BÀI THU HOẠCH
MƠN QUAN HỆ QUỐC TÉ
“Q TRÌNH TRIỂN KHAI ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI: THÀNH TỰU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA”
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cơng tác đối ngoại "phải ln ln
vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ ”. Thực hiện lời dạy của Người, trong hơn 35 năm
đổi mới vừa qua, kế thừa và phát huy truyền thống đối ngoại vẻ vang của dân tộc, nhất
là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đặt nền móng cho nền ngoại giao Thời
đại Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kế thừa và khơng ngừng bổ sung, phát triển, hồn thiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở vì hịa bình, hợp tác và phát triển, thực
thi chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế. Đến Đại hội lần thứ XIII của Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã
thống nhất rất cao về nhận thức và quyết tâm ”Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia- dân tộc trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình
đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy
và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Với chủ trương
đường lối và quyết sách đúng đắn của Đảng trong thời kỳ đổi mới, đất nước đã thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo ra tiền đề cần thiết cho giai đoạn phát triển mới
của đất nước.
Tham gia học tập môn Quan hệ quốc tế, chúng tôi đã được các thầy, cô giáo của
Viện truyền đạt nhiều kiến thức bổ ích về lý luận và thực tiễn về hoạt động đối ngoại
và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Trong phạm vi bài thu hoạch, tôi quan tâm và mong
muốn được làm sáng rõ chủ đề “Quá trình triển khai đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước Việt Nam thời kỳ đổi mới: Thành tựu và những vấn đề đặt ra ”
4
NỘI DUNG
I. VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới được hình thành qua một quá trình, khởi đầu
từ Đại hội VI của Đảng và tiếp tục được bổ sung, phát triển, hồn thiện ở các Đại hội
Đảng tiếp theo. Có thể chia quá trình này thành ba giai đoạn:
1. Giai đoạn từ Đại hội VI của Đảng (1986) đến năm 1995
Đây là giai đoạn hình thành đường lối đối ngoại đổi mới, đồng thời phá thế bị
bao vây cấm vận về kinh tế, bị cơ lập về chính trị, thể hiện qua các văn kiện sau:
Đại hội VI của Đảng khởi xướng cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, đồng
thời cũng mở đầu q trình hình thành chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. Đại hội
xác định nhiệm vụ hàng đầu là tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Để góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
này, Đảng ta, trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, đã nhấn mạnh sự
cần thiết phải đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đối ngoại thêm bạn, bớt
thù; phá thế bị bao vây, cấm vận; mở rộng quan hệ quốc tế, theo đó phương hướng đối
ngoại được xác định là:
-
Phát triển và củng cố quan hệ hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia, trên cơ
sở tôn trọng độc lập chủ quyền mỗi nước.
-
Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xơ là hịn đá tảng trong chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
-
sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc, tiến tới bình thường hóa quan hệ.
-
Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên ngun tắc cùng tồn tại hịa bình.
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI (1988) là bước ngoặt,
có tính đột phá về đổi mới tư duy đối ngoại, đánh dấu sự hình
thành bước đầu chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa.
Với nhận thức mới đúng đắn, toàn diện hơn về vấn đề an ninh,
bao gồm cả yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong, Đảng ta xác
định nhiệm vụ đối ngoại chuyển từ chỗ chú trọng nhân tố chính
trị - quân sự sang
ưu tiên cho nhân tố kinh tế, ưu tiên giữ vững hịa bình, độc lập dân tộc, có cách
tiếp cận tồn diện hơn về tình hình thế giới và khu vực. Để thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ này, Đảng ta triển khai chính sách đối ngoại “thêm bạn, bớt thù”, nhấn mạnh chủ
trương phát triển quan hệ với tất cả các nước có chế độ chính trị khác nhau trên
ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi,
khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau...
Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (1989) là sự phát triển tiếp theo của đổi mới tư
duy đối ngoại. Hội nghị đã nhận thức nhiều vấn đề đối ngoại cần phải giải quyết, trong
đó một lần nữa tái khẳng định đối ngoại phải chuyển từ chính trị-an ninh là chủ yếu
sang chính trị - kinh tế là chủ yếu; thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc; xác định lộ trình cải thiện quan hệ với các nước ASEAN; xác định lộ
trình rút quân khỏi Campuchia; tiếp cận lộ trình bình thường hóa quan hệ với Mỹ...
Đại hội VII của Đảng (1991) là bước phát triển mới trong việc hình thành chính
sách đối ngoại đổi mới. Đại hội xác định nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững hịa bình, mở
rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công Cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên tinh thần đó, Đại hội đề ra chủ trương mở rộng quan hệ
đối ngoại, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với tất cả các nước khơng phân biệt chế độ
chính trị khác nhau trên cơ sở các ngun tắc cùng tồn tại hịa bình. Cũng tại Đại hội
này, lần đầu tiên Đảng ta đưa ra phương châm chiến lược trong chính sách đối ngoại:
“Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình,
độc lập và phát triển”2, đồng thời khẳng định chính sách đối ngoại hịa bình, độc lập tự
chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Nhà nước Việt Nam.
Khẳng định mục tiêu của đối ngoại là giữ vững hịa bình, mở rộng
quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Hội
nghị Trung ương 3 khóa VII (1992) đã nêu ra 4 phương châm chỉ
đạo, xử lý các vấn đề quốc tế: (1) bảo đảm lợi ích
dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân; (2) giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; (3) nắm vững hai mặt hợp tác và đấu
tranh trong quan hệ quốc tế; (4) tham gia hợp tác với các nước trong khu vực, đồng
6
thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước, chú trọng quan hệ với các nước lớn, các
trung tâm kinh tế lớn. Bốn phương châm này được xem là cẩm nang trong xử lý các
vấn đề đối ngoại cho mọi cấp, mọi ngành và mọi địa phương.
