Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

bài thu hoạch môn QHQT những nội dung cơ bản trong đường lối đối ngoại của đảng, nhà nước việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.64 KB, 25 trang )

BÀI THU HOẠCH
MÔN QUAN HỆ QUỐC TẾ

“NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI
NGOẠI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HIỆN NAY”


MỤC LỤC
Trang


MỞ ĐẦU
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thành cơng rất tốt đẹp, góp
phần củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp
đổi mới đất nước; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy tinh thần yêu nước, ý
chí và khát vọng phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh.
Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đảng ta xác định kiên quyết,
kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị,
bảo đảm trật tự, an tồn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây
dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ
sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố
nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch. Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hoá, đa dạng hố; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng, có
hiệu quả; giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định, khơng ngừng nâng cao vị thế, uy tín
quốc tế của Việt Nam.
Sau khi được Quý thầy cô của Viện Quan hệ quốc tế cung cấp, truyền đạt nội dung
của môn Quan hệ quốc tế, bản thân học viên đã được nghe, tiếp thu và nhận thức sâu sắc


thêm nhiều kiến thức có nội dung quan trọng. Trong đó, bản thân học viên rất tâm huyết
với nội dung về đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Với nhận thức đó, học viên thực hiện chuyên đề thu hoạch có nội dung “Những
nội dung cơ bản trong đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay".


NỘI DUNG
I. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CỤC DIỆN THẾ GIỚI NHỮNG NĂM TỚI VÀ
TÁC ĐỘNG TỚI VIỆT NAM
1.1. Các xu hướng vận động chủ yếu của cục diện thế giới những năm
tới
Trên các bình diện cơ bản, Đại hội XIII của Đảng nhận định, cục diện thế giới vận
động theo những xu hướng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn.
Thứ hai, tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất
phức tạp, khó lường.
Thứ ba, cục diện thế giới trong những năm sắp tới tiếp tục vân động nhanh hơn
theo xu hưởng đa cực, đa trung tâm, trong đó sự vận động của quan hệ Mỹ - Trung và sự
tập hợp lực lượng quốc tế xung quanh Mỹ - Trung đóng vai trị then chốt trong việc định
hình cục diện thế giới thời gian tới.
Thứ tư, dưới tác động ngày càng hiện hữu của Cách mạng công nghiệp 4.0 và nền
kinh tế số, cuộc đua tranh kinh tế và khoa học - công nghệ trên thế giới, nhất là giữa các
cường quốc, các trung tâm kinh tế sẽ ngày càng quyết liệt, diễn tiến nhanh chóng và tác
động mang tính quyết định tới tương quan so sánh và phân bổ sức mạnh trên trường quốc
tế.
Thứ năm, khu vực Ân Độ - Thái Bình Dương tiếp tục là trọng tâm của sự vận động
địa - chính trị và địa - kinh tế toàn cầu, là nơi diễn ra cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các
cường quốc, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng gay gắt.
1.2.

Việt Nam trong cục diện thế giới hiện nay


o•



o



*/


1.2.1.

Định vị Việt Nam trong cục diện thế giới
Từ bối cảnh và vị thế hiện nay, chúng ta có thể định vị vị trí Việt Nam trên thế giới

hiện nay ở mấy điểm căn bản:
Thứ nhất, Việt Nam là một nước nằm ở trung tâm Đông Nam Á và châu Á - Thái
Bình Dương, có vị trí địa - chính trị rất quan trọng ở khu vực và thế giới - nơi hội tụ lợi
ích của nhiều nước lớn, đặc biệt là nơi các nước lớn đang điều chỉnh chính sách và gia
tăng ảnh hưởng.
Thứ hai, Việt Nam ngày càng được biết đến rộng rãi là một quốc gia ổn định, là
tấm gương đổi mới, hội nhập thành công, phát triển nhanh và năng động, đã vươn lên trở
thành nền kinh tế với quy mô đứng thứ tư trong ASEAN, đã trở thành một quốc gia có thu
nhập trung bình, đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao
vào năm 2030 và nước có thu nhập cao vào năm 2045 như Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng đã đề ra.

