Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

(TIỂU LUẬN) môn đại CƯƠNG NHÀ nước và PHÁP LUẬT đề tài PHÂN TÍCH KHÁI NIỆM, đặc điểm của NHÀ nước PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.83 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

MÔN: ĐẠI CƯƠNG NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XHCN VIỆT NAM.

Người Thực Hiện: Nguyễn Quốc Khánh

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

MÔN: ĐẠI CƯƠNG NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XHCN VIỆT NAM
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Hùng
Họ và tên : Nguyễn Quốc Khánh
Ngày sinh: 24/08/2001
Mã Sinh Viên: 20032739
Lớp: Quản lý thông tin CLC
Mã lớp: THL1057 9 TT23

2


DANH MỤC VIẾT TẮT


CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
NNPQ: Nhà nước Pháp Quyền
XHCNVN: Xã hội chủ nghĩa Việt Nam

3


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
Mở đầu
Chương I Nhà nước pháp quyền
I Khái quát về nhà nước pháp quyền
1. Lịch sử hình thành
2. Khái niệm
3. Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
II Tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền.
Chương II Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
I. Bản chất của nhà nước CHXHCN Việt Nam
II. Quan niệm về nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
III. Đặc điểm nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
Lời kết

4


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan bài tiểu luận này là do bản thân thực hiện cùng sự hỗ trợ, tham
khảo từ các tài liệu, giáo trình liên quan đến đề tài nghiên cứu và khơng có sự sao
chép y nguyên các tài liệu đó
Người cam kết

Nguyễn Quốc Khánh

5


Lời mở đầu
1. Lí do chọn đề tài nghiên cứu
Lý do chọn đề tài nghiên cứu về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hiểu
được tầm quan trọng của nhà nước pháp quyền qua đó hiểu rõ được tầm quan trọng
và sự phát triển lâu dài trong lịch sử xuyên suốt lịch sử hình thành và phát triển Xã
hội chủ nghĩa. Qua đó thể hiện tư duy và nhận thức, lý tưởng vươn tới một xã hội
tốt đẹp trong đó hạt nhân là mỗi quan hệ tốt đẹp giữa Nhà nước, pháp luật và con
người.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hiểu thêm về nhà nước pháp quyền
- Thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng nhà nươc pháp quyền XHCN Việt
Nam
3. Phạm vi nghiên cứu
- Các vấn đề lý thuyết của nhà nước pháp quyền như khái niệm, đặc điểm;
- Các vấn đề lý thuyết của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam như khái niệm,
đặc điểm;
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lenin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp nghiên cứu cụ
thể bao gồm phân tích quy nạp, tổng hợp
6. Kết cấu bố cục của đề tài nghiên cứu.
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài
nghiên cứu bao gồm có:

Chương I: Tìm hiểu khái qt về Nhà nước pháp quyền.
Chương II: Tìm hiểu khái quát về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
6


Chương III: Phân tích sâu vào các đặc điểm của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam.

Chương I: Nhà nước pháp quyền
I. Khái quát về nhà nước pháp quyền.
1. Lịch sử hình thành nhà nước pháp quyền
Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã được hình thành từ thời cổ đại. Bước sang thời
kỳ phục hưng, tư tưởng về nhà nước pháp quyền được tiếp tục phát triển một cách
rõ rệt hơn, hoàn thiện hơn. Trong thời kỳ này, tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật
đối với đời sống của nhà nước và xã hội luôn gắn liền với tư tưởng dân chủ khẳng
định chủ quyền của nhân dân, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của nhà cầm
quyền và bảo vệ con người được đảm bảo. các quyền. .. Tư duy pháp quyền trong
thời kỳ này một mặt khẳng định vai trò của pháp luật, nhưng mặt khác đề cao bản
chất của pháp luật và yêu cầu pháp luật phải dân chủ, tiến bộ và phản ánh đúng ý
chí, nguyện vọng. của nhân dân, pháp luật phải phù hợp với quyền tự nhiên của
nhân dân. Từ cuối thế kỷ 19, tư tưởng nhà nước pháp quyền dần trở thành một mẫu
hình nhà nước vơ cùng lý tưởng, làm xu hướng của rất nhiều nhà nước trên thế
giới, một hình thức xây dựng nhà nước đương đại. Vì thế kiểu nhà nước pháp
quyền được nghiên cứu và tìm hiểu rộng rãi trên rất nhiều quốc gia trong đó có
Việt Nam nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước theo xu hướng trở thành nhà
nước pháp quyền.
2. Khái niệm về nhà nước pháp quyền
Nhiều quan niệm về nhà nước pháp quyền có thể được xác định trong nghiên cứu
của các học giả ở các nước trên thế giới, ví dụ: “Nhà nước pháp quyền là nhà
nước gắn chặt với pháp luật và được các nhà nước pháp quyền hợp thức hóa. "Nhà