2. Giai đoạn từ sau Đại hội VIII (1996) đến năm 2010 - giai đoạn mở rộng
quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế
Trước những biến đổi của tình hình thế giới và xuất phát từ nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam, các Đại hội VIII, IX và X của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển
đường lối đối ngoại đổi mới, cụ thể như sau:
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đối ngoại đổi mới.
Trên cơ sở thế và lực mới của nước ta, Đại hội lần đầu tiên nêu nhiệm vụ hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực theo hướng xây dựng nền kinh tế mở, đẩy nhanh quá trình
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đây là điểm khởi đầu quan trọng cho một chủ
trương đối ngoại lớn và xuyên suốt của Đảng là hội nhập kinh tế quốc tế (và đến nay là
hội nhập quốc tế). Đại hội VIII cũng đồng thời tuyên bố “Việt Nam muốn là bạn của
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển” 3.
Đại hội IX của Đảng (2001) bổ sung làm rõ thêm chính sách đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Tại Đại hội này, lần
đầu tiên Đảng ta đưa ra chủ trương chủ động hội nhập kình tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập,
tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Phát triển
7
quan điểm mở rộng quan hệ đối ngoại của Đại hội VII và VIII, Đại hội IX nêu rõ:
“Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”4.
Đại hội X của Đảng (2006) tiếp tục bổ sung đường lối đối ngoại thời kỳ đổi
mới với tuyên bố: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực...Đưa các quan hệ
quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định và bền vững” 5. Đại hội cũng bổ sung
quan điểm hội nhập quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế.
3. Giai đoạn từ sau Đại hội XI (2011) đến nay - giai đoạn đưa các quan
1 A -1- • > 1 • A ^
>
I
^•
1^
^
i ^ i >
1 •A
hệ đi vào chiêu sâu và hội nhập qc tế toàn diện
Tại Đại hội XI của Đảng, đường lối đối ngoại tiếp tục bổ sung, hoàn thiện. Tại
Đại hội này, lần đầu tiên Đảng xác định mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là “vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh” 6. Như vậy, lợi
ích quốc gia - dân tộc là tiêu chí hàng đầu để xác định hợp tác và đấu tranh, là đối tác
và đối tượng. Cũng tại Đại hội XI, trên cơ sở thế và lực mới của Việt Nam trên trường
quốc tế, Đảng đưa ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” 7. Như vậy, Đảng đã
chuyển nội dung trọng tâm của đối ngoại từ hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế
sang hội nhập quốc tế một cách toàn diện.
Đại hội XII của Đảng (2016), trên cơ sở kế thừa những nội dung đối ngoại của
các Đại hội trước đó, đã nhấn mạnh mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là phải bảo đảm
lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, xác định nhiệm vụ đối ngoại là phải nâng cao
hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, kiên quyết, kiên
trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
4Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2001, tr.l 19.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2006, tr.l 12.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứXI, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2011, tr.236.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Vẫn kiên Đại hội đạỉ bỉểu tồn quổc lần thứXI, Nxb.Chính tri quốc gia Sự thật,
H.2011, tr.236.
8
của Tổ quốc... Đại hội XII cũng nhận thấy tầm quan trọng của ngoại giao đa phương
trong quan hệ quốc tế hiện nay và nhấn mạnh nhiệm vụ đối ngoại là phải “tiếp tục đưa
các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác đối
ngoại đa phương, chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa
phương”8.
Đại hội XIII của Đảng (2021) tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế..., chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy
và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” 9.
Q trình hồn thiện phương châm đối ngoại, kể từ Đại hội VII, VIII với phương
châm “muốn là bạn”, Đại hội IX với phương châm “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy”, Đại hội X với phương châm “là bạn, là đối tác tin cậy”, đến Đại hội XI, XII,
XIII với phương châm “là bạn, là đối tác tin cậy”, “là thành viên có trách nhiệm” và
Đại hội XIII “là thành viên tích cực, có trách nhiệm”. Như vậy, có thể thấy rõ, chính
sách đối ngoại trong Văn kiện Đại hội XIII là kết tinh trí tuệ, thực tiễn, là sự kế thừa,
tiếp nối chính sách đối ngoại đúng đắn và ngày càng được hoàn thiện từ Đại hội VI
đến nay.
II. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI
MỚI
1. Thành tựu đạt được Việc thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng đã
góp phần rất quan trọng giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, thuận lợi cho
công cuộc đổi mới,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế
đất nước. Sau 35 năm thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã thu được
nhiều thành tựu hết sức quan trọng, thể hiện trên các vấn đề lớn như sau:
8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đạỉ biểu toàn quốc lần thứXII, Nxb.Chỉnh trị quốc gia Sự thật,
H.2016, tr.155.
9 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc ỉần thứXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2021, t.I, tr.161-162.
9
Một là, từ phá thế bị bao vây, cấm vận, nước ta đã tạo dựng và củng cố ngày
càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi
cho cơng cuộc đổi mới. Cho đến nay, Việt Nam đã mở rộng và nâng tầm quan hệ
ngoại giao với tất cả các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng và bạn
bè truyền thống, từ đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của quốc tế đối với
công cuộc đổi mới của nhân dân ta. Tính đến năm 2020, Việt Nam đã có quan hệ
ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong
đó 3 nước có "quan hệ đặc biệt," 17 nước "đối tác chiến lược" và 13 nước "đối tác
toàn diện". Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách
nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN,
APEC, ASEM, WTO v.v...
Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các
ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và
đi vào chiều sâu. Trong đó, Đảng ta đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia,
bao gồm khoảng 90 đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các đảng cầm quyền và tham
chính có vai trị quan trọng. Quốc hội có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140
quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Hoạt
động đối ngoại của Chính phủ trên các lĩnh vực chính trị, quốc phịng, an ninh, kinh
tế, văn hóa-xã hội được đẩy mạnh, góp phần tăng cường sự tin cậy chính trị và đan
xen lợi ích với các đối tác. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức hữu nghị của nhân dân
cũng đã triển khai đối ngoại thiết thực, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị với nhân
dân các nước, quảng bá sâu rộng cơng cuộc đổi mới, hình ảnh đất nước, con người
Việt Nam ra thế giới.