Thứ ba, Việt Nam là một chủ thể tích cực, chủ động, đáng tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng khu vực và thế giới, là thành viên ngày càng có vai trò quan
trọng của Cộng đồng ASEAN, cũng như trong bàn cờ chính trị, kinh tế và an ninh khu
vực. Việt Nam có vai trị, uy tín và vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế, ngày càng
được đông đảo bạn bè quốc tế biết tới và ủng hộ.
Thứ tư, Việt Nam là một nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
có chính sách đối ngoại rộng mở, vì hịa bình, hợp tác, phát triển, là nhân tố tích cực cho
hịa bình, cơng bằng, dân chủ, tiến bộ ở khu vực và trên thế giới. Việc Việt Nam có quan
hệ ngoại giao với 189/193 thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ thương mại với 230 quốc
gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ đối tác chiến lược và tồn diện với 30 quốc gia, trong đó
với tất cả các nước P5, G7 và hầu hết các quốc gia trên thế giới, các tổ chức khu vực, liên
khu vực, châu lục, quốc tế đã thể hiện vị trí ngày càng quan trọng của Việt Nam trong đời
sống quan hệ quốc tế.
1.2.2.
Tác động của cục diện thế giới hiện nay tới Việt Nam
•o





o






Có thể kể ra một số tác động thuận và nghịch đan xen chủ yếu như sau:
Một là, trong cuộc chạy đua khốc liệt dưới tác động của cuộc Cách mạng công

nghiệp 4.0 và kinh tế số, để tăng sức mạnh tổng hợp, tất cả các quốc gia đều dành ưu tiên
cao cho khoa học - công nghệ và đi liền với nó là chất lượng nguồn nhân lực. Điều đó đặt
Việt Nam trước những thách thức gay gắt hơn, có nguy cơ tụt hậu xa hơn, nếu khơng kịp
thời có những điều chỉnh thích hợp trong chiến lược phát triển. Tuy nhiên, bối cảnh của
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay cũng đặt chúng ta trước những thời cơ lớn để
bứt phá phát triển, gia tăng sức mạnh và vị thế quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Hai là, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương,
là khu vực có sự phát triển kinh tế năng động, là “động lực” phát triển của thế giới, là
trung tâm địa - chính trị và kinh tế toàn cầu nên được tất cả các nước lớn quan tâm, do đó
chịu tác động của sự tranh chấp, giành giật phức tạp giữa các nước lớn cả về chính trị,
quân sự lẫn kinh tế, đưa lại cho chúng ta cả thời cơ và thách thức đan xen.
1.2.3.

Chính sách của Việt Nam

Từ tất cả những đặc điểm và xu hướng vận động của cục diện thế giới hiện hay và
vị thế của Việt Nam, đòi hỏi chúng ta cần chú trọng tới một số vấn đề sau:
Thứ nhất, kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, vì lợi ích dân tộc thực sự,
theo đuổi chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa nhất qn, thúc đẩy chủ nghĩa đa
phương, khéo léo tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, trong khuôn khổ chiến lược chung, cần định vị rõ Việt Nam ở vị trí nào
trong chiến lược của các nước lớn? Mối nguy cơ nào là trực tiếp và lớn nhất? Trên quan
điểm tổng thể cần có phương cách đối phó nào để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc? Ví dụ
như bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cần được đặt trong mối liên hệ như thế nào với
yêu cầu bảo vệ môi trường hịa bình, ổn định và thế trận đối ngoại nói chung trong bối
cảnh sắp tới?


Thứ ba, có chính sách rõ ràng hơn và những biện pháp thiết thực nhằm khai thác
lợi thế là một nước ở khu vực đang trở thành trung tâm mới của thế giới, trong đó hết sức

tích cực, chủ động, phát huy vai trị, góp phần gắn kết ASEAN như một cộng đồng.
Thứ tư, tranh thủ thời cơ, thúc đẩy cải cách và đổi mới mạnh mẽ, tập trung xây
dựng nội lực thông qua phát triển nhanh và bền vững, sớm vượt qua bẫy thu nhập trung
bình để nhanh chóng hiện thực hóa khát vọng vươn lên thành quốc gia thịnh vượng trong
thời gian sớm nhất.
Thứ năm, tổ chức lại các lực lượng nghiên cứu đối ngoại theo sự chỉ đạo thống
nhất, làm tốt công tác nghiên cứu dự báo tình hình, đánh giá sâu sắc, tồn diện và bám sát
sự vận động của cục diện thế giới, chính sách của các nước lớn cũng như mối quan hệ
giữa họ để đề ra một chiến lược tổng thể, đúng đắn.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA
ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.
2.1.1.