nước pháp quyền là cả nước có trách nhiệm quản lý tư pháp, tuân theo pháp luật và
đặc biệt quan tâm đến việc tôn trọng quyền con người và các nguyên tắc của
quyền đó."
Từ những thuật ngữ trên và từ cách thức thể hiện của nhà nước pháp quyền trong
thực tiễn, có thể nhận định rằng, nhà nước pháp quyền trước hết phải là một nhà
nước theo đúng nghĩa, một tổ chức đặc biệt của quyền cai trị. Tuy nhiên, theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhà nước pháp quyền không phải là kiểu nhà
nước tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội; nhà nước pháp quyền là nhà nước
có hình thức tổ chức và chức năng hoàn toàn khác với nhà nước chuyên chế,
chuyên quyền một. và các nhà nước cầm quyền Nhà nước pháp quyền được tổ
chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, tức là hệ thống pháp luật, dân chủ
7


phản ánh công lý, phù hợp với các quyền tự nhiên của con người.Nhà nước pháp
quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ quyền phổ biến, có cơ chế phân bổ
và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền
tự do cá nhân. Nhà nước pháp quyền là công cụ phục vụ xã hội nhằm phục vụ con
người, mang lại lợi ích cho cơng dân, bảo vệ quyền tự do cá nhân và công bằng xã
hội.
Nhà nước pháp quyền là mơ hình nhà nước là mơ hình nhà nước đề cao và coi
trọng pháp luật, được thành lập, tổ chức hoạt động và quản lý mọi vấn đề liên quan
đến kinh tế - xã hội của một quốc gia bằng pháp luật. Nhà nước pháp quyền là một
hình tượng chính trị - pháp lý phức tạp được hiểu và nhận thức ở nhiều mặt khác
nhau.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước phục tùng pháp luật mà chủ thể phục tùng là cơ
quan nhà nước và công chức nhà nước.
3. Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
Thứ nhất, nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
một hệ thống pháp luật phù hợp và khả thi.

Có thể nói, pháp luật là yếu tố cần thiết và không thể thiếu bên cạnh pháp
quyền, nhưng khơng phải hệ thống pháp luật nào cũng có đủ điều kiện để thực hiện
quyền Nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền phải là hệ thống pháp luật tiến bộ, dân chủ, minh
bạch, phù hợp với điều kiện hiện có của đất nước như trình độ phát triển kinh tế xã hội, đạo đức, phong tục tập quán, truyền thống lịch sử, văn hóa, tâm lý dân tộc. .
đặc điểm, phù hợp với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại. Theo đó,
pháp luật có đủ điều kiện để được thực thi nghiêm minh trên thực tế. Hệ thống nhà
nước pháp quyền phải thể hiện ý chí của nhân dân, thừa nhận rộng rãi các quyền
con người, quyền dân chủ cơ bản của công dân, đồng thời thể hiện sự tác động, hỗ
trợ lẫn nhau giữa nhà nước với các cá nhân, tổ chức xã hội. cũng như giữa các cá
nhân, tổ chức trong xã hội đối với nhau.
Luật pháp quyền phải có hiệu lực chung cho tất cả mọi người và phải ổn
định để giúp các chủ thể dự đoán kết quả của hành vi của mình cũng như phản
ứng của nhà nước hoặc các chủ thể khác đối với hành vi đó. Theo quy định của
pháp luật, không những công dân phải chịu trách nhiệm trước nhà nước mà nhà
nước cũng phải chịu trách nhiệm trước công dân.
Thứ hai, quyền lực nhà nước phải thể hiện qua lợi ích của nhân dân. Trong
các chế độ nhà nước, người dân là đối tượng luôn bị cai trị, áp bức và chưa bao giờ
được coi là chủ của một nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền, toàn bộ quyền lực
đều thuộc về người dân. Nhân dân có quyền quyết định cuối cùng và cuối cùng đối
8


