Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

BÀI THU HOẠCH môn quan hệ quốc tế cục diện thế giới và đường lối đối ngoại của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.81 KB, 21 trang )

BÀI THU HOẠCH
MÔN: QUAN HỆ QUỐC TẾ

CỤC DIỆN THẾ GIỚI VÀ ĐƯỜNG LỐI
ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY


••


MỤC LỤC
NỘI DUNG
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. CỤC DIỆN THẾ GIỚI
1. Các khái niện liên quan
1.1. Cục diện thế giới
1.2. Đối ngoại

Trang
1
2
2
2
2
2

2. Đặc điểm cục diện thế giới hiện nay
3. Xu hướng vận động của cục diện thế giới trong những năm tới
3.1. Một số chiều hướng trong vấn đề kinh tế quốc tế
3.2. Một số chiều hướng trong quan hệ quốc tế



3
7
7
8

3.3. Một số chiều hướng trong quan hệ khu vực

9

II. ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

9

1. Vị thế của Việt Nam hiện nay

9

2. Đường lối đối ngoại của Việt Nam tại Đại hội XIII

13

2.1. Mục tiêu

13

2.2. Nguyên tắc

13


2.3. Nhiệm vụ đối ngoại

14

3. Một số kết quả trong công tác đối ngoại của Việt Nam sau Đại hội XIII

15

3.1. Chiến dịch ngoại giao vaccine

15

3.2. Kết quả chuyến thăm châu Âu của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ
đầu tháng 9/2021

17
19

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

21


3
MỞ ĐẦU
Thế giới ngày nay đang có những chuyển biến lớn lao với biết bao sự kiện
diễn ra một cách nhanh chóng, vừa mang đến cho con người những thời cơ, vận hội
và thắp sáng những hi vọng tương lai, lại vừa đặt ra trước mắt những nguy cơ, thách
thức và những lo lắng bất an.
Thế giới đã và đang trở thành thế giới toàn cầu, cả thế giới là một thị trường,

hàng tỷ người ở mọi vùng miền khác nhau có thể cùng theo dõi những sự kiện trọng
đại đang diễn ra trên trái đất. Với tác động của khoa học công nghệ, thế giới như
được phẳng ra, những khoảng cách về không gian đang thu hẹp lại bởi giao thơng đa
phương tiện hết sức nhanh chóng, thuận lợi và thông tin liên lạc ngày càng dễ dàng,
thông suốt. Các sản phẩm hàng hóa tiêu dùng cho con người ngày càng thơng minh
hơn.
Nhưng cũng có mặt khác của thế giới rất đáng lo ngại. Đó là những vấn đề
nóng bỏng từ giải trừ vũ khí hạt nhân đến biến đổi khí hậu; sự cạn kiệt nguồn lực,
những dịch bệnh, đói nghèo dai dẳng hàng tỷ người sống dưới đáy đến những cuộc
khủng hoảng kinh tế; chủ nghĩa khủng bố quốc tế đang lan rộng cùng với nạn buôn
người, tội phạm xuyên biên giới; Tất cả điều đó đặt ra cho chúng ta phải có cách nhìn
nhận hết sức khoa học về tình hình thế giới hiện nay, từ đó đưa ra những chủ trương
và cách thức để tận dụng cơ hội cũng như để vượt qua những thách thức; đồng thời
đề ra đường lối đối ngoại phù hợp với xu thế của khu vực, thế giới và tình hình thực
tiễn của đất nước.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang dẫn tới sự dịch chuyển quyền lực
toàn cầu trên cả phương diện không gian địa lý và chủ thể quyền lực. Hơn thế, nhân
loại ngày nay đang đối phó với nhiều vấn đề mang tính tồn cầu cấp bách địi hỏi
phải có sự hợp tác đa phương để giải quyết. Đại dịch Covid -19 hiện nay là một ví
dụ.
Để hiểu sâu về hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian
qua và trong thời gian tới, học viên lựa chọn nội: “Cục diện thế giới và đường lối đối


4
ngoại của Việt Nam hiện nay” để hồn thành mơn học Quan hệ quốc tế trong chương
trình cao cấp lý luận chính trị.
NỘIDUNG
I. CỤC DIỆN THẾ GIỚI
1. Các khái niện liên quan

1.1.

