Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

(TIỂU LUẬN) hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam hiện nay hãy chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để nâng cao hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.33 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------------

BÀI TẬP LỚN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Đề tài :
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Hãy chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế. Để nâng cao hiệu quả trong hội nhập kinh tế
quốc tế, Việt Nam cần phải làm gì?

Họ và tên sinh viên:
Lớp :
MSV:
Khóa:
GVHD:

Hà Nội 2021


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU 2
1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế (ý nghĩa lý luận)...................................2
2. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế (ý nghĩa thực tiễn)....2
II. NỘI DUNG

4

1. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
...........................................................................................................................5


1.1. Cơ hội...........................................................................................................................................5
1.2. Thách thức ...................................................................................................................................6
1.3. Nh nậ th ứ
c vềề th ời c ơ và thách thức do h ội nh ập kinh tềế quốếc tềế mang l ại ..................................6

2. Yêu cầu đặt ra đối với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay...8
III KẾT LUẬN

11

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 11

1


I. MỞ ĐẦU
1.Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế (ý nghĩa lý luận)
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu khách quan trong thế giới ngày nay.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ khoảng
giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác.
Đầu thập niên 60 trong tác phẩm “Lý thuyết về hội nhập kinh tế”, nhà kinh tế
học B.Balassa đưa ra quan điểm cho rằng: Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách
chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau.
Quan điểm này được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách.
Hiện có hai cách hiểu về hội nhập kinh tế quốc tế:
Thứ nhất, hiểu theo nghĩa hẹp coi hội nhập kinh tế quốc tế là sự tham gia
của các quốc gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực.
Thứ hai, cách hiểu theo nghĩa rộng, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở
cửa nền kinh tế và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc tế; đối lập với tình

trạng đóng cửa, cơ lập hoặc ít giao lưu quốc tế.
Từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, theo một cách chung nhất, có thể hiểu hội
nhập kinh tế quốc tế là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự
gắn kết giữa các nền kinh tế của các quốc gia với nhau dựa trên sự chia sẻ nguồn
lực và lợi ích trên cơ sở tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế
hoặc tổ chức quốc tế.
Chủ thể của hội nhập kinh tế quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính
của quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện
các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành
lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
2. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế (ý nghĩa thực tiễn)
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình từng bước xây dựng một nền kinh tế
mở, gắn kết nền kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và thế giới, là xu thế
khách quan không một quốc gia nào có thể đứng ngồi cuộc. Hội nhập khơng phải
là một hiện tượng mới. Tuy nhiên, đến q trình tồn cầu hóa mới từ những thập
niên 80 trở lại đây, hội nhập kinh tế quốc tế mới trở thành một trào lưu, cuốn hút
sự tham gia của tất cả các nước. Hội nhập kinh tế quốc tế được thúc đẩy bởi những
nhân tố chính sau:
Sự phát triển của phân cơng lao động quốc tế
Phân công lao động quốc tế là tiền đề cho sự hình thành các quan hệ kinh tế
quốc tế. Phân công lao động quốc tế là sự phân công lao động giữa các quốc gia
trên phạm vi thế giới, được hình thành khi sự phân cơng lao động xã hội vượt ra
ngoài biên giới một quốc gia do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Phân công
lao động quốc tế ngày càng phát triển và bao trùm toàn bộ nền kinh tế thế giới.
2


Điều kiện để phát triển phân công lao động quốc tế là: sự khác biệt giữa các quốc
gia về điều kiện tự nhiên; sự khác biệt giữa các quốc gia về trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, của khoa học - kỹ thuật và công nghệ, về truyền thống sản