Hai là, đã tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi và huy động được các
nguồn lực từ bên ngồi để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh
tế-xã hội. Từ một nước có nền kinh tế kế hoạch tập trung, bị bao vây, cấm vận, đến
nay nước ta đã trở thành một nước có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa liên kết kinh tế sâu rộng; đã ký 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó
có 3 FTA thế hệ mới có tiêu chuẩn rất cao, và mạng lưới liên kết kinh tế sâu rộng với
1
0
hầu hết các nền kinh tế quan trọng trên thế giới. Nếu cách đây 30 năm, chúng ta mới
có quan hệ kinh tế - thương mại với gần 30 nước và vùng lãnh thổ thì đến nay đã có
quan hệ kinh tế-thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ; tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu đến nay đã đạt khoảng 600 tỉ USD, gấp khoảng 120 lần so với những năm đầu
của thời kỳ đổi mới. Chúng ta đã thu hút được hơn 400 tỷ đôla Mỹ vốn đầu tư trực tiếp
nước ngồi (FDI), trong đó đã giải ngân được khoảng 250 tỷ USD v.v...
Ba là, đối ngoại đóng vai trị tiên phong trong việc giữ vững mơi trường hịa
bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Các vấn đề biên giới với các nước liên
quan từng bước được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để bảo vệ chủ
quyền, giữ vững đường biên giới hịa bình, hữu nghị, hợp tác, thúc đẩy phát triển kinh
tế-xã hội, đồng thời góp phần vào việc củng cố hịa bình, ổn định trong khu vực. Đối
với những vấn đề phức tạp về biên giới lãnh thổ, chúng ta luôn giương cao ngọn cờ
hịa bình, hợp tác, tích cực trao đổi, đàm phán với các nước liên quan kiểm soát bất
đồng, tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hịa bình
trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Bốn là, vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày
càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững
hịa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới. Việt Nam đã tổ chức thành công
nhiều hội nghị quốc tế lớn và hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế quan trọng với tư
cách Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch luân phiên
ASEAN, chủ nhà Hội nghị cấp cao ASEM, Hội nghị thượng đỉnh APEC, Diễn đàn
Kinh tế thế giới về ASEAN.; đã cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia lực lượng
gìn giữ hịa bình của Liên hợp quốc ở châu Phi. Trong nhiều vấn đề quốc tế quan
trọng, tiếng nói, sáng kiến và cách thức giải quyết có lý, có tình trên tinh thần bình
đẳng, hịa hiếu và nhân văn của nước ta đã nhận được sự đồng tình và ủng hộ của cộng
đồng quốc tế, nhờ đó vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên
trường quốc tế.
11
Năm là, công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt nhiều kết quả quan trọng,
thể hiện rõ chủ trương đại đồn kết dân tộc cũng như tình cảm, trách nhiệm của Đảng,
Nhà nước trong việc chăm lo cho cộng đồng và phát huy mạnh mẽ nguồn lực của kiều
bào. Công tác bảo hộ công dân được triển khai đồng bộ và hiệu quả. 5 năm qua, chúng
ta đã triển khai công tác bảo hộ đối với trên 50.000 công dân, trên 600 vụ việc/1.000
tàu/với gần 10.000 ngư dân; tổ chức gần 800 chuyến bay đưa trên 200.000 công dân
về nước an toàn trong đại dịch Covid-19.
Sáu là, trong hai năm qua, giữa bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp
trên thế giới và trong nước, chúng ta đã triển khai công tác ngoại giao y tế và ngoại
giao vắc xin rất kịp thời và hiệu quả. Đến nay, Việt Nam đã nhận được trên 151 triệu
liều vắc xin và nhiều trang thiết bị y tế, góp phần quan trọng cho cơng tác phịng,
chống dịch đi đơi với phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam cũng đã viện
trợ vật tư y tế và tài chính cho trên 50 quốc gia và tổ chức quốc tế, thể hiện rõ vai trị
“thành viên có trách nhiệm” trong cộng đồng quốc tế.
Những cố gắng, kết quả và thành tích của đất nước nói trên đã góp phần rất quan
trọng vào thành tựu chung to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta sau 35 năm đổi
mới như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định, làm cho ”đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. ”
2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
thời gian qua cũng còn một số hạn chế như sau:
Một là, yếu kém trong công tác nghiên cứu cơ bản và dự báo chiến
lược. Công tác này trong những năm qua tuy có nhiều tiến bộ
nhưng vẫn chưa đáp ứng tốt u cầu, có lúc cịn thiếu tính chủ
động, chưa theo kịp diễn biến của tình hình, chưa lường hết
những tác động bất lợi, thiếu sự phối hợp điều hành thống nhất,
đồng bộ; “hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế có mặt, có
lúc chưa theo kịp
1
10
diễn biến của tình hình, chưa lường hết những
2 tác động bất lợi” .
Hai là, trong quan hệ với một số đối tác quan trọng, mức độ tin cậy vẫn chưa
cao, chưa đồng đều và chưa thật bền vững; chưa khai thác tốt và phát huy hiệu quả các
quan hệ lợi ích đan xen với các đối tác quan trọng.
Cho đến nay, Việt Nam đã mở rộng đáng kể quan hệ với các nước và vùng
lãnh thổ trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng chưa đưa mối quan hệ đó phát triển
chiều sâu, bền vững do chưa xây dựng các khn khổ quan hệ hoặc chưa cụ thể hóa
các thỏa thuận đã ký kết. Một số đối tác lớn của Việt Nam như Nga, Ân Độ, hợp tác
kinh tế còn khá nhiều hạn chế, chưa toàn diện. Việc bảo đảm quan hệ Việt - Trung phát
triển ổn định, lành mạnh cũng gặp khơng ít trở ngại từ vấn đề Biển Đông...