Mục tiêu, nguyên tắc, nhiệm vụ
Mục tiêu

Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; góp
phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu đến gỉữa thế kỷ XXI, nước ta trở
thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, Đại hội XIII của Đảng
tiếp tục khẳng định mục tiêu hàng đầu của hoạt động đối ngoại là bảo đảm cao nhất lợi ích
quốc gia - dân tộc. Lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc
xuyên suốt của đối ngoại. Đối ngoại vì lợi ích quốc gia - dân tộc thể hiện qua các nhiệm
vụ như: Đoàn kết dân tộc, tập hợp lực lượng đơng đảo người Việt Nam trong và ngồi
nước, phát huy tối đa nguồn lực trong nước, đồng thời huy động có hiệu quả nguồn lực
nước ngồi vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; đồng thời bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ; đồn kết quốc tế, tác động tích cực tới nỗ lực tập hợp lực lượng quốc tế của Việt



Nam vì mục tiêu hịa bình, hợp tác và phát triển; nâng cao uy tín của Đảng Cộng sản Việt
Nam, khẳng định mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta là vì lợi ích quốc gia - dân tộc.
2.1.2.

Ngun tắc
Có hai loại nguyên tắc trong hoạt động đối ngoại: (1) nguyên tắc cơ bản, xuyên

suốt, bao trùm; (2) các nguyên tắc cụ thể.
-

Nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt, bao trùm trong đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta là hịa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng thời, phải
sáng tạo, năng động, linh hoạt trong xử lý các tình huống, phù hợp với hồn cảnh
cụ thể, với vị trí của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu
vực, phù hợp với đặc điểm của từng đối tác. Trong xử lý tình huống, cần “ba
tránh”: tránh bị cơ lập, tránh xung đột và tránh đối đầu.

-

Các nguyên tắc cụ thể:
+ Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau.
+ Không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
+ Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thơng qua thương lượng hịa bình.
+ Tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

2.1.3.

Nhiệm vụ đối ngoại

Chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối chung, là sự tiếp tục

chính sách đối nội, tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ đối nội. Xuất phát từ nhiệm vụ
cách mạng nước ta giai đoạn hiện nay và trên cơ sở những biến động của tình hình thế
giới thời gian gần đây, Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa
đấu tranh, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế vì lợi ích
quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo
lập và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát


triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Xây dựng nền ngoại giao toàn diện,
hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.
Như vậy, nhiệm vụ đối ngoại thể hiện trên các vấn đề sau:
Thứ nhất, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Nhiệm vụ đối ngoại trước hết phải bảo vệ được lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc bao gồm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Để giữ vững hịa
bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, vấn
đề đầu tiên phải xây dựng nền quốc phịng chính quy, ngày càng hiện đại. Tuy nhiên,
trong điều kiện thế giới ngày nay, để bảo vệ đất nước theo quan điểm chỉ đạo của Đảng là
giữ nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước còn chưa nguy thì cịn cần phải kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sử dụng sức mạnh trong nước và sức mạnh bên
ngồi và do đó, đối ngoại có tầm rất quan trọng.
Thứ hai, đối ngoại có nhiệm vụ tạo lập và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định,
huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước.
Nhiệm vụ đối ngoại là phải tạo lập được mơi trường hịa bình để phục vụ cho sự
nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giữ
vững mơi trường hịa bình bao gồm hịa bình, ổn định trên tất cả lĩnh vực ở trong nước, là

mơi trường hịa bình ở khu vực, trước hết là khu vực Đông Nam Á, tiếp đến là khu vực
Đông Á và rộng hơn là khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chỉ trên cơ sở giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định, chúng ta mới có điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,
tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Điều này càng quan trọng trong
bối cảnh thế giới ngày nay, khi tồn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang
diễn ra mạnh mẽ và tác động sâu rộng.
Thứ ba, đối ngoại có nhiệm vụ nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường
quốc tế.


Để nâng cao vị thế của đất nước, trong các văn kiện Đại hội, Đảng ta đã khẳng
định Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế. Tuy nhiên, chủ trương đối ngoại phải được thể hiện trong thực tế. Do đó,
hoạt động đối ngoại nhằm tăng cường quan hệ hịa bình, hữu nghị với các nước, đẩy mạnh
quan hệ hợp tác cùng có lợi với các đối tác trên các lĩnh vực khác nhau, đồng thời làm
tròn nghĩa vụ của nước thành viên và có đóng góp tích cực cho sự phát triển của tổ chức
quốc tế mà Việt Nam tham gia. Đây chính là tiền đề quan trọng để trên cơ sở đó, chúng ta
có thể huy động được nguồn lực bên ngoài cùng với nguồn lực bên trong phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, đối ngoại đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là cao nhất, song Việt Nam vẫn ln
kiên trì chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn
khẳng định nhiệm vụ của đối ngoại là góp phần vào cuộc đấu tranh vì mục tiêu của thời
đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nhiệm vụ đối ngoại theo tinh thần của Đại hội XIII của Đảng nhằm đạt được ba lợi
ích có quan hệ mật thiết với nhau: An ninh - Phát triển - Vị thế, trong đó vấn đề phát triển
đất nước là nhiệm vụ quan trọng nhất. Phục vụ cho phát triển đất nước được coi là nhiệm
vụ hàng đầu của đối ngoại, vì chỉ có phát triển mới tạo nên nền tảng vật chất cho việc thực
hiện mục tiêu an ninh và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Tuy nhiên, không thể có sự
phát triển và phát huy được ảnh hưởng quốc tế nếu không giữ vững được an ninh, bảo vệ
chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.