với mọi vấn đề quan trọng của quốc gia, nhà nước phải nghiêm chỉnh tôn trọng và
phục tùng quyết định của nhân dân. Đồng thời, nhà nước phải phục vụ lợi ích hợp
pháp của nhân dân, mọi chính sách của nhà nước đều phải xuất phát từ nhu cầu, lợi
ích của nhân dân và nhằm đáp ứng nguyện vọng chính đáng của họ. Vì vậy nhà
nước pháp quyền là một nhà nước dân chủ, theo lý tưởng nhà nước là của dân, do
dân và vì dân. Nhân dân có quyền quyết định cuối cùng và cuối cùng mọi vấn đề
quan trọng của quốc gia, nhà nước phải nghiêm túc tôn trọng và phục tùng quyết

định của nhân dân. Đồng thời, nhà nước phải phục vụ lợi ích hợp pháp của nhân
dân, mọi chính sách của nhà nước đều phải xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của nhân
dân, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của họ. Vì vậy, nhà nước khơng cịn là bộ
máy cai trị nữa, áp bức nữa mà thay mặt người dân thực hiện quyền lực. Qua đó
cho ta thấy trong bộ máy nhà nước pháp quyền người dân mới là chủ thể tối cao.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền là nhà nước có quan hệ mật thiết với xã hội
dân sự. Trước hết thì xã hội dân sự được biết là một lĩnh vực độc lập của đời sống
xã hội, trong đó có sự tồn tại và phát triển các nhóm xã hội, tổ chức của con người
mà khơng mang tính chất chính trị. Qua đó xã hội dân sự có thể hỗ trợ người dân
quyền thành lập các tổ chức riêng nhằm đáp ứng nguyện vọng của cá nhân lẫn thức
đẩy phát triển chung của xã hội. Qua đó việc người dân được bình đẳng, dân chủ
trở thành hiện thực, trở thành điều tất yếu của pháp luật. Ngày nay cuộc sống, xã
hội càng tiến bộ thì sự tự do, bình đẳng của con người càng tăng lên. Xu hướng xã
hội hóa cơng việc nhà nước đang phát triển mạnh mẽ, công việc của nhà nước từng
bước được chuyển giao cho xã hội, từ đó nâng cao tính tự chủ của xã hội, tạo điều
kiện hình thành và phát triển xã hội dân sự, phát huy dân chủ ở mức cao.
II. Tư tưởng triết học Mác-Lenin về nhà nước pháp quyền
Trong triết học, kinh tế chính trị và Chủ nghĩa xã hội, các triết học gia của chủ
nghĩa Mác - Lenin tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện khơng ít lần cụ
thể là nhà nước pháp quyền của giai cấp công nông, phản ánh đầy đủ nội dung và
đặc điểm của nhà nước pháp quyền.
Những tư tưởng cốt lõi về nhà nước pháp quyền trong học thuyết Mác - Lenin bao
gồm:
Một là, bản chất dân chủ trong nhà nước. Theo chủ nghĩa Mác thì dân chủ là “
Nhân dân nắm quyền”. Có thể hiểu nhân dân là chủ thể của quyền lực. Mác từng
ghi: “ Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con người
khách thể hóa. Cũng giống như tơn giáo khơng tạo ra con người mà con người tạo
ra tôn giáo, ở đây cũng vậy. Không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà là
nhân dân tạo ra nhà nước.”
Hai là, Chủ thể của quyền lực nhà nước phải thuộc về đại đa số nhân dân. C.Mác