xuất; và mặt khác, mỗi nước đều chịu ảnh hưởng và sự tác động nhất định của chế
độ kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngày nay, dưới tác động của sự phát triển lực lượng sản xuất và tồn cầu hóa
kinh tế đã dẫn đến phân cơng quốc tế mới về lao động. Nếu phân công quốc tế
“cũ” về lao động, các nước, các khu vực kém phát triển được sát nhập vào nền
kinh tế thế giới chủ yếu với tư cách là nhà cung cấp khoáng sản và nơng sản thì
trong phân cơng lao động quốc tế mới có sự chuyển dịch khơng gian của các
ngành cơng nghiệp sản xuất từ các nước tư bản tiên tiến sang các nước đang phát
triển, phân công lao động không còn giới hạn trong phạm vi quốc gia.
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế tồn cầu 2008 - 2009, xu hướng
hình thành đa trung tâm, đa tầng nấc của cục diện ngày càng rõ nét: Nền tảng kinh
tế thế giới có những chuyển dịch căn bản, với những bước tiến mạnh mẽ của công
nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ số; xu thế tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi
mơ hình tăng trưởng theo hướng bền vững; sự chuyển dịch tương quan sức mạnh
kinh tế giữa các trung tâm trước sự vươn lên mạnh mẽ về mọi mặt của Trung Quốc
trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới; đề cao hơn vai trò của các nước đang
phát triển; và trọng tâm kinh tế, chính trị thế giới chuyển dịch từ Tây sang Đơng,
từ Bắc xuống Nam, trong đó châu Á - Thái Bình Dương trở thành động lực của
tăng trưởng toàn cầu.
Sự phát triển của phân công lao động quốc tế làm cho nền kinh tế của các
nước ngày càng gắn chặt vào nền kinh tế tồn cầu, hình thành các mối quan hệ vừa
lệ thuộc, vừa tương tác lẫn nhau trong một chỉnh thể khiến cho hội nhập kinh tế
quốc tế trở thành xu thế chung của thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi khách quan trong bối cảnh tồn cầu hóa
kinh tế
Tồn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa
các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế... trên quy mơ
tồn cầu. Theo Manfred B. Steger, tồn cầu hóa là “chỉ một tình trạng xã hội được
tiêu biểu bởi những mối hỗ trợ liên kết tồn cầu chặt chẽ về kinh tế, chính trị, văn

hóa, mơi trường và các luồng ln lưu đã khiến cho nhiều biên giới và ranh giới
đang hiện hữu thành khơng cịn thích hợp nữa” 1. Tồn cầu hố diễn ra trên nhiều
phương diện: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội v.v...trong đó, tồn cầu hố kinh tế
là xu thế nổi trội nhất, nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc
đẩy toàn cầu hố các lĩnh vực khác. Tồn cầu hố kinh tế chính là sự gia tăng
nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo
ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng
tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.
Tồn cầu hóa đi liền với khu vực hóa. Khu vực hố kinh tế chỉ diễn ra trong
1
3


một khơng gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như: khu vực mậu dịch tự
do, đồng minh (liên minh) thuế quan, đồng minh tiền tệ, thị trường chung, đồng
minh kinh tế… nhằm mục đích hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước
xoá bỏ những cản trở trong việc di chuyển vốn, lực lượng lao động, hàng hố dịch
vụ… tiến tới tự do hố hồn tồn những di chuyển nói trên giữa các nước thành
viên trong khu vực. Trong điều kiện tồn cầu hóa kinh tế, khu vực hóa kinh tế, hội
nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu khách quan: Tồn cầu hóa kinh tế đã lôi
cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động quốc tế, các mối liên hệ
quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho nền kinh tế của các
nước trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời nền kinh tế tồn cầu.
Trong tồn cầu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi tồn
cầu. Do đó, nếu khơng hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không thể tự đảm bảo
được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo
ra cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện
ngày càng nhiều, tận dụng được các thành tựu của cách mạng cơng nghiệp, biến nó
thành động lực cho sự phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển chủ yếu và phổ biến của

