Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

(TIỂU LUẬN) mâu THUẪN GIỮA xây DỰNG nền KINH tế độc lập, tự CHỦ với hội NHẬP KINH tế QUỐC tế của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.77 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾẾT HỌC
ĐỀ TÀI: Vâ n dng lý luân v mâu thuẫn để phân tch mâu
thuẫn gia xây dng nn kinh t độc lâp,
 t chủ với hội nhâp
kinh t quốc t của Việt Nam.

Họ và tên SV:
Lớp tín chỉ:
Mã SV:
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU

....................................................................................
HÀ NỘI, NĂM 2021
-


MỤC LỤC
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG CỦA TRIẾT HỌC VỀ MÂU THUẪN..........................1
1.1. Các khái niệm............................................................................................................ 1
1.2. Phân loại mâu thuẫn.................................................................................................. 1
1.3. Nội dung của quy luật mâu thuẫn.............................................................................. 3
1.4. Tính chất của quy luận mâu thuẫn.............................................................................3
1.5. Ý nghĩa phương pháp luận........................................................................................3
CHƯƠNG II. MÂU THUẪN GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ
VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM..................................................4
2.1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam..............................................................................4
2.1.1. Khái quát quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước......................................4
2.1.2. Những kết quả đạt được trong quá trình đổi mới kinh tế.....................................4


2.2. Mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam.................................................................................................................... 7
2.2.1. Khái niệm nền kinh tế độc lập, tự chủ.................................................................7
2.2.2. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế.....................................................................7
2.2.3. Về mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế tại Việt Nam.....................................................................................................8


PHẦN MỞ ĐẦU
Ph.Ăngghen đã từng khẳng định: “mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan
ở trong bản thân các sự vật và các q trình và có thể bộc lộ ra dưới một hình thức hữu
hình”… “trong sinh vật học cũng như trong lịch sử xã hội loài người, quy luật ấy đều
được xác nhận”. Thật vậy, mâu thuẫn có từ khi sự vật, hiện tượng xuất hiện và chính nó là
động lực cho sự phát triển, là nguồn gốc của sự vận động bên trong sự vật, hiện tượng.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay cũng
không ngoại lệ. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới, mặc dù có những thuận lợi ở
sự phù hợp với bối cảnh lịch sử của nước ta hiện nay và được tạo điều kiện phát triển bởi
các chính sách, đường lối chỉ đạo của Đảng - nhà nước. Song, vẫn cịn khơng ít khó khăn
do vấp phải những mâu thuẫn vốn có, tiềm ẩn trong cơ chế thị trường, những mâu thuẫn
giữa cơ chế thị trường và mục tiêu xây dựng con người chủ nghĩa xã hội, hội nhập kinh tế
quốc tế… Để hiểu rõ hơn vấn đề này, em lựa chọn nghiên cứu đề tài:“Vâ n dng lý luâ n
v mâu thuẫn để phân tch mâu thuẫn gia xây dng nn kinh t độc lâ p, t chủ với
hội nhâp kinh t quốc t của Việt Nam.”
Mặc dù đã cố gắng tìm tịi với tinh thần trách nhiệm, song do mới tiếp xúc với triết
học, kiến thức còn nhiều hạn chế nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong thầy giáo mơn góp ý bổ sung để em có thể hồn thiện thêm kiến thức, hiểu biết để
rút kinh nghiệm cho những bài làm tiếp theo.
Em xin chân thành cảm ơn !