nhấn mạnh sự khác biệt cơ bản giữa dân chủ vô sản và dân chủ tư sản, phê phán
9


hạn chế của chế độ dân chủ trong nhà nước tư sản. Mặc dù dân chủ tư sản tiến bộ
hơn nhiều so với các nền dân chủ trước đây nhưng nền dân chủ tư sản vẫn là nền
dân chủ của một số ít tư sản bóc lột nhân dân là giai cấp cơng nhân và giai cấp
cơng nhân. Đó là dân chủ rởm, chỉ có dân chủ xã hội chủ nghĩa mới thực sự là dân
chủ cho đa số, cho nhân dân thực sự thì quyền lực nhà nước phải thuộc về số đông
này.
Ba là, bản chất của giai cấp cơng nhân và tính phổ biến của nhân dân dưới nhà
nước pháp quyền. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác luôn khẳng định bản chất
giai cấp của nhà nước và pháp luật, đồng thời thấy được tính xã hội của nhà nước
và pháp luật. Vì vậy, trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải
xây dựng nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân và người lao động. Có
nghĩa là, nhà nước phải được xây dựng để phục vụ đại đa số, toàn dân, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân.
Bốn là, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phải đặt ra cơ chế kiểm soát
hiệu quả quyền lực nhà nước, sự kiểm soát này phải xuất phát từ nhân dân, chủ thể
tối cao của quyền lực nhà nước.
Chương II : Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
I. Bản chất của nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Bản chất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam được khẳng định qua cương lĩnh “
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa hai giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo”. Qua khẳng định trên ta có thể thấy được các mặt bản chất của Nhà
nước CHXHCN Việt Nam.
Đầu tiên là, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước. Nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa dưới pháp quyền mang tính chất giai cấp công nhân. Hoạt động

của Nhà nước thể hiện quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, hiện thực hóa ý
chí, nguyện vọng, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả nước. Bản chất dân tộc của Nhà nước ta thể hiện tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nên tảng là liên minh giai cấp công nhân với nông dân và
đội ngũ tri thức. Nhân dân được coi là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước,
thực hiện quyền nhà nước với nhiều hình thức khác nhau. Cơ bản nhất là hình thức
bầu cử.
Thứ hai, Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước mà tất cả dân tộc, cụ thể là
54 dân tộc cùng tạo nên khôi đại đồn kết. Tính dân tộc trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước thể hiện ở việc kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc tốt đẹp của
dân tộc và dân tộc Việt Nam, thực hiện chính sách dân tộc phù hợp, bảo vệ lợi ích
mọi mặt của dân tộc Việt Nam, mọi dân tộc cộng đồng người Việt Nam coi đại
10


đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, động lực to lớn để xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập, tự chủ trong quan hệ đối ngoại; kết hợp nhuần
nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai
cấp công nhân. Đây vừa là truyền thống vừa là bản chất của Nhà nước CHXHCN
Việt Nam.
Thứ ba, Nhà nước CHXHCN Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
quyền và tự do của cơng dân, duy trì quan hệ giữa nhà nước với công dân, giữa nhà
nước và xã hội. Với quan niệm bảo vệ chủ quyền của nhân dân trong Hiến pháp,
coi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thì quyền con người,
quyền cơ bản và nghĩa vụ của công dân được đặt ở vị trí trang trọng nhất, là vị trí
đầu tiên trong Hiến pháp, sự thể hiện nhất quán Đường lối của Đảng và Nhà nước
ta trong việc ghi nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Cuối cùng, Nhà nước CHXHCN Việt Nam mang bản chất dân chủ rộng rãi. Dân
chủ hóa đời sống xã hội và hoạt động của nhà nước là nhu cầu cơ bản xuất phát từ