các nước, nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội
để tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngồi như tài chính, khoa học công
nghệ, kinh nghiệm của các nước cho phát triển của mình. Khi mà các nước tư bản
giàu có nhất, các công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay những nguồn lực vật
chất và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên tồn thế giới thì chỉ có phát
triển kinh tế mở và hội nhập quốc tế, các nước đang và kém phát triển mới có thể
tiếp cận được nhưng năng lực này cho phát triển của mình.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và
kém phát triển có thể tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với
các nước tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế cịn tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế vĩ
mô. Việc mở cửa thị trường, thu hút vốn khơng chỉ thúc đẩy cơng nghiệp hố mà
cịn tăng tích luỹ, cải thiện thâm hụt ngân sách, tạo niềm tin cho các chương trình
hỗ trợ quốc tế trong cải cách kinh tế và mở cửa. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế
còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu nhập tương đối của các
tầng lớp dân cư.
Tuy nhiên, điều cần chú ý ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về
vốn và công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến q trình tồn cầu
hố thành q trình tự do hố kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tư bản chủ
nghĩa. Điều này khiến cho các nước đang và kém phát triển phải đối mặt với
khơng ít rủi ro, thách thức: đó là gia tăng sự phụ thuộc do nợ nước ngồi, tình
trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch - thương mại giữa các nước đang phát
triển và phát triển. Bởi vậy, các nước đang và kém phát triển phát triển cần phải có
chiến lược hợp lý, tìm kiếm các đối sách phù hợp để thích ứng với q trình tồn
cầu hố đa bình diện và đầy nghịch lý.
4


II. NỘI DUNG

1. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế
1.1. Cơ hội
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà cịn đem lại những lợi ích to lớn
trong phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản
xuất và người tiêu dùng. Cụ thể là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy
thương mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế
kinh tế của nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng
trưởng kinh tế nhanh, bền vững và chuyển đổi mơ hình tăng trưởng sang chiều sâu
với hiệu quả cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh
tế mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các
sản phẩm và doanh nghiệp trong nước; góp phần cải thiện mơi trường đầu tư kinh
doanh, làm tăng khả năng thu hút khoa học công nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài
vào nền kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và
tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo
và nghiên cứu khoa học với các nước mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học
công nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước
ngồi và chuyển giao cơng nghệ nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước
tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công
nghệ sản xuất, tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước,
người dân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại,
mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với
thế giới bên ngồi, từ đó có cơ hội tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.

- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách
nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều
chỉnh chiến lược phát triển hợp lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất
nước.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện
để tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của
văn hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến
bộ xã hội.
5


- Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo
điều kiện cho cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh.
- Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp
trong trật tự quốc tế, nâng cao vai trị, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong
các các tổ chức chính trị, kinh tế tồn cầu.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hịa bình,
ổn định ở khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng thời
mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết
những vấn đề quan tâm chung như môi trường, biến đổi khí hậu, phịng chống tội
phạm và bn lậu quốc tế.
1.2. Thách thức
Hội nhập kinh tế quốc tế khơng chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng
đặt ra nhiều rủi ro, bất lợi và thách thức, đó là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều
doanh nghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là
phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế - xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế
quốc gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những

biến động khơn lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối khơng cơng bằng lợi ích
và rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm
tăng khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội.
- Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như
nước ta phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do
thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao
động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua thiệt trong chuỗi giá
trị toàn cầu. Do vậy, dễ trở thành bãi thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn
kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực
Nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy
trì an ninh và ổn định trật tự, an tồn xã hội.
- Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền
thống Việt Nam bị xói mịn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngồi.
- Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế,
buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ
hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn
mà hậu quả của chúng là rất khó lường. Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách
6


thức trong hội nhập kinh tế là vấn đề cần phải đặc biệt coi trọng.
1.3. Nhận thức về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại
Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế có tầm quan trọng và ảnh hưởng to
lớn đến những vấn đề cốt lõi của hội nhập, về thực chất là sự nhận thức quy luật
vận động khách quan của lịch sử xã hội. Đó là cơ sở lý luận và thực tiễn quan
trọng để xây dựng chủ trương và chính sách phát triển thích ứng.
Trong nhận thức, trước hết cần phải thấy rằng hội nhập kinh tế là một thực