Cục diện thế giới
Cục diện thế giới được hiểu là “trạng thái” của thế giới tại một thời điểm hay

trong một khoảng thời gian nhất định (tương đối ngắn), phản ánh tương quan lực
lượng và mối quan hệ giữa chủ thể quốc tế khác nhau, trước hết và quan trọng nhất là
giữa các cường quốc, các trung tâm quyền lực lớn của thế giới. Nó cũng bao gồm cả
xu hướng vận động của tương quan lực lượng và trạng thái quan hệ giữa các chủ thể
chính tại thời điểm đó. Về nội hàm, cục diện thế giới bao quát diện mạo của thế giới
trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, qn sự, văn hóa, tơn giáo... Tuy nhiên,
nghiên cứu phân tích về cục diện thế giới thường tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, quốc phòng- an ninh.
Tuy cục diện thế giới là bức tranh toàn cảnh về thế giới, nhưng trong phân
tích, dự báo cục diện thế giới thường dựa trên ba thành tố chủ yếu: (1) cấu trúc dựa
trên sự so sánh tương quan sức mạnh và quyền lực giữa các nước lớn, các trung tâm
quyền lực lớn trên các bình diện chủ yếu, cả song phương và đa phương; (2) các đặc
điểm lớn, các nhân tố tác động và các xu hướng vận động chủ yếu của quan hệ quốc
tế đương đại; (3) vai trò và đặc điểm của hệ thống các thể chế, cơ chế hợp tác tồn
cầu, liên khu vực và khu vực.
1.2.

Đối ngoại
Đường lối, chính sách đối ngoại của một nhà nước quốc gia là tổng thể các

quan điểm xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và phương châm chỉ đạo các
hoạt động đối ngoại mà quốc gia đó thể hiện trong quan hệ với các nhà nước quốc gia
và các chủ thế khác trong quan hệ quốc tế nhằm mục đích thực hiện thắng lợi những
lợi ích của quốc gia dân tộc và của giai cấp cầm quyền trong từng giai đoạn lịch sử.
Như vậy, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là hệ thống quan điểm

về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, phương châm chỉ đạo hoạt động


5
của nước ta với bên ngoài nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc chân chính, đồng
thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì mục tiêu của thời
đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Chính sách đối ngoại là tổng thể những chiến lược, sách lược, chủ trương,
quyết định và những biện pháp do nhà nước hoạch định và thực thi trong quá trình
tham gia vào đời sống quốc tế trong từng thời kỳ lịch sử, vì lợi ích quốc gia, phù hợp
với xu thế phát triển của tình hình thế giới và pháp luật quốc tế.
Công tác đối ngoại là một trong lĩnh vực hoạt động cơ bản của hệ thống chính
trị và nhân dân, bao gồm tổng thể những hoạt động xác định và thực hiện đường lối,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước đối với các chủ thể quan hệ quốc tế
nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững mơi trường hồ bình, thuận lợi cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới.
2. Đặc điểm cục diện thế giới hiện nay
Thế giới hiện nay tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó lường.
Tồn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng, đã và đang tác động tới tất cả các nước trên
thế giới. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào q trình hội
nhập quốc tế. Hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh những đòi
hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các cuộc
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xẩy ra ở nhiều nơi với tính chất và hình
thức ngày càng đa dạng và phức tạp. Có thể khái quát mộ t số đặc điểm chính của
cục diện thế giới như sau:
Thứ nhất, cục diện thế giới diễn biến phức tạp: Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đầu thập niên 90 của thế kỉ XX làm cho cục

diện thế giới và quan hệ quốc tế thay đổi một cách cơ bản. Chủ nghĩa xã hội hiện
thực lâm vào thoái trào, phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế bị khủng hoảng
sâu sắc, tồn diện. Cơ cấu địa chính trị và sự phân bố quyền lực toàn cầu bị đảo lộn,