bản chất dân chủ của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Thực chất của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa là đưa người lao động tham gia bình đẳng hơn, đầy đủ hơn vào công
việc quản lý nhà nước và xã hội. Vì vậy, quá trình xây dựng nhà nước phải là q
trình dân chủ hóa tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. đồng thời phải cụ thể
hóa tư tưởng dân chủ trong quyền công dân, quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã
hội và văn hóa. Phát huy ngày càng nhiều quyền dân chủ của nhân dân là nguồn
sức mạnh vô hạn của Nhà nước.
II. Quan niệm về nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
Thuật ngữ về nhà nước pháp quyền thực chất không phải mới xuất hiện ở Việt
Nam mà quan điểm về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện qua tư tưởng của chủ
tịch Hồ Chí Minh về việc xây dựng một nhà nước dân chủ. Trong thời gian lãnh
đạo của mình tư tưởng của Người về nhà nước pháp quyền để thể hiện qua bốn nội
dung sau đây. Trước hết, nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ. Trong đó việc
đề cao nhân dân, dân nhân là chủ thể mọi quyền lực được đặt lên hàng đầu. Thứ
hai, nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước hợp hiến pháp. Bác đã đề cập đến
hai nhiệm vụ chính là tổ chức Tổng tuyển cử và Xây dựng hiến pháp để xác lập
nền tảng dân chủ và nhà nước hợp hiến pháp ở Việt Nam. Thứ ba, hệ thống pháp
luật ở Việt Nam là hệ thống pháp luật dân chủ tiên tiến dựa trên các giá trị nhân
văn. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói pháp luật của chúng ta là pháp luật dân chủ vì nó
bảo vệ các quyền tự do rộng rãi của nhân dân lao động. Vì vậy, nhà nước phải
thực sự thuộc về nhân dân và chăm lo đến lợi ích của nhân dân. Và cuối cùng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ bảo vệ và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, bảo vệ và phát triển quyền con người. Quyền con người của
11


Bác Hồ bao gồm quyền tự do cá nhân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đọc lập
dân tộc và giải phóng nhân dân.
Trên cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá do Đại hội VII của Đảng
thông qua đã nhận thức rõ ràng về nhà nước pháp quyền khá tồn diện và cụ thể.

Qua đó khẳng định tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân quản lý
mọi mặt đời sống xã hội thông qua pháp luật. Nhà nước được xây dựng trên cơ sở
củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh của giai cấp
công nhân với nông dân và tầng lớp tri thức, từ đó nhấn mạnh những nguyên tắc và
đặc điểm của đất nước. , là một bước tiến có ý nghĩa trên con đường nhận thức
pháp quyền ở nước ta, từ đó khởi động cải cách hành chính nhà nước, năm thái độ
cơ bản phải quán triệt trong việc xây dựng và phát huy nhà nước. Một là, xây
dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giữa giai
cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất với sự phân công và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Ba là , quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức
và điều hành đất nước. Bốn là, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, quản lý xã
hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức xã hội chủ
nghĩa. Và cuối cùng là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
III. Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đầu tiên, nhà nước pháp quyền xã hộ chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Đặc điểm này được thể
hiện trong Hiến pháp đầu tiên của chính thể dân chủ cộng hòa của nước ta là Hiến
pháp năm 1946: “ Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân” và tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và
2013. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân
và đội ngũ trí thức” . Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội
và Hội đồng nhân dân, là những cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân
dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đồng thời, nhân dân
có quyền giám sát và yêu cầu các cơ quan đại biểu, cơ quan do nhân dân thành lập

trả lời những vấn đề nhân dân nêu ra trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, vì lợi
ích của nhân dân.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo vệ và coi Hiến pháp và
pháp luật chiếm vị trí tối cao trong việc điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Trong nhà
12


nước này, ý chí của nhân dân được Hiến pháp xác lập một cách tập trung, đầy đủ
và cao cả nhất. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao
nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của nhà nước. các cơ quan; là điều kiện quan trọng nhất để bảo đảm ổn định xã
hội và an ninh con người. Khi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quan hệ
giữa nhà nước và công dân đã thay đổi thì cơng dân có quyền tự do, dân chủ trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ phục vụ của
mình đối với trạng thái. Pháp luật bảo đảm thực hiện trách nhiệm tương hỗ giữa
Nhà nước và công dân: quyền của công dân là nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước
và nghĩa vụ của công dân là quyền của Nhà nước. Thực hiện đúng cơ chế kiểm
soát phổ biến: sở hữu của đại diện là cơ quan dân cử và đoàn thể; chiếm đoạt trực
tiếp thơng qua các hình thức dân cư tự quản, thông qua việc xây dựng và thực hiện
các thỏa thuận, quy ước ở cơ sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách,
bảo đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và tổ chức thi hành quyết
định.
Thứ ba, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà
nước là thống nhất nhưng có sự phân cơng rạch rịi và có sự phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quy chế này hướng dẫn việc thiết kế