tiễn khách quan, là xu thế khách quan của thời đại, khơng một quốc gia nào có thể
né tránh hoặc quay lưng với hội nhập. Việt Nam cũng không thể đứng ngồi dịng
chảy của lịch sử, hội nhập quốc tế không chỉ là “khẩu hiệu thời thượng” mà phải là
“phương thức tồn tại và phát triển” của nước ta hiện nay.
Từ khi thực hiện đổi mới (1986), Việt Nam đã chủ trương phát triển một nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế. Tới Đại hội
Đảng lần thứ VII (1991), với việc đề ra phương châm “Việt Nam muốn là bạn với
tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát
triển”, đánh dấu mốc quan trọng khởi đầu của Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế trong thời kỳ mới, không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại
song phương và đa phương sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã.
Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), với mục tiêu: “Xây dựng một nền kinh tế
mở, hội nhập với khu vực và thế giới” được coi là bước chuyển biến cơ bản trong
nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) nhấn mạnh việc “chủ động” hội nhập kinh
tế quốc tế và Bộ Chính trị đã ban hành riêng Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội
nhập kinh tế.
Tại Đại hội Đảng lần thứ X (2006), Đảng ta đã nhấn mạnh “chủ động và
tích cực” hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực
khác. Giai đoạn này cũng đánh dấu sự kiển nổi bật về hợp tác kinh tế quốc tế khi
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào tháng 1/2007.
Đại hội lần thứ XI (2011), tiếp tục khẳng định chủ trương “chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế”. Nghị quyết khẳng định: “Nâng cao hiệu quả các hoạt động
đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững
độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ
động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc
tế”1. Đồng thời Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW để cụ thể hóa
chủ trương này trong điều kiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước đã
chuyển sang giai đoạn hội nhập toàn diện trên tất cả các mặt: Kinh tế; chính trị,

khoa học công nghệ và giáo dục, đào tạo...
Đại hội Đảng lần thứ XII cũng khẳng định: “Chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ
thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội
1
7


lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ” 1. Ngày
5/11/2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 06NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn
định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự
do (FTA) thế hệ mới. Nghị quyết xác định hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm
của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội
nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, ngay từ đầu, chúng ta đã có nhận thức đúng về tính khách quan,
vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế và những nhận thức này ngày càng có bước
phát triển quan trọng. Tư duy hội nhập chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và
tham gia hợp tác quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham
gia định hình các cơ chế hợp tác”. Với tầm và quy mô hội nhập hiện nay, các mối
quan hệ kinh tế quốc tế của nước ta không đơn thuần là “hội nhập” mà ở tầm “liên
kết”.
Nhận thức về hội nhập kinh tế cần phải thấy rõ cả mặt tích cực và tiêu cực
vì tác động của nó là đa chiều, đa phương diện. Trong đó, cần phải coi mặt thuận
lợi, tích cực là cơ bản. Đó là những tác động thúc đẩy của hội nhập kinh tế quốc tế
tới tăng trưởng, tái cơ cấu kinh tế, tiếp cận khoa học công nghệ, mở rộng thị
trường…nhưng đồng thời cũng phải thấy rõ những tác động mặt trái của hội nhập
kinh tế như những thách thức về sức ép cạnh tranh gay gắt hơn; những biến động
khó lường trên thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc tế và cả
những thách thức về chính trị, an ninh, văn hóa. Nhận thức này là cơ sở để đề ra
đối sách thích hợp nhằm tận dụng ưu thế và khắc chế tác động tiêu cực của hội

nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Về chủ thể tham gia hội nhập, nhà nước là một chủ thể quan trọng nhưng
không phải là duy nhất. Nhà nước là người dẫn dắt tiến trình hội nhập và hỗ trợ
các chủ thể khác cùng tham gia sân chơi ở khu vực và toàn cầu. Song, hội nhập
quốc tế toàn diện là sự hội nhập của toàn xã hội vào cộng đồng quốc tế, trong đó
doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân sẽ là lực lượng nịng cốt, nhà nước khơng thể
làm thay cho các chủ thể khác trong xã hội. Trong tiến trình hội nhập, người dân sẽ
được đặt vào vị trí trung tâm, do đó, hội nhập kinh tế quốc tế phải được coi là sự
nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức, đó là những lực
lượng đi đầu trong tiến trình này...
Thực tế hiện nay, chủ trương, đường lối, chính sách về hội nhập kinh tế
quốc tế của Đảng và nhà nước có nơi, có lúc chưa được quán triệt kịp thời, đầy đủ
và thực hiện nghiêm túc. Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi cách tiếp
cận phiến diện, ngắn hạn và cục bộ; do đó, chưa tận dụng được hết các cơ hội và
ứng phó hữu hiệu với các thách thức.
2. Yêu cầu đặt ra đối với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
Có thể hiểu quá trình hội nhập quốc tế của một đất nước (quốc gia) là sự
tham gia vào hệ thống thế giới và trở thành một bộ phận cấu thành của chỉnh thể
1
8


thế giới, trước hết là bộ phận cấu thành của “nền kinh tế thế giới”, “nền chính trị
thế giới” và “nền văn minh nhân loại”. Sự tham gia ở đây là thông qua các hoạt
động tương tác (hợp tác, cạnh tranh và đấu tranh...) với các bộ phận cấu thành
khác nhau trong “hệ thống”, bao gồm cả việc gia nhập hay rút khỏi các “phân hệ”
khác nhau trong hệ thống. Tất cả các hoạt động này đều là hoạt động có chủ đích,
nhằm: 1- Phát triển quốc gia; 2- Khẳng định bản sắc quốc gia; 3- Giành vị thế
xứng đáng cho quốc gia trong hệ thống; 4- Tham gia hoàn thiện và phát triển hệ
thống...

Cần loại bỏ lối suy nghĩ giản đơn nhưng cũng khá phổ biến hiện nay ở Việt
Nam, rằng “hội nhập quốc tế” là hình thức phát triển cao của “hợp tác quốc tế”.
Vấn đề là ở chỗ “hợp tác quốc tế” và “hội nhập quốc tế” là thuộc các lớp khái
niệm khác nhau. Hợp tác quốc tế chỉ là một trong nhiều phương thức tương tác
giữa các nước với nhau; bên cạnh hợp tác quốc tế cịn có cạnh tranh, đấu tranh,
liên minh, liên kết, đối đầu, chiến tranh... Điểm cơ bản là ở chỗ, khác với khái
niệm “hội nhập quốc tế”, khái niệm “hợp tác quốc tế” không đề cập tới việc cấu
thành hệ thống chỉnh thể thế giới.
Để đánh giá thực trạng hội nhập quốc tế của một quốc gia, cần lấy phạm vi,
mức độ tham gia và vị thế của quốc gia đó trong các mặt đời sống của cộng đồng
quốc tế, trong các hệ thống thế giới làm tiêu chí:
Về chiều “rộng - hẹp”, có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập hẹp, khi
quốc gia hội nhập chỉ tham gia một vài lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc
tế; hai là, hội nhập tương đối rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia phần lớn các
lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập rộng, khi quốc gia hội
nhập tham gia tất cả các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế.
Về chiều “nông - sâu”, cũng có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập nông,
khi quốc gia hội nhập hầu như khơng có vị trí, vai trị trong cộng đồng quốc tế; hai
là, hội nhập tương đối sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trị nhất định trong
cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trị đáng
kể trong cộng đồng quốc tế. Nói theo ngơn ngữ của lý thuyết hệ thống, hội nhập
sâu là trường hợp quốc gia hội nhập với tư cách là một bộ phận cấu thành hệ
thống, có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành và phát triển “tính trồi”
(emergent) của cả hệ thống; cịn hội nhập nơng là trường hợp quốc gia hội nhập
hầu như khơng có ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển “tính trồi” của cả
hệ thống.
Với cách tiếp cận trên, có thể thấy, sau hai thập niên chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế từ Đại hội IX của Đảng đến nay, Việt Nam từng bước tham gia tất
cả các lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội quốc tế; trở thành thành viên có
trách nhiệm, có vị trí, vai trị và ảnh hưởng nhất định trong cộng đồng quốc tế, cả

về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... Điều đó có nghĩa là Việt Nam tích cực hội
nhập vào chỉnh thể thế giới. Do vậy, để phát triển đất nước trong bối cảnh mới của
9