2.2. Phương châm đối ngoại
2.2.1.

Phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; dựa vào

phát huy nội lực là chính, tranh thủ tối đa ngoại lực
Nội hàm của “sức mạnh dân tộc” trong bối cảnh ngày nay bao gồm cả các yếu tố
sức mạnh “cứng” như kinh tế, quân sự, con người..., các nguồn lực có thể huy động ở
trong nước và các yếu tố của sức mạnh “mềm” như văn hóa, truyền thống... Sức mạnh


cứng và sức mạnh mềm cần được vận dụng, kết hợp một cách hiệu quả, linh hoạt để bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.
Nội hàm sức mạnh thời đại bao gồm: lựa chọn con đường phát triển phù hợp với
nội dung chủ yếu của thời đại ngày nay và những nhân tố mới trong giai đoạn hiện nay là
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ; xu thế tồn cầu hóa, hợp tác liên kết khu vực; xu
thế hịa bình, hợp tác, phát triển...
Việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thế giới ngày nay cũng
có nhiều thay đổi. Hoạt động đối ngoại của các nước trên thế giới ngày nay ln đặt lợi
ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu, cho nên việc tìm ra phương thức hữu hiệu để kết hợp
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong từng vấn đề cụ thể là nhân tố quyết định
thành bại của phương châm này.
2.2.2.

Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; vừa hợp tác, vừa đấu tranh

Trong điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa
dạng hóa, Việt Nam đứng trước những cơ hội mới, song nguy cơ và thách thức từ bên
ngoài cũng gia tăng. Do đó, cần nhận thức đúng và nắm vững vấn đề hợp tác và đấu tranh,
coi đây là hai mặt gắn bó hữu cơ của quan hệ quốc tế. Trong phương châm nắm vững hai

mặt hợp tác và đấu tranh, Đảng ta nhấn mạnh một nhận thức mới, đó là đấu tranh nhằm
thúc đẩy hợp tác, tránh trực diện đối đầu, không để cho các thế lực không thân thiện với
Việt Nam lợi dụng sơ hở để đẩy ta vào thế cô lập, đặc biệt là tránh một cuộc xung đột
quân sự hoặc bị khiêu khích vũ trang. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh còn nhằm
lợi dụng mâu thuẫn và sự cạnh tranh giữa các đối tác có quan hệ với nước ta, nhất là giữa
các nước lớn, tranh thủ những lực lượng có thể tranh thủ được, phân hóa và thu hẹp đến
mức có thể được các thế lực chống đối hoặc khơng thân thiện với Việt Nam.
Trong xử lý các vấn đề quốc tế, yêu cầu đặt ra là phải kết hợp nhuần nhuyễn hai
mặt hợp tác và đấu tranh, tránh hợp tác một chiều hoặc đấu tranh một chiều, cả hai
khuynh hướng này đều dẫn tới tình huống bất lợi cho đất nước, cần phải tỉnh táo, có sách
lược khơn khéo trong hợp tác và đấu tranh, để mở rộng được quan hệ đối ngoại, “thêm


bạn bớt thù”, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định phục vụ mục tiêu phát triển đất
nước.
2.2.3.

Tham gia hợp tác khu vực

,

đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các

nước
Phương châm này thể hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam
là mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần gìn giữ mơi trường hịa bình, ổn định, phát triển ở
khu vực và trên thế giới. Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt chú trọng hợp tác khu vực,
nhất là đối với các nước láng giềng nhằm tạo một mơi trường hịa bình, ổn định lâu dài.
Việc tạo lập được mối quan hệ hợp tác trên cơ sở tùy thuộc lẫn nhau về an ninh cũng như
về phát triển với các nước trong khu vực sẽ là sự bảo đảm hết sức quan trọng đối với Việt

