân văn. Để đạo đức
nhà giáo được củng cố vững chắc, cần tiếp tục củng cố môi trường đạo đức,
trọng tâm là gia tăng sức mạnh của các giá trị đạo đức nghề nghiệp, phát huy
vai trò của các tổ chức, các thiết chế, dư luận xã hội, truyền thông đại chúng
trong tiếp nhận và chuyển hóa các tác động tích cực; hạn chế, ngăn ngừa, thu
hẹp tối đa các tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường
đến ý thức, tình cảm, thái độ, hành vi đạo đức nhà giáo.
Năm là, phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của nhà giáo trong rèn
luyện đạo đức trước tác động của kinh tế thị trường. Mỗi nhà giáo cần nhận
thức đúng những tác động có tính hai mặt của kinh tế thị trường, nhận thức
đúng vai trị, vị trí nghề nghiệp của mình trong xã hội, giải quyết hài hịa các
quan hệ lợi ích, khơng vì vật chất mà bất chấp đạo đức nhà giáo, đánh đổi
lương tâm và danh dự. Mỗi nhà giáo cần tích cực tự tu dưỡng, rèn luyện, cống
hiến, không ngừng vun đắp, xây dựng cho mình những phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp tốt đẹp; thực sự nêu gương về đạo đức nghề nghiệp, nói đi đơi
với làm, có ý thức giữ gìn phẩm giá nghề nghiệp trong thực tiễn hoạt động sư
phạm, trong hành vi ứng xử với người học và đồng nghiệp.
C. Kết luận
Hiện nay, chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền, thượng tôn pháp luật
là tất yếu của một xã hội hiện đại, văn minh. Tuy nhiên, nền tảng đạo đức
luôn luôn được coi trọng. Việc xây dựng con người Việt Nam được đặt lên
hàng đầu, mà nhiều người trong xã hội trân trọng gọi là “đạo làm người”.
Theo đó, con người dù là ở cương vị nào trong xã hội cũng đều phải tu dưỡng,
13
rèn luyện để có phẩm chất tốt đẹp, có đạo đức, nếu không sẽ không làm đúng
“đạo làm người”. Cán bộ và đảng viên - những người cộng sản - giữ địa vị
càng cao càng cần tu dưỡng, rèn luyện nghiêm cẩn. Đảng ta đã ra Quy định số
08-QĐi/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Theo đó, cấp
trên phải nêu gương sáng cho cấp dưới, đảng viên phải nêu gương sáng, làm
mực thước cho người khác làm theo.
Làm được những điều này, chúng ta có cơ sở để tin rằng tình trạng suy thối
đạo đức hiện nay sẽ từng bước được khắc phục. Không hề dễ dàng, khơng thể
nóng vội, nhưng phải kiên quyết, quyết liệt với sự đồng tâm nhất trí của tồn
Đảng, tồn dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước pháp
quyền do nhân dân làm chủ, chúng ta có cơ sở để tin rằng cái thiện sẽ thắng
cái ác, cái tốt sẽ thắng cái xấu, chúng ta sẽ xây dựng thành công một xã hội
đạo đức tốt đẹp cùng với nền kinh tế tăng trưởng, phát triển - một xã hội xã
hội chủ nghĩa đúng nghĩa.
D. Tài liệu tham khảo
Tài liệu tiếng việt
1 Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý
luận chính quy)
Tài liệu trực tuyến
2 Suy nghĩ về thực trạng đạo đức xã hội hiện nay, Tuyên giáo (tạp chí của
ban tuyên giáo trung ương)
/>3 Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức
hiện nay, Chungta
/>cuu/quan_he_giua_dao_duc_va_kinh_te.html
14
4 Xây dựng đạo đức nhà giáo trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí cộng sản
/>