“tồn cầu hóa” và giai đoạn mới của “hội nhập quốc tế”, cần quan tâm một số vấn
đề lớn sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng về “tồn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” để làm
cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ bước phát
triển mới của toàn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách mạng cơng nghiệp
4.0 bùng nổ; từ đó, tính tốn sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế.
Thứ hai, Việt Nam hiện tham gia các mặt đời sống chính trị - xã hội quốc
tế, tức là đã hội nhập rộng vào chỉnh thể thế giới, nhưng mới chỉ dừng ở mức độ
hội nhập tương đối sâu với vị trí, vai trị nhất định trong một số lĩnh vực. Tiến trình
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành bộ
phận cấu thành của chỉnh thể thế giới. Tới đây, cần xác định việc giành lấy vị trí,
vai trò ngày càng đáng kể trong nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế giới và nền
văn minh nhân loại là nội dung chủ yếu của tiến trình chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế của Việt Nam.
-Về kinh tế, cần phấn đấu giành chỗ đứng trong các chuỗi sản xuất và cung
ứng toàn cầu; ưu tiên thúc đẩy phát triển nhanh các ngành kinh tế số và công
nghiệp 4.0. Cơ hội đang mở ra cho Việt Nam ở thời hậu dịch bệnh COVID-19,
không được bỏ lỡ. Muốn thế, cần ưu tiên phát triển các mạng kết nối Việt Nam với
thế giới, cả “kết nối cứng” và “kết nối mềm”.
-Về chính trị, tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các
nước lớn, nhất là các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc,
trong ASEAN. Chủ động tham gia xử lý các vấn đề quốc tế và khu vực. Thể hiện
vai trò của Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng

đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới”.
-Về văn hóa - xã hội, cần đẩy mạnh quảng bá lịch sử, văn hóa, ngơn ngữ
Việt Nam với thế giới; bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản thiên nhiên, công
viên địa chất, công viên sinh thái, di sản văn hóa thế giới, cả vật thể lẫn phi vật
thể; khẳng định các giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, bản sắc
Việt Nam; tích cực tham gia sáng tạo các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa
học... có tầm ảnh hưởng quốc tế; tham gia xử lý các vấn đề nhân đạo trên trường
quốc tế; tham gia đấu tranh với các hiện tượng, hoạt động phi văn hóa, phản văn
hóa, chống lại nhân loại... Cần đặc biệt quan tâm việc nhân thêm và phát huy “sức
mạnh mềm” của đất nước, cạnh tranh về “sức mạnh mềm” trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các phương tiện truyền thông xã
hội ngày càng có vai trị lớn trong quảng bá văn hóa và cả trong “xâm lăng” văn
hóa, lan tỏa các giá trị xã hội và cả làm xói mịn các giá trị xã hội, phát huy “sức
mạnh mềm” và cả hạn chế “sức mạnh mềm” của các quốc gia, phát triển ổn định
xã hội và cả gây bất ổn xã hội... Phương tiện truyền thông xã hội trở thành một
10


hiện tượng văn hóa, một kênh thơng tin, một cơng cụ quản trị. Bên cạnh việc tăng
cường quản lý nhà nước đối với các phương tiện truyền thông xã hội, một số nước
chủ động sử dụng và phát huy vai trị kênh thơng tin, cơng cụ quản trị của các
phương tiện truyền thơng này. Việt Nam cần có cách tiếp cận mới đối với các
phương tiện truyền thông xã hội, không chỉ dừng ở chỗ coi chúng là đối tượng
quản lý.
Thứ ba, khi triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh những
vấn đề cần xử lý về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế. Đơn cử như, trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần ln điều chỉnh,
sửa đổi hệ thống pháp luật trong nước, tuy nhiên, phải có lộ trình, bước đi cẩn
trọng, để vừa củng cố độc lập, tự chủ, vừa hội nhập quốc tế thành cơng. Hay là vấn