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG CỦA TRIẾT HỌC VỀ MÂU THUẪN
1.1. Các khái niệm
- Mặt đối lập: là phạm trù triết học chỉ những mặt có đặc điểm, thuộc tính,
tính quy định có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau tồn tại khách quan
trong sự vật.
- Mâu thuẫn: là sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau của hai mặt đối lập.
- Thống nhất của các mặt đối lập: Thứ nhất, các mặt đối lập nương tựa
nhau, làm điều kiện, tiền đề tồn tại cho nhau. Thứ hai, giữa hai mặt đối lập có
những yếu tố đồng nhất, tương đồng nhau. Thứ ba, giữa hai mặt đối lập có
trạng thái cân bằng, tác động ngang nhau. Có thể nói, rhống nhất của các mặt
đối lập là tương đối.
- Đấu tranh của các mặt đối lập: Là sự tác động lẫn nhau, bài trừ, phủ định
lẫn nhau của các mặt đối lập và là tuyệt đối, vì nó diễn ra thường xuyên, liên
tục, trong tất cả quá trình vận động, phát triển của sự vật; ngay trong sự thống
nhất của các mặt đối lập cũng hàm chứa những nhân tố phá vỡ sự thống nhất
đó. Đấu tranh của các mặt đối lập còn là nguồn gốc, động lực của sự vận động,
phát triển sự vật bởi lẽ, khi các mặt đối lập thống nhất với nhau thì sự vật cịn là
nó. Nhưng khi mâu thuẫn từ khác biệt trở nên gay gắt cần giải quyết thì khi ấy
sự thống nhất cũ của sự vật mất đi, xuất hiện sự thống nhất mới, chính là sự vật
mới ra đời thay thế sự vật cũ.
- Quy luật mâu thuẫn: là một trong những quy luật cơ bản trong phép biện
chứng duy vật và biện chứng duy vật lịch sử khẳng định về: mọi sự vật hay
hiện tượng ở trong tự nhiên đều có sự tồn tại và mâu thuẫn bên trong. Quy luật
mâu thuẫn còn được gọi là quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, là “hạt nhân" của phép biện chứng, chỉ ra nguồn gốc, động lực cơ bản của
sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy.
1.2. Phân loại mâu thuẫn
* Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật: Mâu thuẫn bên trong và Mâu thuẫn bên ngoài.


1


- Mâu thuẫn bên trong là sự qua lại giữa các mặt đối lập của cùng một
sự vật. Chẳng hạn như trong phạm vi nước ta, mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh
tế quốc dân; mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong chế độ tư
bản chủ nghĩa; mâu thuẫn giữa đồng hoá và dị hoá trong cơ thể động vật là mâu
thuẫn bên trong.
- Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự
vật đó với các sự vật khác. Chẳng hạn, mâu thuẫn về kinh tế giữa nước ta với
các nước khác trong ASEAN; mâu thuẫn giữa động vật và thực vật với môi
trường; mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau là mâu thuẫn bên
ngoài.
* Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật: Mâu thuẫn cơ bản và
Mâu thuẫn không cơ bản.
- Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định
sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, tồn tại trong suốt quá trình tồn tại
của sự vật.
- Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương tiện
nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó
của sự vật.
* Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển của sự vật trong
một giai đoạn phát triển nhất định: Mâu thuẫn chủ yếu và Mâu thuẫn không chủ yếu.
- Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu của một giai đoạn
phát triển nhất định của sự vật và chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn
đó. Chẳng hạn như ở nước ta 1940-1943 mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam đối với thực dân Pháp là mâu thuẫn chủ yếu.
- Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai
đoạn phát triển của sự vật nhưng khơng đóng vai trị chi phối mà bị mâu thuẫn

chủ yếu chi phối. Chẳng hạn như ở nước ta 1940-1943 mâu thuẫn không chủ
yếu là địa chủ và nông dân.
* Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích: Mâu thuẫn đối kháng và Mâu thuẫn
khơng đối kháng.

2


- Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập
đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau.Chẳng hạn
như mâu thuẫn giữa nô lệ với chủ nô trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giữa vô sản
với tư sản, giữa dân tộc bị xâm lược với bọn đi xâm lược.
- Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng,
khuynh hướng xã hội thống nhất với nhau về lợi ích cơ bản, chỉ đối lập về lợi
ích khơng cơ bản, cục bộ, tạm thời. Chẳng hạn như mâu thuẫn giữa lao động trí
óc và lao động chân tay, giữa công nhân với thợ thủ công; giữa thành thị và
nông thôn,… ở nước ta hiện nay.

1.3. Nội dung của quy luật mâu thuẫn
- Mọi sự vật đều chứa đựng những mặt có khuynh hướng biến đổi ngược
chiều nhau gọi là những mặt đối lập.
- Mối liên hệ của hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn.
- Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau và chuyển hoá lẫn nhau làm
mâu thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái mới ra đời thay thế
cái cũ.
1.4. Tính chất của quy luận mâu thuẫn
- Tính khách quan: mâu thuẫn là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện
tượng, khơng phải đem từ bên ngồi vào. Chẳng hạn như trong con người bất
kỳ đều chứa đựng những yếu tố của các mặt đối lập giữa nhân từ và độc ác,
thông minh và ngu dốt, dũng cảm và hèn nhát, trung thực và giả dối, ...