Nam nhằm xác lập một vị thế có lợi hoặc chí ít là ít bất lợi nhất trong quan hệ quốc tế.
Cùng với việc đặt cao quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng và khu
vực, Đảng và Nhà nước Việt Nam đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng quan
hệ với tất cả các nước, đặc biệt là các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn, vì đó là những
lực lượng có ảnh hưởng quan trọng đến an ninh và phát triển của khu vực và của Việt
Nam. Với các nước lớn, phải coi trọng giữ quan hệ cân bằng, khôn khéo lợi dụng mâu
thuẫn giữa các nước này nhằm tạo được thế cân bằng chiến lược, tranh thủ mọi yếu tố
thuận lợi để phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng.
Trong quan hệ với các nước lớn, Việt Nam kiên trì chính sách độc lập tự chủ, tránh
khơng để rơi vào những tình huống phức tạp và bị động hoặc liên minh với một nước lớn
này chống lại một nước lớn khác.
2.2.4.

Chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả

Đây là phương châm, đồng thời cũng là một định hướng quan trọng về đối ngoại
của Đại hội XIII của Đảng. Để đảm bảo tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả, vấn
đề đầu tiên là phải xác định đúng các biện pháp để nâng cao hiệu quả đối ngoại như: nâng
cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược phục vụ cho hoạch định chính
sách; đưa các quan hệ đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững...


2.2.5.

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn

lãnh thổ của Tổ quốc
Vấn đề độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là thiêng
liêng, khơng thể nhượng bộ, do đó cần phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ. Tuy
nhiên, hiện nay vấn đề tranh chấp Biển Đông là vấn đề lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều

nước, nhất là nước lớn Trung Quốc, cho nên giải quyết vấn đề này phải kiên trì, cần có
thời gian, khơng thể nóng vội. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phải trên cơ sở giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định cho phát triển đất nước.
III. CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CựC HỘI NHẬP QUỐC TẾ
3.1. Về mục tiêu
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hịa bình,
tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững,
nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam,
bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị
thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
3.2.

Quan điểm chỉ đạo
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc

lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, vì hịa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; quán triệt và vận dụng sáng
tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn được tổng kết trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2011); đồng thời phải chú trọng một số quan điểm chỉ đạo sau:
-

Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng
nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.


-


Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát
huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân,
khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân, bao
gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngồi vào
cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

-

Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy
q trình hồn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết
cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết
chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, khu vực trong nước.

-

Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi
cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc
phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được phát
triển đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi
phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.

-

Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia
- dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị
động, đối đầu; không tham gia vào các tập hợp lực lượng, các liên minh của bên
này chống bên kia.


-

Thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động,
tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và
tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng
kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò của
cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.


3.3. Nội dung “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”
Quan điểm chủ động và tích cực hội nhập quốc tế thể hiện bước đi và lộ trình hội
nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới. Hội nhập quốc tế được triển khai đồng bộ và
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, đưa các quan hệ đã được thiết lập đi vào chiều sâu. Xác
định những định hướng và nhiệm vụ sâu rộng hơn về hội nhập quốc tế, Báo cáo Chính trị
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt
mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện,
sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ
quyền quốc gia. Gắn kết chặt chẽ q trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện
và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng của toàn xã hội;
đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng
thích ứng của đất nước”. Như vậy, hội nhập quốc tế hiện nay bao gồm những nội dung
chủ yếu sau:
* Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
Đó là quá trình thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO,
đồng thời triển khai có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP,
EVFTA, VN-EAEU, UKVFTA... Trong những năm tới, Việt Nam phải đưa hội nhập đi
vào chiều sâu, tức là phải tận dụng các cam kết quốc tế để mở rộng thị trường, tái phân bổ
và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế; gia tăng mức

độ tự chủ của nền kinh tế, xác lập vị trí cao hơn trong chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng ở
khu vực và toàn cầu, đồng thời phải tận dụng được hệ thống quy tắc và luật lệ của các tổ
chức quốc tế để bảo vệ các lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân
Việt Nam trong quan hệ với các đối tác nước ngồi.
* Chủ động và tích cực hội nhập trên lĩnh vực chính trị, quốc phịng, an
ninh
Tiếp tục thúc đẩy hội nhập quốc tế trên lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh,
đưa quan hệ này của Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu tức là phải tạo được sự đan