6
cán cân so sánh lực lượng trên thế giới nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa tư sản.
Sau gần nửa thế kỉ tồn tại kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trật tự thế giới hai
cực chấm dứt. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới chứa đựng nhiều yếu tố bất
trắc, khó đốn định, trong đó nổi lên hai khuynh hướng đối nghịch nhau: Mỹ tham
vọng lập lại trật tự thế giới đơn cực, trong khi Nga, Trung Quốc và một số nước lớn
khác đấu tranh cho trật tự thế giới đa cực.
Thứ hai, cách mạng công nghiệp 4.0: Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất thế giới, làm quốc tế hóa sâu sắc quá trình mở rộng sản xuất, phân phối trên
phạm vi toàn cầu, tạo nên sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các nước trong
khu vực và trên thế giới. Cách mạng khoa học cơng nghệ cịn làm thay đổi tư duy của
các nước về thế giới quan và chiến lược đối ngoại, thay đổi phương thức quan hệ
giữa các quốc gia.
Thứ ba, q trình tồn cầu hóa: Tồn cầu hóa là xu thế vận động mang tính
hệ thống và khách quan của thế giới trên phạm vi tồn cầu, nó bao trùm tất cả các
mặt đời sống kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Qua đó tác động mạnh
mẽ đến xu hướng quan hệ giữa các quốc gia, làm xuất hiện những xu hướng liên
minh, tập hợp lực lượng mới.
Thứ tư, sự chuyển dịch quyền lực và điều chỉnh chiến lược: Thế giới đã chứng
kiến 3 cuộc chuyển giao quyền lực lớn làm thay đổi cơ bản đời sống quốc tế trên mọi
mặt, từ chính trị, quân sự đến kinh tế, văn hóa. Cuộc chuyển giao quyền lực thứ nhất
là sự trỗi dậy của châu Âu từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII dưới tác động của
cách mạng công nghiệp, thương mại và đầu tư. Cuộc chuyển giao thứ hai là sự trỗi
dậy của Mỹ bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XIX, nhất là từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai (1945), Mỹ trở thành siêu cường chi phối trật tự quốc tế cho tới cuối thế

kỷ XX. Bước vào thế kỷ XXI, do suy yếu tương đối của Mỹ và sự trỗi dậy mạnh mẽ
của một số nước, nổi bật là Trung Quốc và Ân Độ dẫn tới sự chuyển dịch quyền lực
lần thứ thứ ba trên phạm vi toàn cầu. Sự chuyển dịch lần thứ ba này đã và đang tác
động đến quan hệ quốc tế, tập hợp lực lượng giữa các nước không chỉ trong phạm vi