- Tính phổ biến: mâu thuẫn tồn tại trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và
tư duy. Chẳng hạn như Mâu thuẫn cơ học: mâu thuẫn giữa lực và phản lực
trong sự tương tác giữa các vật thể; Mâu thuẫn vật lý: mâu thuẫn giữa lực đẩy
và lực hút giữa các hạt, các phân tử, các vật thể; Mâu thuẫn sinh học: mâu
thuẫn giữa đồng hoá và dị hoá.
1.5. Ý nghĩa phương pháp luận
- Cần phải thấy được động lực phát triển của sự vật khơng phải ở ngồi
sự vật mà là những mâu thuẫn trong bản thân sự vật.
3


- Mâu thuẫn là khách quan, phổ biến nên nhận thức mâu thuẫn là cần
thiết và phải khách quan. Không nên sợ mâu thuẫn, không né tránh mâu thuẫn.
- Trong hoạt động thực tiễn phải biết xác định trạng thái chín muồi của mâu
thuẫn để giải quyết kịp thời.
- Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi, cho nên
khơng được giải quyết mâu thuẫn nóng vội khi chưa có điều kiện chín muồi,
nhưng cũng khơng được để việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra tự phát. Nếu điều
kiện chưa chín muồi có thể thơng qua hoạt động thực tiễn để thúc đẩy điều kiện
nhanh đến.

CHƯƠNG II. MÂU THUẪN GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, TỰ
CHỦ VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam
2.1.1. Khái quát quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước
Trong quá trình phát triển của mình, nền kinh tế nước ta đã gặp vơ vàn
khó khăn: chịu sự tàn phá khắc nghiệt của các cuộc chiến tranh, sự chủ quan
duy ý chí của đội ngũ lãnh đạo các cấp trong q trình khơi phục và phát triển
kinh tế. Vì vậy trong một thời gian dài nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng
phát triển trì trệ và lạc hậu. Sớm nhận thức được thực trạng đó, kể từ Đại hội VI

của Đảng đến nay chúng ta đã có những thay đổi mới trong định hướng nhận
thức đúng đắn quá trình đổi mới đưa nền kinh tế phát triển trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Mặc dù
trước mắt cịn nhiều khó khăn, song nhờ sự nỗ lực toàn diện của toàn Đảng,
toàn dân, nền kinh tế nước nhà thốt khỏi tình trạng suy thối, bước vào thời kỳ
phát triển liên tục và toàn diện với trình độ cao, hồ nhập với trào lưu phát triển
của khu vực và thế giới.

4


2.1.2. Những kết quả đạt được trong quá trình đổi mới kinh tế
Nhìn lại 35 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, tồn diện. Quy
mơ, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín như ngày nay.
Trước hết, quy mơ nền kinh tế của Việt Nam đã tăng nhanh. Trong suốt
35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như
trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân
hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình qn đã tăng gấp
đơi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai
đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh
hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam
vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Môi trường
đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu
tư cho phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực
hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm
2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy

cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngồi ra, tại Việt Nam
đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh
tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung
nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chun mơn
hóa cây trồng, vật ni gắn với chế biến cơng nghiệp... Nhìn chung, các ngành,
lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ. Qua 35 năm, từ chỗ
thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn
trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như cà phê,
gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các
mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn.
Tiếp theo, phát triển gắn kết hài hịa với phát triển văn hóa - xã hội.
Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn
5


kết hài hịa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước
bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang
thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều
tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã
đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đơi với tích cực xóa đói
giảm nghèo. Cơng tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu
ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22%
năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và cịn dưới 3% năm 2020. Quy mơ
giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào
tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục
phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực. Vị thế các trường
đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á. Lần đầu
tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học

tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên
quốc tế trong những năm gần đây. Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được
củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế
hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… Việt Nam là một
trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn,
bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép
chi, tim, gan, thận...; kiểm sốt được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có
Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất
là vắcxin phịng Covid-19... Bên cạnh đó, cơng tác bảo đảm an sinh xã hội luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính
sách an sinh xã hội ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật
chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số. Ngoài ra, các phong trào “Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,”
“Uống nước nhớ nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các
doanh nghiệp và toàn thể nhân dân thực hiện và hưởng ứng tham gia trong
6


những năm qua cũng đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp
đáng kể an sinh xã hội cho nhân dân, nhất là người nghèo, vùng khó khăn.
Ngoài ra, hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế Việt Nam ngày càng được
nâng cao. 35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế
sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức. Việt Nam đã thiết lập được
nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế; tích cực xây dựng Cộng đồng
ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết
WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh
tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Từ khi gia
nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song phương và
đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham gia có

độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm
gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác
kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất
thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đơng Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các
FTA sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát
triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản
phẩm... Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao
trong các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc...