Ba là, những hạn chế trong công tác chỉ đạo, quản lý. Trong những năm qua,
hoạt động đối ngoại là khá sơi động, song khơng ít các hoạt động tính hiệu quả thấp,
thậm chí cịn gây lãng phí. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, sự quản lý công tác
đối ngoại trong nhiều trường hợp vẫn còn thiếu nhịp nhàng, ăn khớp...
3. Một số bài học kinh nghiệm Từ thực tiễn hoạt động đối ngoại hơn 35 năm qua
với những thành tựu và hạn chế, có thể rút ra một số bài học sau:
Thứ nhất, mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Đây
là vấn đề có tính ngun tắc. Đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia - dân tộc với mục tiêu
chiến lược là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ
xã hội chủ nghĩa trong sự kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ tạo dựng môi trường quốc tế
thuận lợi nhất cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Thứ hai, kết hợp hài hòa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dân tộc với
quốc tế. Trong sự kết hợp này, sức mạnh dân tộc giữ vai trò quyết định, được thể hiện
ở sức mạnh tổng hợp cả về vật chất lẫn tinh thần. Đó là sự phát triển kinh tế nhanh,
hiệu quả và bền vững; sức mạnh quốc phịng tồn dân ngày càng hiện đại đáp ứng
được yêu cầu của bảo vệ Tổ quốc; sự ổn định chính trị - xã hội vững chắc; bản sắc
văn hóa dân tộc được bảo vệ và phát huy; sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc
được củng cố và tăng cường.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thửXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, t.I, tr.88.
1
Thứ ba, giữ vững độc lập, tự chủ đi 3đôi với hội nhập quốc tế. Kinh nghiệm lịch
sử của cách mạng Việt Nam cho thấy rằng chỉ có thể thực hiện thắng lợi những mục
tiêu, nhiệm vụ của cách mạng khi Đảng và Nhà nước Việt Nam kiên định tinh thần
độc lập, tự chủ, tự mình quyết định cơng việc của mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế
giới ngày nay, khi hịa bình, hợp tác, phát triển trở thành xu thế lớn và trước tác động
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là cuộc Cách
mạng cơng nghiệp 4.0 và tồn cầu hóa, độc lập tự chủ khơng có nghĩa là đóng cửa với
bên ngoài, mà trái lại phải coi trọng và tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ của
bạn bè quốc tế, thực hiện chính sách ngoại giao rộng mở, thêm bạn bớt thù, không đi
với nước này chổng lại nước kia, không tham gia các liên minh gây đoi đầu, căng
thẳng.
Thứ tư, kiên định về nguyên tắc chiến lược nhưng mềm dẻo, cơ động, linh hoạt,
sáng tạo trong xử lý tình huống theo tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Thứ năm, triển khai hoạt động đối ngoại một cách tồn diện. Trong thế giới ngày
nay, q trình tồn cầu hóa tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó, hoạt
động đối ngoại sẽ diễn ra trên mọi lĩnh vực và địi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ giữa đối
ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân nhằm tạo ra sức mạnh tổng
hợp trên mặt trận đối ngoại dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thống nhất của Đảng và sự quản
lý tập trung của Nhà nước
III.
CÁC NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐƯỚNG LỐI ĐỐI
NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI
Trước thành tựu, cũng như khó khăn trong thực hiện đường lối ngoại, xuất phát
từ bối cảnh có nhiều thời cơ thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen như Đại hội
XIII đã xác định. ”Trong những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục
có nhiều thay đổi rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Hịa bình, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức.
Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng bị đe doạ bởi sự trỗi
dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến
tranh thương mại diễn ra gay gắt. Do tác động của đại dịch COVID-19, thế giới rơi
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thửXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, t.I, tr.88.
1
vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt.
4 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách
thức đối với mọi quốc gia. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển
nhằm thích ứng với tình hình mới. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục có vị
trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh
chấp chủ quyền trên Biển Đơng cịn diễn biến phức tạp...". Để góp phần thực hiện tốt
mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại, thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ,
giải pháp cụ thể như sau:
1. Nhiệm vụ đối ngoại
Thứ nhất, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ đối ngoại trước hết phải bảo vệ được lợi ích tối cao quốc gia
- dân tộc, bảo vệ Tổ quốc bao gồm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để giữ vững hịa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, vấn đề đầu tiên phải xây dựng nền quốc phịng chính quy, ngày
càng hiện đại. Tuy nhiên, trong điều kiện thế giới ngày nay, để bảo vệ đất nước theo
quan điểm chỉ đạo của Đảng là giữ nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước cịn chưa
nguy thì cịn cần phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sử dụng sức
mạnh trong nước và sức mạnh bên ngoài và do đó, đối ngoại có tầm rất quan trọng.
Thứ hai, đối ngoại có nhiệm vụ tạo lập và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước. Nhiệm vụ đối ngoại là
phải tạo lập được mơi trường hịa bình để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, phát triển
kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giữ vững mơi trường hịa
bình bao gồm hịa bình, ổn định trên tất cả lĩnh vực ở trong nước, là mơi trường hịa
bình ở khu vực, trước hết là khu vực Đông Nam Á, tiếp đến là khu vực Đông Á và
rộng hơn là khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chỉ trên cơ sở giữ vững mơi trường
hịa bình, ổn định, chúng ta mới có điều kiện mở rộng quan hệ họp tác quốc tế, tranh
thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Điều này càng quan trọng trong bối
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thửXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, t.I, tr.88.
1
cảnh thế giới ngày nay, khi tồn cầu hóa 5và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang
diễn ra mạnh mẽ và tác động sâu rộng.