7
các khu vực mà biến động sâu sắc tới toàn cầu. Sự chuyển dịch đó làm cho cục diện
thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn.
Mỹ với mục tiêu duy trì vị thế siêu cường duy nhất, tiếp tục đẩy mạnh chiến
lược quân sự, an ninh toàn cầu bằng việc tập hợp lực lượng, điều chỉnh chiến lược với
từng khu vực để khống chế, kìm hãm các thế lực thách thức “ngôi vị số 1” của Mỹ.
Trung Quốc với sức mạnh được tăng lên sau nhiều năm phát triển, đang mở
rộng không gian chiến lược để khẳng định vị thế cường quốc khu vực và quốc tế.
Liên bang Nga, đẩy mạnh triển khai chiến lược nhằm giành lại vị thế của mình
tại các khu vực ảnh hưởng truyền thống.
Nhật Bản vẫn là cường quốc kinh tế vị trí số 3 thế giới. Mục tiêu chiến lược
của Nhật Bản là trở thành một cường quốc phát huy ảnh hưởng cả về kinh tế, chính
trị và quân sự trong khu vực và trên thế giới.
Ân Độ ngày càng rút ngắn khoảng cách với Nhật Bản để vượt lên thành nền
kinh tế thứ 3 thế giới. Ân Độ tiếp tục khẳng định ảnh hưởng của mình ở khu vực Nam
Á và Ân Độ Dương, đẩy mạnh chiến lược “hướng Đông” và gia tăng ảnh hưởng ở
Đông Nam Á, quan tâm hơn tới an ninh biển và bảo vệ trật tự biển.
Liên minh châu Âu (EU) trong những năm qua cho thấy chính sách đang
hướng vào bên trong để xử lý các vấn đề nổi cộm như Brexit, khủng hoảng nợ cơng,
khủng hoảng nhập cư, phịng chống khủng bố quốc tế, vì vậy sự quan tâm và nguồn
lực dành cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương có chiều hướng giảm đi.
Trong bối cảnh chung của thế giới, ASEAN tiếp tục giữ và khai thác vị trí địa
chiến lược của mình, bảo đảm khả năng thích ứng và tự chủ trong quan hệ với các
nước lớn.

Như vậy, cạnh tranh quyền lực, lợi ích và vị thế chiến lược giữa các nước, đặc
biệt là giữa Mỹ, Trung Quốc, Nga đang diễn ra ngày càng quyết liệt. Từ đó sẽ nảy
sinh những điểm nóng tại nhiều khu vực trên thế giới, làm cho tình hình an ninh thế
giới có nhiều biến động.
Thứ năm, sự ra đời và vai trò ngày càng quan trọng của các tổ chức quốc tế:
Các tổ chức và thiết chế quốc tế ngày càng có vai trò lớn hơn trong quan hệ quốc tế.


8
Hoạt động của Liên hợp quốc kể từ khi thành lập đến nay cũng cho thấy Liên hợp
quốc (cùng với các tổ chức trực thuộc cũng như các tổ chức quốc tế khác) đã đóng
vai trị ngày càng to lớn trong tiến trình dân chủ hóa đời sống quốc tế.
Thứ sáu, sự thay đổi của những yếu tố chính trị, văn hóa, xã hội đặc thù , các
vấn đề tồn cầu và an ninh truyền thống ngày càng nghiêm trọng:
Lợi ích quốc gia dân tộc là yếu tố cơ bản nhất quyết định thái độ và quan hệ
giữa các nước trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và tồn cầu hóa. Do đó,
đây là nhân tố cơ bản tác động đến việc thay đổi thực lực của mỗi quốc gia, cũng như
quyết định sự hợp tác, liên minh, tập hợp lực lượng trong giai đoạn hiện nay.

Thứ bảy, trào lưu dân túy, xu hướng bảo hộ có chiều hướng gia tăng:
Về trào lưu dân túy: Trào lưu dân túy trong thời gian gần đây đang ngày càng
gia tăng, nổi lên mạnh mẽ ở các nước phát triển. Ở trong nước, các trào lưu dân túy
cổ vũ cho việc xây dựng một nhà nước mạnh và chuyên chế, đủ năng lực để kiểm
soát chặt chẽ lãnh thổ và biên giới quốc gia, bảo vệ lợi ích của người dân. Đối với
bên ngoài, trào lưu này chống liên kết, hội nhập quốc tế và khu vực, gắn ưu tiên thậm
chí ly khai khỏi các cơ chế đa phương. Điều đó làm giảm hợp tác, tăng cạnh tranh,
xung đột và do đó đưa đến những căng thẳng mới trong quan hệ quốc tế.
Xu hướng bảo hộ: Gần đây xu hướng bảo hộ hoặc còn gọi là chủ nghĩa bảo hộ
phát triển mạnh tại Mỹ và một số nước Tây Âu. Tại các nước này, những lực lượng
ủng hộ tự do hóa kinh tế đang suy yếu và co lại, trong khi trào lưu phản kháng tự do