xen, gắn kết lợi ích một cách lâu dài và bền vững giữa Việt Nam và các đối tác, đưa
khuôn khổ quan hệ đã được thiết lập đi vào thực chất, nhất là với các đối tác có tầm quan
trọng chiến lược đối với an ninh và phát triển của Việt Nam; tạo dựng được lịng tin và
hình thành nên các cơ chế hợp tác có hiệu quả trong việc thúc đẩy quan hệ, ngăn ngừa,
đẩy lùi các nguy cơ, kiểm soát các bất đồng và giải quyết các vấn đề nảy sinh, nhất là các
vấn đề có thể tác động nghiêm trọng tới an ninh và phát triển của Việt Nam.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên lĩnh vực chính trị, quốc phịng, an ninh
cịn phải thể hiện qua việc phát huy vai trò của Việt Nam trong các hoạt động quốc tế.
Trong những năm gần đây, chúng ta đã chuyển từ chủ trương tham dự sang phát huy vai
trị thành viên có trách nhiệm trong các tổ chức, trên các diễn đàn khu vực và tồn cầu.
Các hoạt động này đã khẳng định uy tín của Việt Nam, qua đó từng bước nâng cao vị thế
trên trường quốc tế. Trong thời gian tới, chúng ta cần tích cực đóng góp hơn nữa vào cơng
việc chung của thế giới, góp phần đưa Việt Nam trở thành một nhân tố khá quan trọng của
khu vực và thế giới, gắn hịa bình, thịnh vượng chung của Việt Nam vào hịa bình, thịnh
vượng của khu vực và thế giới, về vấn đề này, báo cáo Chính trị Đại hội XIII của Đảng
nhấn mạnh: “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trị của Việt Nam trong
xây dựng, định hướng các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế...”.
* Chủ động và tích cực hội nhập trên các lĩnh vực khác
Đó là quá trình chủ động hơn trong việc nghiên cứu, lựa chọn các bộ tiêu chí, xây
dựng và triển khai lộ trình áp dụng, đồng thời tham gia xây dựng các tiêu chí, chuẩn mực

chung, góp phần nâng trình độ phát triển của Việt Nam trong các lĩnh vực này; phục vụ
các mục tiêu xây dựng nền kinh tế tri thức và con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
3.4.

Một số giải pháp chủ yếu về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
Để thực hiện thắng lợi chủ trương hội nhập quốc tế, đưa hội nhập quốc tế đi vào

chiều sâu, trong những năm tới, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:


Thứ nhất, thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định hướng đối
ngoại của Đại hội XIII của Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình hội
nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và
đối ngoại nhân dân, giữa các cấp, các ngành, các địa phương.
Thứ hai, trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc, Việt Nam cần đẩy
mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ với đối tác chiến lược và
đối tác tồn diện, đảm bảo mơi trường hịa bình, ổn định của đất nước, thúc đẩy quan hệ
trên tất cả các lĩnh vực, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam cần nâng cao hơn nữa hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ các
cam kết quốc tế, theo đó, Việt Nam cần tăng cường cơng tác phổ biến các cam kết quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho
mỗi tổ chức, mỗi người dân nhận thức đúng thách thức cũng như cơ hội mà họ có được từ
q trình hội nhập quốc tế, để họ tham gia một cách chủ động và tích cực, biến q trình
hội nhập quốc tế chủ yếu là các hoạt động của các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá
trình tham gia chủ động và tích cực của bộ ngành, từng địa phương, tổ chức, doanh
nghiệp và người dân.
Thứ tư, trong quá trình triển khai các định hướng lớn về hội nhập quốc tế được xác
định trong Văn kiện Đại hội XI, XII và XIII của Đảng, chúng ta cần tập trung thực hiện

Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế tầm nhìn năm 2030 và các đề án, kế hoạch triển khai
Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị khóa XI về hội nhập quốc tế; khẩn trương hoàn thiện,
nâng cao năng lực các thể chế hội nhập quốc tế; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực phục vụ hội nhập để mức độ hội nhập trên các lĩnh vực của Việt Nam ở
mức độ cao của các nước ASEAN.
Thứ năm, trong hội nhập kinh tế, Việt Nam cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
-

Các bộ, ngành và địa phương cần chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch tồn
diện và cụ thể thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế, trong đó xác định vai trị


trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế trong tiến trình hội nhập trong quan điểm,
nhận thức và hành động.
-

Gắn kết hội nhập kinh tế quốc tế với cải cách trong nước, chuyển đổi mơ hình tăng
trưởng tái cấu trúc nền kinh tế, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế, mục tiêu chính
trị - ngoại giao và mục tiêu chiến lược trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

-

Chú trọng thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng mức độ cam kết
và tự do hóa thương mại ngày càng cao hơn, đồng thời có các điều chỉnh thương
mại trên cơ sở cam kết với các tổ chức quốc tế và khu vực để có hiệu quả cao nhất
trong việc thực hiện các cam kết thương mại.