Thứ ba, đối ngoại có nhiệm vụ nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường
quốc tế. Để nâng cao vị thế của đất nước, trong các văn kiện Đại hội, Đảng ta đã
khẳng định Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, chủ trương đối ngoại phải được thể hiện trong
thực tế. Do đó, hoạt động đối ngoại nhằm tăng cường quan hệ hịa bình, hữu nghị với
các nước, đẩy mạnh quan hệ hợp tác cùng có lợi với các đối tác trên các lĩnh vực khác
nhau, đồng thời làm tròn nghĩa vụ của nước thành viên và có đóng góp tích cực cho sự
phát triển của tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia. Đây chính là tiền đề quan trọng
để trên cơ sở đó, chúng ta có thể huy động được nguồn lực bên ngồi cùng với nguồn
lực bên trong phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Thứ tư, đối ngoại đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là cao nhất, song Việt Nam vẫn
luôn kiên trì chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân. Đảng và Nhà nước Việt Nam
luôn khẳng định nhiệm vụ của đối ngoại là góp phần vào cuộc đấu tranh vì mục tiêu
của thời đại là hịa bình, độc lập dần tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhiệm vụ đối
ngoại theo tinh thần của Đại hội XIII của Đảng nhằm đạt được ba lợi ích có quan hệ
mật thiết với nhau: An ninh - Phát triển - Vị thế, trong đó vấn đề phát triển đất nước là
nhiệm vụ quan trọng nhất. Phục vụ cho phát triển đất nước được coi là nhiệm vụ hàng
đầu của đối ngoại, vì chỉ có phát triển mới tạo nên nền tảng vật chất cho việc thực hiện
mục tiêu an ninh và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Tuy nhiên, khơng thể có sự
phát triển và phát huy được ảnh hưởng quốc tế nếu không giữ vững được an ninh, bảo
vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
2. Các giải pháp thực hiện Một là, tiếp tục thường xuyên theo dõi, nghiên cứu,
nắm chắc diễn biến tình hình để kịp thời có giải pháp thích hợp trong cơng tác
đối ngoại. Những diễn biến chính trị nhanh chóng, phức tạp trên thế giới thời
gian qua có rất nhiều vấn đề
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thửXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, t.I, tr.88.
1
vượt ra ngồi dự báo thơng thường. Nếu 6chúng ta khơng nắm bắt đúng tình hình thì
khơng theo kịp sự phát triển của thực tiễn. Vấn đề là chúng ta phải nhạy bén, dám
nghĩ, dám làm, có tinh thần chủ động tiến công, dám vượt ra khỏi khuôn khổ những tư
duy cũ, những lĩnh vực quen thuộc để có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt
tới tầm khu vực và quốc tế.
Hai là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi ích quốc gia-dân tộc; vừa hợp tác,
vừa đấu tranh, vận dụng đúng đắn quan điểm về "đối tượng," "đối tác"; tăng cường
hợp tác, tiếp tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, ngăn
ngừa xung đột, tránh đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc. Trong đó, mục tiêu bao trùm là giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thực hiện các nhiệm vụ chiến lược về phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời kiên
quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và các lợi ích chính đáng của ta phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong việc bảo đảm
mơi trường hịa bình thì một trong những yêu cầu then chốt là phải ln kiên trì, bình
tĩnh, sáng suốt, khơn khéo, xử lý đúng đắn các mối quan hệ đối ngoại, trong đó có vấn
đề chủ quyền, lãnh thổ.
Ba là, phát huy tối đa mọi yếu tố thuận lợi của đất nước để chủ động, tích cực
tham gia đóng góp, xây dựng, định hình các cơ chế đa phương, thực hiện Chỉ thị số 25
của Ban Bí thư về nâng tầm cơng tác đối ngoại đa phương, coi đây là một định hướng
chiến lược quan trọng, trong đó có việc xây dựng Chiến lược tổng thể về đối ngoại đến
năm 2030. Công việc trọng tâm của thời gian tới là triển khai và phát huy các kết quả
quan trọng của các diễn đàn đa phương mà Việt Nam đã tham gia, đặc biệt là phối hợp
với các đối tác thúc đẩy việc thực hiện các sáng kiến đã được thông qua của Việt Nam.
Cần thể hiện vai trị nịng cốt trong q trình xây dựng Cộng đồng ASEAN và củng cố
vai trò trung tâm của ASEAN trong các cấu trúc an ninh khu vực. Tiếp tục tham gia
tích cực trong khn khổ hoạt động của Liên hợp quốc, nhất là trong việc thực hiện
mục tiêu phát triển bền vững và tham gia lực lượng gìn giữ hịa bình Liên hợp quốc.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thửXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, t.I, tr.88.
1
Tổng kết việc thực hiện và hoàn thành trọng
7 trách Chủ tịch ASEAN năm 2020 và Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 để từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm cho thời gian tới trên các diễn đàn đa phương khác
trong và ngồi khn khổ của Liên hợp quốc.
Bốn là, cần mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất
là hợp tác kinh tế, văn hóa và hợp tác trên lĩnh vực chính trị, an ninh-quốc phòng với
các nước; tiếp tục đưa các mối quan hệ với các đối tác mà ta đã có khn khổ quan hệ,
trước hết là các nước láng giềng và các nước lớn, đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả;
ưu tiên duy trì ổn định và giữ đà quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp
tác trên các lĩnh vực, đồng thời xử lý các khác biệt và vấn đề nảy sinh trên tinh thần
hợp tác, hữu nghị, kiểm soát bất đồng, dựa trên luật pháp quốc tế và thông lệ khu vực.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế,
nhất là Nghị quyết 06 của Ban Chấp hành Trung ương về việc "Thực hiện có hiệu quả
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh
nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới" và "Chiến lược tổng thể
về hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030." Thực hiện có hiệu quả
các cam kết quốc tế, trọng tâm là các cam kết trong Tổ chức Thương mại thế giới,
Cộng đồng Kinh tế ASEAN, APEC, CPTPP, RCEP, EVFTA, EVIPA...
Nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển bền vững của
đất nước. Ưu tiên tìm kiếm và mở rộng thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và lao động
Việt Nam, thu hút nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý, nhất là FDI hướng
vào các lĩnh vực ưu tiên của đất nước. Tích cực cùng các nước thúc đẩy đàm phán, ký
kết, phê chuẩn và thực hiện các thoả thuận FTA đa phương; nghiên cứu khả năng tham
gia các sáng kiến đa phương trong khu vực về kết nối kinh tế và phát triển cơ sở hạ
tầng; tiến hành đàm phán các FTA song phương thế hệ mới với các nước, nhất là với
các đối tác thương mại lớn. Triển khai toàn diện và mạnh mẽ hơn nữa cơng tác người
Việt Nam ở nước ngồi theo đúng tinh thần người Việt Nam ở nước ngoài là máu thịt,
là một bộ phận không tách rời và là một nguồn lực quan trọng của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Các cơ quan có trách nhiệm cần tiếp tục hồn thiện chính sách, cơ chế,
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thửXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, t.I, tr.88.
1
luật pháp, tạo điều kiện thuận lợi để bà con
8 ta tham gia ngày càng tích cực, sâu rộng
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời hỗ trợ bà con có địa vị pháp lý
vững chắc để yên tâm hòa hợp, sinh sống, làm việc, học tập, giữ gìn tiếng Việt và bản
sắc văn hóa của dân tộc ta.
Năm là, hết sức coi trọng, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác nghiên cứu và
dự báo chiến lược, tập trung đánh giá kỹ các xu hướng vận động trong chính sách và
quan hệ giữa các nước lớn, các nước láng giềng, khu vực, các xu hướng chính trị, kinh
tế, văn hóa-xã hội trên thế giới và khu vực, nhất là trước tác động như vũ bão của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số và sự nguy hại
của dịch bệnh và biến đổi khí hậu.
Trong trung và dài hạn, phải dự báo trước các kịch bản về những biến đổi trong
trật tự thế giới, khu vực và chuẩn bị sẵn các phương án để ứng phó. Phải nhận thức rõ
những điểm mạnh, điểm yếu của mình; tỉnh táo xác định giá trị và vị trí chiến lược của
đất nước trong tình hình mới để hoạch định chiến lược, chính sách cho phù hợp. Hịa
bình, hợp tác và phát triển của thế giới và khu vực là xu hướng chủ đạo của thời đại.
Một quốc gia không thể tùy hứng đưa ra những quyết định và hành động đơn phương
mà không cân nhắc những tổn thất gây ra cho các quốc gia khác và cho chính mình.
Sáu là, để hoàn thành được những nhiệm vụ nêu trên, phải đặc biệt chú trọng
công tác xây dựng tổ chức, bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Về tổ chức bộ máy, hệ thống các cơ quan đối ngoại, bao gồm Ban Đối ngoại Trung
ương, Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương và các cơ quan, đơn vị có chức năng làm đối
ngoại thuộc tất cả các ban, bộ, ngành, địa phương và tồn hệ thống chính trị cần tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán
bộ, đảng viên suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn
biến," "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Đồng thời, tiếp tục rà soát, đổi mới hệ thống tổ
chức và quản lý, sắp xếp, kiện tồn, nâng cao trình độ, năng lực tổ chức bộ máy của
Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương và các bộ, ngành, địa
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thửXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, t.I, tr.88.
1
phương, nhất là các cơ quan, đơn vị có chức
9 năng làm công tác đối ngoại, từ các cơ
quan đại diện của ta ở nước ngoài đến các đơn vị trong nước, hướng tới tổ chức tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa
XII về vấn đề này. Nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ban, ngành và địa
phương, nhất là giữa Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Ngoại giao, Bộ Cơng Thương với
Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an và các ban, bộ, ngành, địa phương có liên quan trong
triển khai công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của đất nước. Trong thời kỳ hội nhập
tồn diện, xu hướng tồn cầu hóa và liên kết, hợp tác là tất yếu thì sự phối hợp chặt
chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, và giữa các ban,
bộ, ngành, các cơ quan, đơn vị, các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động đối ngoại ở
Trung ương cũng như ở địa phương, nhất là các địa phương biên giới có ý nghĩa rất
quan trọng để thực hiện thành công nhiệm vụ chung cũng như nhiệm vụ của mỗi
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị.
IV.THỰC TIỄN LIÊN HỆ VỚI ĐƠN VỊ CÔNG TÁC
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam- đơn vị tôi đang cơng tác là một
tổ chức chính trị xã hội có chức năng đại diện chăm lo, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ.
Trong những năm qua, Hội LHPN Việt Nam luôn quan tâm tới hoạt
động đối ngoại, tăng cường chỉ đạo và hỗ trợ các cấp Hội phụ nữ
địa phương triển khai các hoạt động đối ngoại; quan tâm hướng
dẫn, tư vấn Hội LHPN các tỉnh, thành về các hoạt động đối ngoại
lớn. Hội LHPN Việt Nam đã chủ động phát huy, có nhiều sáng kiến
mở rộng quan hệ với đối tác mới, làm sâu sắc hơn quan hệ với
đối tác đã có, giúp hoạt động hợp tác quốc tế ngày càng thực
chất, hiệu quả. Cụ thể: phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác cả
song phương và đa phương; Công tác thông tin đối ngoại hai
chiều và đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; Công tác
vận động và quản lý nguồn lực quốc tế; Công tác phụ nữ Việt Nam
ở nước ngoài và hỗ trợ phụ nữ trong các giao dịch có yếu tố
nước ngồi. Các hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế được mở
rộng và đi vào
chiều sâu trên tinh thần chủ động, tích cực hội nhập quốc tế cả cấp trung ương, cấp
địa phương. Nhiều vấn đề chung: bình đẳng giới, nâng cao quyền năng kinh tế, di cư
an tồn, phịng chống mua bán người, hơn nhân quốc tế, xây dựng đường biên giới
hồ bình, hữu nghị, nâng cao năng lực cán bộ nữ... được chia sẻ tại các diễn đàn song
phương, đa phương, khu vực và quốc tế.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thửXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, t.I, tr.88.