hóa, phản kháng tồn cầu hóa lại trỗi dậy. Tình hình đó làm cho liên kết kinh tế khu
vực và toàn cầu đứng trước nhiều khó khăn, tồn cầu cầu hóa có xu hướng bị chậm
lại.
Như vậy, cục diện thế giới trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI vẫn tiếp tục có
nhiều biến động phứ tạp, diễn biến khó lường. Xu thế dân chủ hóa đời sống quốc tế,
sự hợp tác ngày càng có hiệu quả của các tổ chức khu vực và liên khu vực... đã mở ra
kỷ nguyên đa phương trong mọi hoạt động của thế giới hiện nay.
Hịa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, tuy còn tiềm ẩn nhiều nhân tố
bất ổn gây mất ổn định như tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực; biên giới, lãnh
thổ, biển đảo, tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo... Sự phát triển mạnh mẽ của


9
tồn cầu hóa làm cho tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày một tăng lên.
Các quốc gia và toàn nhân loại ngày càng phải đoàn kết, chung tay cùng nhau giải
quyết các vấn đề toàn cầu như: biến đổi khí hậu, bùng nổ dân số, HIV/ADS, cạn kiệt
tài nguyên, chênh lệch khoảng cách phát triển, giầu - nghèo... Đặc biệt, sự tác động
của đại dịch Covid đến tất cả các nước trên thế giới, ảnh hưởng đến nhiều mặt: từ
kinh tế, chính trị đến văn hóa xã hội, đời sống của mỗi quốc gia đều bị đảo lộn.
Có thể nhận thấy, mọi sự biến đổi dù lớn hay nhỏ của cục diện thế giới đều tác
động trực tiếp đến việc điều chỉnh chính sách của các quốc gia trong đó có Việt Nam.
Do đó, sự biến đổi của cục diện thế giới là vấn đề mà Việt Nam và mọi quốc gia đều
phải quan tâm nghiên cứu khi hoạch định chiến lược phát triển đất nước của mình.
3. Xu hướng vận động của cục diện thế giới trong những năm tới
3.1.

Một số chiều hướng trong vấn đề kinh tế quốc tế Trong bối cảnh đại dịch

COVID-19 hoành hành trên toàn cầu, các chuyên gia cảnh báo, thế giới đang
rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Đại dịch Covid-19 trực tiếp kích hoạt

khủng hoảng, song nguồn cơn khủng hoảng liên quan tới một loạt nhân tố
khác, như tranh chấp thương mại và dầu mỏ cũng như về chính trị - chiến lược
giữa các nước lớn.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, tác động sâu rộng và đưa tới những chuyển
biến sâu sắc về mọi mặt, như cơ cấu và phương thức sản xuất - kinh doanh; sự vận
hành của hệ thống tài chính - tiền tệ; cơ cấu và chất lượng lao động; phương cách
làm việc và lối sống của con người; phương thức học tập, chữa bệnh; phương tiện và
phương thức bảo đảm quốc phòng - an ninh...
Trong những thập niên qua, tỷ trọng của các nền kinh tế phương Tây, kể cả
Mỹ, các nước Tây Âu và Nhật Bản trong nền kinh tế thế giới có xu hướng thuyên
giảm; tỷ trọng của các nền kinh tế Trung Quốc, Ân Độ ngày một tăng.
Qua các nhận định trên cho thấy, cơ bản trật tự kinh tế quốc tế hiện hành
không mất đi nhưng sẽ bị điều chỉnh; các “luật chơi” trên thương trường thế giới sẽ
là sự pha trộn giữa các “luật chơi” cũ và những điều chỉnh mới.
3.2.