-

Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả

các cam kết hội nhập, tạo mơi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ngày càng
phù hợp với các chuẩn mực và thơng lệ quốc tế, góp phần hồn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

-

Tận dụng tối đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường,
thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm.

-

Tăng cường nguồn nhân lực, đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu, đánh giá và
dự báo các vấn đề mới liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là việc triển
khai thực hiện ở mức độ cao hơn các cam kết, các FTA để chủ động điều chỉnh
chính sách và biện pháp phù hợp...

IV. MỘT SỐ BÀI HỌC TRONG THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI
MỚI
Từ thực tiễn hoạt động đối ngoại hơn 35 năm qua với những thành tựu và hạn chế,
có thể rút ra một số bài học sau:
Thứ nhất, mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là vì lợi ích quốc gia - dân tộc.
Đây là vấn đề có tính ngun tắc. Đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia - dân tộc với
mục tiêu chiến lược là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế


độ xã hội chủ nghĩa trong sự kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ tạo dựng môi trường quốc tế
thuận lợi nhất cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Thứ hai, kết hợp hài hịa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dân tộc với quốc

tế.
Trong sự kết hợp này, sức mạnh dân tộc giữ vai trò quyết định, được thể hiện ở sức
mạnh tổng hợp cả về vật chất lẫn tinh thần. Đó là sự phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và
bền vững; sức mạnh quốc phịng tồn dân ngày càng hiện đại đáp ứng được yêu cầu của
bảo vệ Tổ quốc; sự ổn định chính trị - xã hội vững chắc; bản sắc văn hóa dân tộc được bảo
vệ và phát huy; sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường.
Thứ ba, giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với hội nhập quốc tế.
Kinh nghiệm lịch sử của cách mạng Việt Nam cho thấy rằng chỉ có thể thực hiện
thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng khi Đảng và Nhà nước
Việt Nam kiên định tinh thần độc lập, tự chủ, tự mình quyết định cơng việc của mình. Tuy
nhiên, trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi hịa bình, hợp tác, phát triển trở thành xu thế
lớn và trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại (hiện
nay là cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0) và tồn cầu hóa, độc lập tự chủ khơng có nghĩa
là đóng cửa với bên ngồi, mà trái lại phải coi trọng và tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ và
giúp đỡ của bạn bè quốc tế, thực hiện chính sách ngoại giao rộng mở, thêm bạn bớt thù,
khơng đi với nước này chống lại nước kia, không tham gia các liên minh gây đối đầu,
căng thẳng.
Thứ tư, kiên định về nguyên tắc chiến lược nhưng mềm dẻo, cơ động, linh hoạt,
sáng tạo trong xử lý tình huống theo tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Thứ năm, triển khai hoạt động đối ngoại một cách toàn diện.
Trong thế giới ngày nay, q trình tồn cầu hóa tác động đến mọi mặt của đời sống
xã hội. Do đó, hoạt động đối ngoại sẽ diễn ra trên mọi lĩnh vực và địi hỏi có sự phối hợp
chặt chẽ giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân nhằm tạo ra sức


mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thống nhất của Đảng và
sự quản lý tập trung của Nhà nước.
V. XÂY DựNG TRƯỜNG PHÁI NGOẠI GIAO MANG ĐẬM BẢN SẮC “CÂY
TRE VIỆT NAM”
Sáng ngày 14/12/2021, tại Hà Nội, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị đối

ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Hội nghị
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng; và cũng có thể gọi đây là hội nghị có ý nghĩa lịch sử vì
đây là Hội nghị đối ngoại tồn quốc đầu tiên do Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp chỉ đạo
tổ chức để bàn về công tác đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân
và của cả hệ thống chính trị.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi đi thông điệp
quyết tâm xây dựng trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, độc lập, tự
cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc luôn luôn là nguyên tắc bất biến, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của chúng ta.
Bên cạnh các cuộc chiến đấu ngoan cường bảo vệ giang sơn, độc lập, chủ quyền
của đất nước, ông cha ta đã luôn luôn chú trọng hoạt động đối ngoại, tạo dựng nên những
truyền thống và bản sắc riêng, rất độc đáo của nền ngoại giao và hoạt động đối ngoại Việt
Nam: Đầy hào khí, giàu tính nhân văn, hịa hiếu, trọng lẽ phải, cơng lý và chính nghĩa:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn; Lấy chí nhân mà thay cường bạo!”; “Dập tắt muôn đời
lửa chiến tranh; Mở nền mn thuở thái bình!”.
Dùng đối ngoại để phịng ngừa, ngăn chặn chiến tranh hoặc để sớm kết thúc chiến
tranh trong vị thế có lợi nhất; đối ngoại phải luôn luôn phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp đối
nội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là những tư tưởng, triết lý vượt thời đại của cha ông
ta, mãi mãi vẫn còn nguyên giá trị.
Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở
vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát


huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một
trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của Thời đại Hồ Chí Minh,
mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” (“Thân
gầy guộc, lá mong manh, mà sao nên lũy, nên thành tre ơi!”), thấm đượm tâm hồn, cốt
cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.

Đó là: Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo
nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân
tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo
vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết
người; biết tiến, biết thối, “tuỳ cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”. Nhà ngoại giao phải
là nhà chính trị, trung thành với lý tưởng của Đảng, phục vụ lợi ích của nhân dân, lấy lợi
ích quốc gia làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là tiếp tục phát huy vai trị tiên phong trong việc
tạo lập và giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để
phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Các nhiệm vụ này có quan hệ
chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau, trong đó giữ vững hồ bình, ổn định là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên; phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ trung tâm; nâng cao vị thế và uy
tín đất nước là nhiệm vụ quan trọng.
Tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi ích quốc gia - dân tộc; vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, vận dụng đúng đắn quan điểm về "đối tượng", "đối tác"; tăng cường hợp tác, tiếp
tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, ngăn ngừa xung đột,
tránh đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc. Trong đó, mục tiêu bao trùm là giữ vững mơi trường
hồ bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các
nhiệm vụ chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời kiên quyết, kiên trì bảo vệ


vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích chính
đáng của ta phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong việc bảo đảm mơi trường hồ bình thì
một trong những u cầu then chốt là phải ln kiên trì, bình tĩnh, sáng suốt, khôn khéo,
xử lý đúng đắn các mối quan hệ đối ngoại, trong đó có vấn đề chủ quyền, lãnh thổ. Đây là
nhiệm vụ hết sức quan trọng của cả hệ thống chính trị, trong đó ngành Ngoại giao là
những người đi đầu.
23


KẾT LUẬN
Sau 35 năm thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã thu được nhiều
thành tựu hết sức quan trọng, thể hiện trên các vấn đề lớn như sau: (i) đã đẩy lùi được
chính sách cơ lập về chính trị, bao vây về kinh tế đối với nước ta, đồng thời mở rộng quan
hệ với các quốc gia, kể cả các nước lớn và các trung tâm hàng đầu thế giới; (ii) đã tranh
thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát triển kinh tế - xã hội;
(iii)

giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời

từng bước giải quyết được nhiều vấn đề về biên giới trên bộ và trên biển với các
nước có liên quan, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để quản lý biên giới,
bảo vệ chủ quyền, mở rộng hợp tác quốc tế, góp phần củng cố hịa bình, ổn định
trong khu vực;
(iv)

có những đóng góp tích cực, đầy tinh thần trách nhiệm và mang tính xây

dựng cho xu thế hịa bình, hợp tác.
Kế thừa chủ trương hội nhập quốc tế của Đại hội XI và XII, Đại hội XIII của Đảng
tiếp tục khẳng định: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tể toàn diện, sâu rộng,
linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc
gia”. Có thể nói, hội nhập quốc tế là quyết sách chính trị quan trọng, là định hướng mới
trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta khi đất nước bước sang thời kỳ mới,


phản ánh bước phát triển mới trong tư duy đối ngoại của Đảng trên cơ sở nhận thức sâu
sắc về các xu thế lớn của thời đại và thực tiễn cách mạng Việt Nam./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Quan hệ quốc tế (Dùng cho
hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, H.2021.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XII,

Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2016.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII,

Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021.
4. Phạm Bình Minh (Chủ biên): Cục diện thế giới đến 2020, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, H. 2010.
5. Phạm Bình Minh: Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2011.
6. Nguyễn Minh Đức: Ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế ở Việt Nam thời kỳ đổi
mới, Nxb. Lý luận chính trị, H. 2020.
7. Phương Linh: Bài viết “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng trường phái
ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam””, Báo điện tử qdnd.vn, ngày
14/12/2021.
8. Tiến Sơn: Bài viết “Xây dựng trường phái ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre
Việt Nam””, Báo điện tử cand.com.vn, ngày 14/12/2021.



×