2
Năm 2021, Ban Chấp hành Trung ương
0 Hội LHPN Việt Nam đã ban hành Nghị
quyết Hỗ trợ phụ nữ hội nhập quốc tế đến năm 2030 đáp ứng yêu cầu cơng tác đối
ngoại nhân dân trong tình hình mới. Tiếp tục củng cố, mở rộng quan hệ đối tác với
các tổ chức song phương và đa phương, chính phủ và phi chính phủ, tổ chức quốc
tế10, tổ chức phụ nữ các nước; nhờ đó, dù ưu tiên của các tổ chức quốc tế có thu hẹp
nhưng Hội đã vận động được 8 triệu đô la Mỹ 11 cho các hoạt động Hội và nâng cao
năng lực cho cán bộ Hội.
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, hoạt động đối ngoại của Hội vẫn được duy
trì thơng qua nhiều hình thức như các diễn đàn, hội thảo trực tuyến, trao đổi thông tin
qua các kênh điện tử.; hỗ trợ Hội Phụ nữ toàn Trung Hoa, Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào
và Cămpuchia trong phòng chống dịch Covid-19; liên kết với một số tổ chức quốc tế
và các cơ quan đại diện ngoại giao ở Việt Nam trong các hoạt động tạo nguồn lực
tiếp sức cho hoạt động phòng chống Covid-19 của phụ nữ ở một số địa phương có
dịch
Hội tiếp tục phát huy vai trị là thành viên có trách nhiệm của Liên đoàn Phụ nữ
Dân chủ Quốc tế, Liên đoàn các Tổ chức Phụ nữ ASEAN, đầu mối Giới của Việt
Nam tại Kế hoạch Colombo và thực hiện Quy chế tư vấn đặc biệt tại Hội đồng Kinh
tế và Xã hội của Liên hợp quốc. Quan hệ với các đối tác phụ nữ ở các nước láng
giềng, khu vực ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả thông qua diễn đàn chung 12, trao
đổi đoàn cấp cao, các chuyến xe hữu nghị... Đến cuối năm 2020,
Hội Liên hiệp Phụ nữ của 24/25 tỉnh giáp biên của Việt Nam có ký kết với đối tác láng
giềng, tăng 05 tỉnh so với đầu nhiệm kỳ.
Là lực lượng tích cực của đối ngoại nhân dân, Hội đã có nhiều sáng kiến thể hiện
tình đồn kết quốc tế, chủ động, khéo léo tham gia đấu tranh, vận động bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc, nhất là vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, dân chủ, nhân quyền... tại
các cơ chế quốc tế như Liên đoàn Phụ nữ dân chủ quốc tế và động viên phụ nữ Việt
Nam tham gia lực lượng gìn giữ hịa bình của Liên hợp quốc.
10nHội đã ký kết thỏa thuận, nâng tầm hợp tác với UN Women (Cơ quan chuyên trách của Liên hợp quốc về phụ
nữ và bình đẳng giới).
11 Số liệu 2017-5/2021 của cấp TW, 2012-2016: 12 triệu đô la Mỹ
12Mạng lưới các nhà khoa học nữ khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APNN), Diễn đàn phụ nữ Việt Nam - Hàn
Quốc, Diễn đàn Phụ nữ Việt Nam - Lào - Campuchia, Diễn đàn phụ nữ Việt - Nga, Diễn đàn nhân ASEAN.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thửXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, t.I, tr.88.
2
Nhiều hoạt động kết nối, vận động phụ
1 nữ Việt Nam ở nước ngoài được tổ chức
ở cả trung ương và địa phương. TW Hội bước đầu tư vấn thành lập tổ chức Phụ nữ
Việt Nam ở nước ngoài. Trong xu hướng tự do dịch chuyển lao động và hôn nhân có
yếu tố nước ngồi, Hội đã có nhiều hoạt động tư vấn hỗ trợ hơn nhân có yếu tố nước
ngoài, hỗ trợ di cư an toàn, hỗ trợ phụ nữ hồi hương trở về, thành lập 5 Văn phòng
dịch vụ một điểm đến hỗ trợ phụ nữ di cư hồi hương và gia đình họ (OSSO); trong một
số vụ việc có yếu tố nước ngồi, Hội đã chủ động kiến nghị, lên tiếng bảo vệ quyền lợi
cho phụ nữ Việt Nam.
Trong thời gian tới, vấn đề phụ nữ, giới và phát triển bền vững vẫn là sự quan
tâm chung của quốc tế. Trong môi trường hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ, Hội
LHPN Việt Nam nhận thấy sẽ tiếp tục gặp những khó khăn trong việc hỗ trợ phụ nữ
trong những vấn đề mới, phức tạp có yếu tố nước ngồi như di cư lao động, kết hơn
quốc tế. Ngoài ra, trong bối cảnh dịch bệnh toàn cầu, hoạt động đối ngoại của Hội
phần nào bị gián đoạn, ảnh hưởng và chuyển sang các hình thức phù hợp với tình hình
mới. Bên cạnh đó, xu hướng cắt giảm tài trợ quốc tế, nhất là trong bối cảnh Covid-19,
cũng tác động đến công tác đối ngoại của Hội. Trước tình hình đó, Hội LHPN Việt
Nam sẽ tiếp tục tập trung thực hiện các nhiệm vụ như sau:
Thứ nhất, phát huy vai trò tổ chức Hội trong đối ngoại nhân dân theo đường lối
đối ngoại của Đảng. Thực hiện tốt Nghị quyết “Hỗ trợ phụ nữ hội nhập quốc tế đến
năm 2030”. Triển khai có hiệu quả các chương trình đoàn kết, hữu nghị và thỏa thuận
hợp tác với tổ chức phụ nữ của các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống, các
nước đối tác chiến lược, đối tác tồn diện của Việt Nam; thể hiện vai trị thành viên có
trách nhiệm trong Liên đồn các tổ chức phụ nữ ASEAN (ACWO), Liên đoàn phụ nữ
dân chủ thế giới (WIDF); vai trò tư vấn đặc biệt tại Hội đồng Kinh tế và Xã hội của
Liên hiệp quốc (ECOSOC).