mô hình tổ chức của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp quyền.
Quyền lực nhà nước là thống nhất vì tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân, thể hiện ý chí của nhân dân, xuất phát từ nhân dân. Nhà nước ban hành luật;
tổ chức và quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Hoạt động của nhà nước có phạm vi rộng. Có sự phân cơng rõ ràng
và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của bộ máy nhà nước trong việc thực
hiện ba quyền, bảo đảm tính độc lập, chủ động và trách nhiệm cao của từng bộ
phận trong việc thực hiện quyền, bảo đảm thống nhất, khách quan, hiệu quả. tránh
lạm quyền, chuyên quyền của từng cơ quan nhà nước.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo đảm
quyền con người, quyền cơng dân, tăng cường trách nhiệm giải trình trước pháp
luật giữa nhà nước và công dân, thực hành dân chủ và tăng cường kỷ cương. Điều
3 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm
chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người,
quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
tồn diện”. Nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, đối nội và
13


đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với thực
tế khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Pháp luật của nhà nước ta phản ánh đường
lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành
phương thức quan trọng đối với bản chất và chức năng của Nhà nước, thước đo
những giá trị phổ biến của xã hội ta là công bằng, dân chủ và bình đẳng, những
phẩm chất cần thiết cho sự phát triển của Nhà nước tiến bộ và bền vững. phát triển
của nhà nước và xã hội. Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ
thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội và làm cơ sở cho sự tồn
tại của một trật tự kỷ cương pháp luật. Pháp luật thể chế hóa nhu cầu quản lý xã

hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu, tổ chức xã hội và thiết chế nhà nước. Vì
vậy, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành
mạnh nhất trong xã hội. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và
mọi công dân phải nghiêm chỉnh tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo. Chính quyền nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân và sự
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Điều 4
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “ Đảng Cộng sản Việt Nam-Đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.” ; ” Đảng Cộng
sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân,chịu sự giám sát
của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của
mình.” ;” Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” . Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cầm
quyền. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là một tất yếu lịch sử. Đảng cai trị nhà nước và xã hội. Đảng tiến hành chính
trị, quyết định đường lối chính trị của nhà nước, bảo đảm cho nhà nước ta thực sự
là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, nhằm thực hiện. cơng cuộc đổi mới đất nước theo định hướng chủ
nghĩa xã hội. Đảng tôn trọng quyền tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, năng
động, sáng tạo và chân thành lắng nghe sự đóng góp của Mặt trận và các đồn thể.
Đảng và Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trị kiểm soát và phản biện xã hội.
Nhà nước triển khai và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng
bằng hoạt động quản lý nhà nước, tổ chức và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân
tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, an ninh. , quốc phòng, đối ngoại …
Kêt luận

14


Xây dựng nhà nước pháp quyền tuy đang là xu thế nhưng vẫn phải có một tầm
nhìn, kế hoạch chiến lược lâu dài. Không thể làm một cách chủ quan được. Nhà
nước pháp quyền chỉ có thể đi đúng hướng trong một Quốc gia khi Quốc gia đó có
tính tự chủ của người dân và khơng có sự đàn áp, cai trị nào của các bộ máy nhà
nước.
Xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là xây dựng nhà nước nhân dân thực
sự dưới sự lãnh đạo của Đảng, với lý tưởng dân chủ, nhân văn và công lý, tất cả vì
hạnh phúc của nhân dân. Nhà nước có tổ chức. Được tổ chức khoa học và hoạt
động phù hợp với thực tiễn của đất nước, tổ chức và hoạt động của nhà nước phải
có cơ sở pháp lý và chịu sự điều chỉnh của Luật ; nhà nước quản lý xã hội thơng
qua hệ thống pháp luật vì nhân dân; có cơ chế an tồn, hiệu quả để phịng, chống
lạm quyền, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân. Chỉ như có nhà nước duy trì và phát huy được quyền làm chủ của nhân dân,
đảm bảo quyền tự do, độc lập.

15



×