2.2. Mâu thuẫn giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam
2.2.1. Khái niệm nền kinh tế độc lập, tự chủ
Độc lập, tự chủ là năng lực của quốc gia trong giữ vững chủ quyền và sự tự
quyết về đối nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia, không bị sự thống trị, lệ thuộc, chi
phối mang tính cưỡng bức, áp đặt từ bên ngồi. Quốc gia độc lập, tự chủ là quốc gia có
quyền quyết định việc lựa chọn con đường, mơ hình phát triển, chế độ chính trị, độc
7


lập, tự chủ cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại;
trong đó, độc lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản để giữ vững độc lập, tự
chủ về chính trị và tăng cường độc lập, tự chủ của quốc gia; khơng thể có độc lập, tự
chủ về chính trị trong khi lệ thuộc về kinh tế. Tuy nhiên, xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ không có nghĩa là khép kín, tách bạch với khu vực và thế giới mà được thực hiện
thông qua việc phát huy sức mạnh nội lực kết hợp với ngoại lực, phù hợp với yêu cầu
trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
2.2.2. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia, vùng

lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp
tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, tạo thành sức mạnh
tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. Về bản chất, hội
nhập kinh tế quốc tế là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm thực hiện
mục tiêu và lợi ích chung trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Trong
thời đại tồn cầu hóa và sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ,
hội nhập quốc tế là tất yếu, là nhu cầu tồn tại và phát triển của các nước.
Đối với Việt Nam, hội nhập kinh tế quốc tế là định hướng chiến lược lớn
nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Từ khi tham gia hội nhập, ta đã tạo lập, củng cố mơi trường hịa bình,
hợp tác, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi, “góp phần quan trọng
vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia,
giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ
vững an ninh chính trị và trật tự, an tồn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân,
củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”.
2.2.3. Về mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với hội nhập kinh
tế quốc tế tại Việt Nam
Trước năm 1986, Việt Nam theo chế độ quan liêu bao cấp, đóng cửa nền kinh tế,
khơng hoặc rất ít ngoại giao, vì lẽ này mà kinh tế của nước ta đã trì trệ, lạc hậu hàng
chục năm. Trong khi đó tồn cầu hóa ngày càng rõ nét, sự xuất hiện của các tổ chức thế
giới, với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế thị trường, các tập đoàn kinh tế
8


lớn, các hoạt động kinh tế đã vượt khỏi biên giớicác quốc gia; các hoạt động kinh tế,
thương mại, đầu tư kinh doanh của nhiều quốc gia, nhiều tập đoàn kinh tế lớn đã diễn ra
trên quy mơ tồn cầu, hình thành nên thị trường tồn cầu, các chuỗi sản xuất tồn cầu,
phân cơng lao động và hợp tác kinh tế trên quy mơ tồn cầu. Muốn đạt được những lợi
ích từ việc này địi hỏi phải mở cửa nền kinh tế. Vì thế, sau đại hội Đảng lần thứ VI,

Việt Nam đã chính thức mở cửa. Mẫu thuẫn ngày càng trở nên đa dạng, phong phú khi
Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế: mâu thuẫn giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc
tế, giữa xác định đối tượng và đối tác, giữa tự do hóa và bảo hộ, giữa ổn định và đổi
mới,... trong đó, mâu thuẫn giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là mâu thuẫn cơ
bản, quan trọng nhất.
Trước hết, độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế. Điều đó được thể hiện:
Một là, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cơ lập với thế giới bên
ngồi, đứng ngồi hội nhập quốc tế, mà thể hiện chủ quyền, quyền tự quyết, tự
lựa chọn, quyết định con đường, mơ hình phát triển của quốc gia, dân tộc. Tự
chủ là năng lực thực hiện chủ quyền, tức là thực hiện quyền tự quyết dân tộc
trên thực tế. Độc lập, tự chủ bao gồm độc lập, tự chủ về chính trị, kinh tế, văn
hóa, quốc phịng, an ninh, đối ngoại, v.v. Do đó, khơng có độc lập, tự chủ thì
khơng thể nói tới hội nhập quốc tế chứ chưa nói tới chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế.
Hai là, độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trị quyết định trong mối quan
hệ với hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong việc tự
quyết định lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối tác, lĩnh vực,…
trong hội nhập quốc tế. Đường lối độc lập, tự chủ của Đảng đã định hướng
đúng cho tiến trình hội nhập từ việc lựa chọn lĩnh vực ưu tiên, xác định lộ trình
hội nhập phù hợp. Ban đầu, chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, sau đó
đã từng bước hội nhập tồn diện vào khu vực và quốc tế; quan hệ đối ngoại của
nước ta được mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu,… góp phần tạo ra thế và
lực mới của đất nước. Quan điểm và chính sách kiên trì độc lập, tự chủ của
Đảng ln được cụ thể hóa, bổ sung và phát triển theo sự chuyển biến của tình
hình trong nước và quốc tế. Điều đó đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc
9


tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, phục vụ thiết thực, hiệu quả cho sự nghiệp

bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Ba là, có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong phân tích, xử lý
thơng tin; lựa chọn, đề xuất các giải pháp thiết thực, đồng bộ, hữu hiệu trước sự
thay đổi mau lẹ, hạn chế tác động tiêu cực, phát huy tác động tích cực của tình
hình thế giới và khu vực trong quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Bốn là, độc lập, tự chủ là cơ sở để tận dụng nhiều cơ hội lớn; hạn chế tối
đa thách thức do q trình tồn cầu hóa gây ra, nhất là đối với những nước vừa,
nhỏ, đang phát triển như Việt Nam.
Năm là, độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện để nước ta chủ động phát huy
lợi thế so sánh trong quá trình hội nhập quốc tế nhằm từng bước phát triển.
Chúng ta chỉ có thể xuất khẩu được những mặt hàng có lợi thế, như: các sản
phẩm nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, may mặc, giày da,… khi hội nhập
đầy đủ và sâu rộng vào kinh tế quốc tế. Nhưng nếu không độc lập, tự chủ, thì
lợi thế so sánh trong hội nhập sẽ bị các nước lớn lái theo ý họ. Có độc lập, tự
chủ thì mới lơi cuốn, kêu gọi các đối tác đến làm ăn tại nước ta, v.v.
Thứ hai, hội nhập quốc tế góp phần tăng cường khả năng giữ vững độc
lập, tự chủ của quốc gia, dân tộc. Điều đó được thể hiện:
Một là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội, tiền đề cho chúng ta giữ
vững độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phịng,
an ninh, v.v. Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều
hành, quản lý của Nhà nước, hội nhập quốc tế đã trở thành một trong các nguồn
lực quan trọng để chúng ta củng cố độc lập, tự chủ. Chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế vừa là giải pháp, vừa là động lực để giữ vững độc lập, tự chủ.
Hai là, hội nhập quốc tế tạo ra những cơ hội thuận lợi để huy động
nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Thực tiễn đã
minh chứng, chính hội nhập quốc tế cho chúng ta những điều kiện để tận dụng
được lợi thế của các nguồn lực bên ngoài, như: vốn, kỹ thuật, công nghệ, quản
lý, v.v.
Ba là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế giúp chúng ta thực hiện hiệu
quả cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Quá trình

10


tồn cầu hóa đang làm thay đổi phân cơng lao động trên từng khu vực và toàn
thế giới. Chúng ta có thể tận dụng sự tái phân cơng lao động này để phát huy
mặt mạnh và lợi thế so sánh cho phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, rút ngắn q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, hiện nay, đang nổi lên nhiều vấn đề an ninh đáng lo ngại, như:
chủ nghĩa khủng bố, xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc, chủ nghĩa ly khai,
nguy cơ bất ổn chính trị,… đe dọa trực tiếp đến sự ổn định và phát triển của
từng quốc gia, khu vực và cả thế giới. Điều này địi hỏi phải có sự phối hợp
chặt chẽ, nhịp nhàng cùng một cơ chế thống nhất, hiệu quả trên cơ sở hợp tác
giữa các nước, khu vực cũng như toàn cầu. Muốn vậy, các nước phải cùng nhau
hợp tác. Cho nên, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, mơi
trường hịa bình, ổn định để chúng ta phát triển đất nước, trên cơ sở đó góp
phần giữ vững độc lập, tự chủ.
Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta hội nhập
đầy đủ, sâu rộng hơn vào các thể chế kinh tế thế giới, khu vực, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ.
Hiểu được mối quan hệ đó, trong báo cáo chính trị Đại hội XIII của
Đảng (2021) đã đưa ra định hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan
trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, trong đó “tiếp tục thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, khơng ngừng nâng cao vị thế, uy
tín quốc tế của Việt Nam”. Đảng ta đã xác định quá trình hội nhập quốc tế là
quá trình hợp tác, đấu tranh, cạnh tranh với nhiều cơ hội và thách thức hơn, vì
vậy chúng ta cần hết sức cảnh giác, khôn ngoan và linh hoạt trong việc ứng phó
với tính hai mặt của hội nhập khi có vấn đề nảy sinh. Tùy theo mục tiêu, vấn
đề, vụ việc và thời gian cụ thể, cần kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu bảo đảm an