Thứ hai, đa dạng hóa phương thức đối ngoại ở các quy mô, cấp độ khác nhau,
phù hợp trong từng thời điểm, quan tâm đến các hoạt động chia sẻ thông tin, kinh
nghiệm, kỹ năng giải quyết các vấn đề mà phụ nữ quan tâm (hịa bình và An ninh, áp
dụng cơng nghệ số trong hoạt động đối ngoại, thích ứng an toàn, linh hoạt trong thế
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thửXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, t.I, tr.88.
2
giới có Covid-19, bình đẳng giới, bảo vệ2 mơi trường, thích ứng biến đổi khí hậu,
phịng ngừa thiên tai, dịch bệnh...); phối hợp bảo vệ quyền lợi và nhân phẩm của phụ
nữ Việt Nam trong các quan hệ, giao dịch có yếu tố nước ngồi; kết nối, hỗ trợ thành
lập và hỗ trợ hoạt động của các tổ chức phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ ba, mở rộng tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, phụ nữ
Việt Nam và tổ chức Hội; vận động ủng hộ các vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia
dân tộc, chủ quyền quốc gia trên các diễn đàn quốc tế và khu vực, thông qua các kênh
thông tin đối ngoại, các cơ chế, thể chế quốc tế, các đối tác quốc tế.
Thứ tư, tập trung tuyên truyền đối ngoại trên các nền tảng số, nâng cao chất
lượng trang tiếng Anh của Cổng thông tin điện tử của Hội, Trang thơng tin Phụ nữ Việt
Nam ở nước ngồi trên báo Phụ nữ Việt Nam, kênh truyền thông của Bảo tàng Phụ nữ
Việt Nam, Trung tâm Phụ nữ và Phát triển, các ấn phẩm bằng tiếng nước ngoài của
Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam.
Thứ năm, phối hợp với các cơ quan chuyên trách đối ngoại (Bộ Ngoại giao, Ban
Đối ngoại, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam), với các cơ quan ngoại giao, các
tổ chức quốc tế, các nhóm phụ nữ quốc tế để tăng cường quảng bá văn hóa, kết nối
giao thương, khai thác nguồn lực tổ chức các hoạt động cho phụ nữ và bình đẳng giới
KẾT LUẬN
Nhìn chung, quá trình triển khai đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt
Nam thời kỳ đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Nhìn tổng thể, đối ngoại đã
phối hợp chặt chẽ với các ngành, lĩnh vực dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt
đối, toàn diện của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, phát huy được sức mạnh
tổng hợp của tồn dân tộc và hệ thống chính trị, đã hồn thành tốt các nhiệm vụ phát
huy vai trị tiên phong trong giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội
chủ nghĩa. Chủ động, tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Huy
động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế
giới.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thửXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, t.I, tr.88.
2
Thời gian tới, tình hình quốc tế và 3trong nước tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi
nhưng cũng đặt ra khơng ít khó khăn, thách thức; để góp phần thực hiện thắng lợi các
mục tiêu phát triển đất nước và triển khai thắng lợi đường lối đối ngoại Đại hội XIII
đã đề ra, Đảng và Nhà nước ta cần thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, là: Xây dựng
nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với 3 trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà
nước, đối ngoại Nhân dân; củng cố tin cậy chính trị, mở rộng và làm sâu sắc hơn quan
hệ với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn
diện, đối tác quan trọng và các nước bạn bè truyền thống, trên tinh thần bình đẳng,
cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau và phù hợp với luật pháp quốc tế; triển khai mạnh mẽ,
hiệu quả, sáng tạo hơn nữa đối ngoại đa phương, chủ động, tích cực phát huy vai trị,
đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự kinh tế - chính trị quốc
tế; đặc biệt là ASEAN, LHQ, các cơ chế hợp tác liên nghị viện quốc tế và khu vực
(như AIPA, IPU), APEC, hợp tác Tiểu vùng Mekong, cũng như trong các vấn đề quốc
tế có tầm quan trọng chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện của Việt
Nam.
Với thế và lực của đất nước không ngừng được củng cố qua 35 năm đổi mới, với
quyết tâm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thời gian tới,
công tác đối ngoại sẽ đạt những thành tựu to lớn, đóng góp xứng đáng vào thực hiện
thắng lợi Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII. Góp phần đưa đất nước ta trở
thành nước đang phát triển có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm
2030, trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ
XXI.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thửXIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự
thật, H.2021, t.I, tr.88.
24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021,
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Quan hệ quốc tế (Dùng
cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị) Nxb.Lý luận chính trị, H.2021.
3. Phạm Bình Minh: Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn
mới, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr.69-79.
4. Nguyễn Anh Cường, Phạm Quốc Thành: Chính sách đối ngoại của Việt Nam,
Nxb.Cơng an nhân dân, H.2018.
5. Lê Hồi Trung: Đối ngoại đa phương Việt Nam trong thời kỳ chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2017.
6. Nguyễn Minh Đức: Ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế ở Việt Nam thời kỳ
đổi mới, Nxb.Lý luận chính trị, H.2020.
7. Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05-11-2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chỉnh trị - xã hội trong bối cảnh
nước ta tham gia các hiệp định thưcmg mại tự do thế hệ mới trong Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóaXII, Văn phịng Trung ương Đảng, H.2016.
8. Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Đối ngoại toàn
quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII của
Đảng
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh, Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại
trong công cuộc phát triển và xây dựng vị thế của đất nước, ngày 14/12/2021, từ
< vi-the-cua-dat-nuoc>
25