Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận triết cdvls llsx quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.71 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là qui luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng
đất nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất lớn tơí nền kinh tế. Sự tổng hoà
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên một nền
kinh tế có lực lượng sản xuất phát triển kéo theo một quan hệ sản xuất phát
triển.
Nói cách khác Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển một nền kinh
tế.
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phương thức
sản xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Dưới sự vận động
của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay
đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính chất cách
mạng. Trong sự thay đổi đó, các q trình kinh tế, xã hội được chuyển sang
một chất mới. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người ta có thể phân
biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh tế khác nhau. Mà phương
thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ
nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. đo cũng chính là quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Do vậy, quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn thế nữa
nó con là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội của lịch sử nhân
loại bởi vì nó là quy luật của bản thân phương thức sản xuất. Sự tác động của
quy luật này dẫn tới sự thay đổi của phương thức sản xuất và kéo theo sự thay
đơỉ cua tồn bộ đời sống xã hội.
Với những lý do trên, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa hết sức to lớn. Tuy

1




nhiên, việc nắm bắt được quy luật này không phải là đơn giản, nhận biết được
một quan hệ sản xuất có phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất hay khơng hồn tồn phải phụ thuộc vào thực tiễn của sản xuất
và kinh nghiệm bản thân. Với những chính sách, đường lối và chủ trương
đúng đắn, nắm bắt tốt quy luật của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế, đặc biệt là
kinh nhiều thành phần đã phát triển mạnh mẽ, đưa Việt Nam và Lào từ một
nước nông nghiệp lạc hậu phát triển thành nước sản xuất nơng nghiệp tiên
tiến; góp phần đẩy nhanh nền kinh tế nước nhà đi sang một hướng khác, sánh
vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.

2


NỘI DUNG
I. LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT, QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ
SẢN XUẤT

1. Lực lượng sản xuất
Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất và kỹ
thuật nhất định. Tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản
xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là trong quá
trình thực hiện sản xuất xã hội con người trinh phục tự nhiên bằng các sức
mạnh hiện thực của mình suức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái
quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất biểu
hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất nói lên
năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo nên của cải cho xã
hội đảm bảo sự phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và kỹ năng lao động và tư

liệu sản xuất. Trong quá trình sản xuất cơng cụ lao động tác động vào đối
tượng lao động để tạo ra của cải vật chất thì tư liệu lao động được hồn thiện
nhằm đạt được năng suất lao động cao. Còn trong tư liệu lao động tức là tất cả
các yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động
thì cơng cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất. Bởi vậy khi
công cụ lao động đã đạt đến trình độ tin học hố được tự động hố thì vai trị
của nó lại càng quan trọng. Trong mọi thời đại công cụ sản xuất luôn là yếu tố
đơng nhất của lực lượng sản xuất. Chính sự chuyển đổi cải tiến và hồn thiện
khơng ngừng của nó đã gây lên những biến đổi sâu sắc trong tồn bộ tư liệu
sản xuất. Trình độ phát triển cơng cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục
tự nhiên của con người. Tuy nhiên Lênin viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu
của tồn thể nhân loại là cơng nhân, người lao động” có thể cói yếu tố quan
trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con người. Trong thời đại ngày

3


nay khoa học đã phát triển tới mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều
biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống nó đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất đem lại thay đổi về chất cho lực lượng sản xuất.
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất
nó hồn tồn có thể coi là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
2. Quan hệ sản xuất:
Để tiến hành q trình sản xuất nhất định con người phải có mối quan
hệ với nhau. Tổng thể những mối quan hệ này gọi là quan hệ sản xuất. Nói
cách khác quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất.
Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình con người dù muốn hay
khơng cũng buộc phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao đổi
hoạt động sản xuất cũng như kết quả lao động những quan hệ sản xuất này

mang tính tất yếu. Như vậy quan hệ sản xuất do con người tạo ra song nó
được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của bất
kỳ ai. Việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có
tính quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động xã hội.
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc
vào ý muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật
chất của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng
sản xuất và là cơ sở của đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
- Quan hệ sở hữu về tư liêu sản xuất tức là quan hệ giữa người với tư
liệu sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi
quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất – Biểu hiện thành chế độ sở hữu.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có
vai trị quyết định đối với các quan hệ xã hội khác.
Trong các hình thái kinh tế xã hội mà lồi người đã từng trải qua, lịch
sử đã được chứng kiến sự tồn tại của 2 loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu

4


sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu cơng cộng là loại hình
mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của cộng đồng. Do tư
liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng đồng nên các quan hệ xã hội trong
sản xuất và trong đời sống xã hội nói chung trở thành quan hệ hợp tác giúp đỡ
nhau. Ngược lại trong các chế độ tư hữu do tư liệu sản xuất chỉ nằm trong tay
một số người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về một số
ít người các quan hệ xã hội do vậy bất bình đẳng.
- Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức là quan hệ
giưuã người với người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải. Trong
hệ thống các quan hệ sản xuất các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là

các quan hệ có khả năng quyết định một cách quy mô tốc độ hiệu quả và xu
hướng mỗi nền sản xuất cụ thể đi ngược lại các quan hệ quản lý và tổ chức có
thể làm biến dạng quan hệ sở hữu ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế xã hội.
Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm tức là quan hệ chặt trẽ với nhau
cùng mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu sản xuất để làm
cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng
nâng cao phúc lợi cho người lao động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức
quản lý,trong hệ thống quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản
phẩm lao động cũng là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận
động của toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và
nhịp điệu của sản xuất nhưng ngược lại nó có khả năng kìm hãm sản xuất kìm
hãn sự phát triển của xã hội
Nêu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính
chất sở hữu quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong
mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng
giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác, ít nhiều cải biến chúng để
chẳng những chung không đối lập mà phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát
triển của kinh tế xã hội mới.
II. TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

5


1. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
a. Tính chất
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tu liệu sản xuất và lao
động. Khi nền sản xuất được thực hiện với những công cụ ở trình độ phổ
thơng, lực lượng sản xuất chủ yếu mang tính chất cá nhân. Khi trình độ sản
xuất đạt tới trình độ cơ khí hố, lực lượng sản xuất đòi hỏi phải được vận
động cho sự hợp tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chun mơn hố. Tính chất tự

cấp tự túc cô lập của nền sản xuất nhỏ lúc đó phải được thay thế bởi tính chất
xã hội hố.
b. Trình độ của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự phát
triển của phương thức sản xuất: Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng
giai đoạn của lịch sử lồi người thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của lồi
người trong giai đoạn đó. Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên
khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện
quá trình cải biến tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của
mình. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở: Trình độ cơng cụ lao động,
trình độ quản lý xã hội trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
kinh nghiệm và kỹ năng của con người và trình độ phân cơng lao động.
Trên thực tế tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất khơng tách
biệt nhau
III. QUY LUẬT VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu
hiên mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Chính sự thống nhất và tác động
giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã hình thành nên quy luật về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trìng độ phát triển của lực
lượng sản xuất.

6


Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển.
Ngược lại quan hệ sản xuất thường có tính ổn định trong một thời gian dài.
Sự biến đổi của lực lượng sản xuất có nhiều nguyên nhân:

- Bản thân người lao động thì những kỹ năng và kinh nghiệm khơng
ngừng tích luỹ và tăng lên.
- Bản thân tri thức khoa học trí thức cơng nghệ trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp.
- Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để có thể sản
xuất được.
Chính vì vậy mà sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một giới hạn
nhất định sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có. Việc xố
bỏ quan hệ sản xuất cũ thay nó bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa
là diệt vong cả một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của một
phương thức sản xuất mới. Sự xố bỏ các hình thức quan hệ sản xuất hiện có
khơng phải là tự thân mà phải thơng qua một phương thức chính trị và pháp
quyền mà phương thức pháp quyền là trực tiếp. Những quan hệ sản xuất cũ và
hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm bảo duy trì khai thác, phát
triển của lực lượng sản xuất giờ đây trở thành những hình thức kìm hãm sự
phát triển đó như Mác đã nhận định “Từ một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan
hệ sản xuất hiện có trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn tiếp
tục phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất
những quan hệ ấy trở thàng những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi
đó bắt đầu thời đại một cuộc Cách mạng xã hội” Đó cũng chính là nội dung
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có
một quan hệ sản xuất hợp lý đồng bộ phù hợp với nó. quan hệ sản xuất lạc
hậu hơn hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển

7



của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải giải quyết nhưng còn lực lượng sản xuất
người không phát hiện được cũng như mâu thuẫn được phát hiện mà không
giải quyết được hoặc giải quyết một cách sai lầm thì tác dụng kìm hãm của
quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta khơng nên tuyệt đối hố vai trị của
lực lượng sản xuất mà bỏ qua sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với
nó khi giữa chúng có sự phù hợp. Đơi khi sự phát triển chệch hướng của quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là do yếu tố chủ quan, chứ khơng phải do tính chất đặc thù của
quy luật đó.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực
lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song nó cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản
xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất , nó là yếu tố quyết định
là tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu bước đi và tạo
quy mơ thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt động, cũng như đảm bảo lợi ích
chính đáng cho người lao động phát huy tính tích cực sáng tạo cho con người
là nhân tố quan trọng và quyết định trong lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực
lượng sản xuất vì nó quyết định mục đích sản xuất, quy định hệ thống quản lý
sản xuất và quản lý xã hội quy định phân phối và phần của cải ít hay nhiều
mà người lao động được hưởng. Do đó nó tạo ra những điều kiện hoặc kích
thích hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ sản xuất áp dụng thành tựu khoa
học và sản xuất hợp tác phân công lao động.
IV. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM

8



Sự nghiệp đã đổi mới của Việt Nam được bắt đầu ngay từ giữa những
năm 80 và được triển khai mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực từ đó đến nay.
Quá trình đổi mới đã đưa lại nhiều thành tựu to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt
ra nhiều lý luận quan trọng mà việc áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phụ
thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào việc giải
quyết chúng một cách đúng đắn sẽ là cơ sở hết sức cần thiết cho việc tiếp tục
hoạch định và đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới, cũng như sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ngôi nhà xã hội chủ nghĩa mà chúng ta muốn xây dựng có thể có nhiều
đặc trưng, nhưng có hai đặc trưng chất lượng quan trọng nhất mà dứt khoát
chúng ta phải đặt đến, đó là vừa giàu có hơn, vừa cơng bằng hơn so với trong
chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội thì nền
kinh tế sản xuất của nước ta lại chậm phát triển, đời sống nhân dân cịn gặp
nhiều khó khăn. Sự khó khăn này có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ
một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là: không nắm vững quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Để làm rõ hơn về nền kinh tế Viêt Nam trong thời kỳ quá độ, chúng ta
sẽ đi phân tích nền sản xuất nông nghiệp trong thời gian này. Tại đại hội lần
thứ VI, ĐCS Việt Nam đã nhận định:"…Lực lượng sản xuất bị kìm hãm
khơng chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản
xuất phát triển khơng đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ của
lực lượng sản xuất. Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội phải kể đến yếu
tố chủ quan của việc đảng lãnh đạo, Nhà nước phát động tính tích cực xã hội
của quần chúng bằng những lợi ích vật chất và tinh thần yêu nước vốn có của
họ. Tuy nhiên, theo nhận định trên của đảng, ta thấy rằng, không thể cho rằng
những yếu tố tiên tiến của quan hệ sản xuất mãi là tiền đề sự thúc đẩy phù
hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chúng chỉ tác động tích cực