ninh, quốc phòng với quá trình hội nhập quốc tế để củng cố chủ quyền, an ninh
của quốc gia, vấn đề bảo vệ bản sắc và văn hóa dân tộc, hịa nhập chứ khơng
hịa tan. Kể như vấn đề văn hóa, đây ln là một chủ đề được quan tâm rất
nhiều. Dù vô tình hay khơng cố ý nhưng bằng cách nào đó chúng ta đã và đang
11


truyền bá văn hóa của nước khác vào nước mình và làm mất thuần phong mỹ
tục của dân tộc nên chúng ta phải cân đối, thận trọng khi du nhập những văn
hóa, làn sóng mới trong q trình hội nhập toàn cầu hiện nay.
Phương châm chủ yếu của hội nhập quốc tế là bảo đảm nguyên tắc cùng
có lợi trong quan hệ song phương và đa phương. Theo nguyên tắc này, một mặt
khơng làm tổn hại đến lợi ích cần thiết và hợp lý mà mình được hưởng, mặt
khác phải chấp nhận chia lợi ích hợp lý cho đối tác theo mức độ đóng góp của
các bên. Trong hợp tác và hội nhập quốc tế phải tuân thủ nguyên tắc vừa hợp
tác vừa đấu tranh, kiên quyết, linh hoạt thực hiện mục tiêu, bảo vệ lợi ích hợp
pháp của Nhà nước. Đồng thời phải luôn đề cao cảnh giác, tránh những âm
mưu, thủ đoạn khuất tất lợi dụng hợp tác quốc tế để can thiệp, gây sức ép chính
trị. Các mối đe dọa từ bên ngồi và bên trong ln tương tác lẫn nhau, nhiều
trường hợp chuyển đổi lẫn nhau một cách rất phức tạp và nhạy cảm. Ln ln
có những thế lực thù địch trong và ngoài nước cấu kết, chờ đợi cơ hội để bôi
nhọ nhà nước ta nên Đảng cần phải có những chủ trương khả khi, hợp lí để giải
quyết tận gốc vấn đề này. Nền tảng độc lập dân tộc trên cả hai phương diện
quyền tối cao trong việc tự định đoạt các vấn đề trong nước và quyền được
bình đẳng trong quan hệ quốc tế, cũng như quyền tựquyết định các vấn đề đối
ngoại của quốc gia dân tộc.
Có thể nói mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với
hội nhập kinh tế quốc tế là mối quan hệ khách quan, nảy sinh và ngày càng sâu
đậm trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước, mở cửa, hội nhập với thế giới.
Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, nếu không xử lý tốt,

có thể dẫn đến những hạn chế, kìm hãm nhau trong bảo đảm lợi ích tối cao của
quốc gia, dân tộc.

12


KẾT LUẬN
Nhìn chung, mâu thuẫn là nhân tố khơng thể thiếu, là nguồn gốc, động lực của
sự phát triển. Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập càng ngày càng gay gắt khiến các mặt đối
lập chuyển hóa, sự vật cũ mất đi sự vật mới xuất hiện, và xuất hiện ở một trình độ cao
hơn sự vật cũ, mâu thuẫn cũng chính là động lực cho sự phát triển. Quá trình tồn cầu
hóa và hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan tất yếu, tuy nhiên, cần chủ động hội
nhập, “hịa nhập nhưng khơng hịa tan”, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và trên hết, là bảo vệ nguyên vẹn chủ quyền lãnh
thổ quốc gia. Bản thân mỗi chúng ta - những sinh viên của trường Đại học Kinh Tế
Quốc Dân cần nỗ lực học tập, trau dồi kiến thức để đưa đất nước Việt Nam ngày một
phát triển và giàu mạnh.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những ngun lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin (dành cho sinh
viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh) – NXB Chính trị Quốc gia - Sự Thật.
2.
3. Số liệu tham khảo từ các nguồn khác như báo điện tử Thanh Niên, Dân trí
/>
14




×