đề đối phó với nguy cơ lệ thuộc vào thị trường bên ngoài, lệ thuộc kinh tế dẫn đến
lệ thuộc về chính trị...; hoặc vấn đề phải đối phó với sự xâm lăng văn hóa, xử lý
hiện tượng giao thoa văn hóa trong hội nhập quốc tế, những mâu thuẫn trong xây
dựng con người Việt Nam dưới tác động của trào lưu hình thành cơng dân toàn
cầu, sự xâm nhập của các giá trị xã hội không phù hợp đối với nước ta...
Thứ tư, Việt Nam cần chủ động và tích cực tham gia vào việc đổi mới, cải
tổ, cải cách hay thiết lập các định chế tồn cầu và khu vực; đóng góp nhiều hơn
vào xây dựng “luật chơi”, coi đây là lợi ích quan trọng của quốc gia.
Thứ năm, trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh ngày càng nhiều
những tranh chấp. Ngoài những cơ chế quốc tế phổ biến, thế giới cịn có những cơ
chế giải quyết tranh chấp quốc tế mang tính khu biệt, chun ngành mà ta chưa có
nhiều kinh nghiệm. Do đó, vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập là nâng cao
năng lực phịng, chống, xử lý, giải quyết những tranh chấp quốc tế, gắn với đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên sâu về các lĩnh vực này.
III KẾT LUẬN
Nhìn lại năm 2020, một năm lịch sử, đầy biến động và “sóng gió”, có thể
thấy rằng, kinh tế thế giới và liên kết kinh tế quốc tế diễn biến phức tạp, nhiều rủi
ro, đan xen giữa các mảng màu “sáng”, “tối”. Kinh tế thế giới suy thối nặng nề,
thương mại tồn cầu sụt giảm nghiêm trọng, hầu hết các trung tâm kinh tế tăng
trưởng âm. Đại dịch COVID-19 mặc dù đặt ra nhiều thách thức mới nhưng cũng
làm sâu sắc thêm những xu thế liên kết đã và đang diễn ra trong những năm trở lại
đây, đồng thời đẩy nhanh một số xu thế, chiều hướng mới. Liên kết kinh tế quốc tế
chịu ảnh hưởng mạnh từ điều chỉnh chính sách của các nước, cạnh tranh chiến
lược giữa các nước lớn và sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là xu thế
chuyển đổi số.
Trước hết, có thể khẳng định, liên kết kinh tế quốc tế tiếp tục được thúc đẩy
sâu rộng, trên các tầng nấc, phản ánh cục diện quốc tế trong quá trình điều chỉnh,
định hình.
11



Mặc dù gặp nhiều khó khăn, song các nước vẫn đẩy mạnh nỗ lực hợp tác và
liên kết kinh tế. Nổi bật là ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do
(FTA), thúc đẩy thương lượng, ký kết hiệp định về những vấn đề mới như kinh tế
số, thương mại điện tử…, xây dựng và thông qua những định hướng dài hạn như
Tầm nhìn ASEAN sau năm 2025, Tầm nhìn của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á –
Thái Bình Dương (APEC) đến năm 2040… Đây là những tiến triển tích cực, phản
ánh nhu cầu gia tăng hợp tác, thúc đẩy các “sợi dây liên kết” nhằm bảo đảm sự bền
vững của thị trường và các chuỗi cung ứng, ứng phó với các thách thức tồn cầu
và phục hồi kinh tế.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình kinh tế chính trị
2.Tạp chí cộng sản (18-2-2021)

12



×