9


trong một thời gian ngắn và cuối cùng, vẫn phải tuân thủ quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thực trạng nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam trong thời gian
chuẩn bị vào những năm đầu bước vào q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố nơng nghiệp, nông thôn đã làm rõ nhận định trên của đảng. Tại thời điểm
đó nền sản xuất nơng nghiệp khơng ổn định, nhiều nơi, nhiều vùng nơng thơn
bị đói kém. Khi đó có người cho rằng, nguyên nhân sản xuất chậm phát triển
là do giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mâu thuẫn. Mâu thuẫn
đó thể hiện giữa một bên là yêu cầu phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất
theo hướng tất yếu chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn với một bên là chế
độ sở hữu phân tán. Theo một số nhà nhận định, đây là mâu thuẫn vốn có và
mâu thuẫn là phổ biến trong các nền sản xuất. Khi nền sản xuất xã hội phát
triển đến trình độ cao thì tự bản thân chế độ tư hữu nhỏ không thể nào tồn tại
như cũ, nó buộc phải thay đổi. Nhìn lại q trình chỉ đạo sản xuất nơng
nghiệp ở nước ta trước đây Đảng ta đã rút ra được sự cần thiết của quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Tại Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nan nhận định: "Cần phải nhân
rộng mơ hình hợp tác, liên kết Công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp
nhà nước và kinh tế hộ nơng thơn, phát triển các loại hình trang trại quy mô
phù hợp trên từng địa bàn". Trong sản xuất nông nghiệp, sự đa dạng của các
thành phần kinh tế đã tạo ra cơ chế quản lý với nhiều hình thức sản xuất nơng
nghiệp mới phù hợp với những quan điểm đổi mới không ngừng của Đảng và
nhờ đó, tạo ra sự biến đổi mới trong các Hợp tác xã nông nghiệp trên cả ba
mặt của quan hệ sản xuất. Điều đó càng khẳng định ý nghĩa to lớn của quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất.
Nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào để khẳng định rằng quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trước hết sự phù hợp

10


đó thể hiện ở chỗ, hiệu quả sản xuất ngày càng cao (năm sau cao hơn năm
trước), mặc dù đất bị thiên tai nhiều bề và ít nhiều chịu ảnh hưởng của tình
trạng suy thối kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Điều quan trọng nữa,
khi nói quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất khơng thể khơng
nhìn vào đời sống của nơng dân, thực tế cho thấy qua 25 năm thực hiện đường
lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
đề ra, đời sống của nông dân từng bước được nâng cao, điều kiện nhà ở và
học tập của con em nông dân cũng khá hơn trước.
Như vậy thực trạng nền kinh tế có phát triển khơng? Lực lượng sản
xuất có phát triển khơng đó chính là tiêu thức để đánh giá sự phù hợp của
quan hệ sản xuất vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Một quy
luật có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế của mỗi
quốc gia.

11


KẾT LUẬN
Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên khơng
phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt tốt quy
chúng ta có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ thể. Quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất còn là quy luật phổ biến trong

tồn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển đi lên của lịch sử
loài người từ chế độ công xã nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ
phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự
tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại quan hệ sản
xuất lại thường có tính ổn định song sự ổn định đó chỉ là tạm thời và cũng cần
có sự thay đổi cho phù hợp. Nếu quan hệ sản xuất khơng có những sự thay đổi
cho phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
Như vậy, trong việc xác lập hoàn thiện, thay đổi quan hệ sản xuất cần
phải căn cứ vào thực trạng của các lực lượng sản xuất hiện có về mặt tính chất
và trình độ của chúng (đây là cơ sở lý luận trực tiếp của việc xác định cơ cấu

12


kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay của quá trình cải cách của các
doanh nghiệp nhà nước hiện nay).
Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải luôn luôn thấu suốt đặc điểm của quá
trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp
lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Trên mỗi bước đi phải đẩy mạnh xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp
tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức, quy mơ thích hợp để cho lực lượng
sản xuất phát triển.
Tại Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: " Cần phải" nhân
rộng mơ hình hợp tác, liên kết cơng nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà
nước và kinh tế hộ nông thơn, phát triển các loại hình trang trại với quy mơ
phù hợp trên từng địa bàn những hình thức kinh tế hộ nơng dân ngày càng

được mở rộng, các hình thái kinh tế hợp tác ở nông thôn, kinh tế trang trại,
mở mang nhanh công nghiệp chế biến nông sản theo nhiều trình độ quy mơ
cơng nghệ.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác-Lênin (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia).
2. Tạp trí triết học (2002).
3. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần IX.

14



×