Một số chiều hướng trong quan hệ quốc tế


1
0
Quan hệ quốc tế về chính trị - an ninh đang và sẽ đối mặt với cục diện cạnh
tranh khốc liệt giữa các nước lớn. Hiện tượng này không phải là mới mà đã lặp đi lặp
lại trong hàng nghìn năm nay dưới tác động của quy luật phát triển không đều và sự
cạnh tranh giữa cường quốc mới “trỗi dậy” và cường quốc “cũ”.
Về sự phân bố lực lượng, mặc dù Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất, song vị trí,
uy tín quốc tế ngay cả đối với các nước đồng minh, khơng cịn như trước. Thế giới đã
và sẽ xuất hiện vô số sự tập hợp lực lượng đa dạng về hình thức, lĩnh vực, thành phần
ở tầm tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu, tạo nên thế đa cực đan xen
nhau.

Về nội hàm, sự cạnh tranh hiện nay mang tính tồn diện hơn thời kỳ “lưỡng
cực”: Cuộc chạy đua vũ trang và khoa học - công nghệ không chỉ diễn ra giữa Mỹ và
các nước phương Tây với Nga mà cịn có sự tham gia của Trung Quốc, Nhật Bản, Ân
Độ và nhiều nước khác, chi phí quốc phịng ngày càng lớn hơn và trình độ kỹ thuật
quân sự cao hơn nhiều so với thời Chiến tranh lạnh.
Về tính chất, trong mối quan hệ “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” giữa các nước
lớn, mặt “đấu tranh” đậm nét hơn, quyết liệt hơn, thậm chí tồn diện hơn, phức tạp
hơn cả thời kỳ Chiến tranh lạnh. Có điều khác là tính tùy thuộc lẫn nhau, nhất là về
kinh tế, cao hơn nhiều so với trước đây.
Đại hội VIII của Đảng ta cho rằng: “Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị
đẩy lùi” hay của Đại hội IX đánh giá: “Trong vài thập niên tới ít có khả năng xảy ra
chiến tranh thế giới” vẫn cịn ngun giá trị, bởi ngày nay khơng một nước nào nắm
được ưu thế tuyệt đối về vũ khí tên lửa - hạt nhân, khơng một nước nào có thể duy trì
được sự an tồn tuyệt đối.
3.3. Một số chiều hướng trong quan hệ khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương sẽ tiếp tục là khu vực phát triển hàng đầu với sự
hiện diện của nhiều nước lớn và các nền kinh tế năng động, nơi hiện diện các liên
minh, tổ chức, thể chế đa phương quan trọng. Riêng Đông Nam Á được đánh giá là
khu vực phát triển năng động, có quan hệ tích cực với tất cả các nước lớn và duy trì
được “vai trị dẫn dắt” trong các thể chế khu vực.


1
1
Tóm lại, phương thức sản xuất và tương quan lực lượng trên thế giới đang
chuyển dần sang cục diện mới. Trong thời kỳ chuyển tiếp, những đườn g nét cơ bản
của trật tự kinh tế và chính trị quốc tế cũ hình thành sau “thế giới hai cực” chưa mất
hẳn; trật tự mới chưa định hình, do đó đã nảy sinh nhiều tình huống bất an, bất định.
Các nước có thể thay đổi, những chiều hướng lớn đang diễn ra hiện nay vẫn sẽ tiếp
diễn với một số sự điều chỉnh.

II. ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Vị thế của Việt Nam hiện nay
Trong ngoại giao song phương, Việt Nam đến nay đã có quan hệ ngoại giao
với 189 nước, đã xác lập quan hệ đặc biệt với Lào, xác lập 3 quan hệ đối tác chiến
lược toàn diện (Trung Quốc, Nga, Ân Độ), 17 quan hệ đối tác chiến lược, 13 quan hệ
đối tác toàn diện. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược,
đối tác toàn diện với tất cả các nước lớn, trong đó có P5, tồn bộ G7, 13/20 nước
G20, 8/9 nước trong ASEAN.
Trong ngoại giao đa phương, Việt Nam đã và đang phấn đấu dần đóng vai trị
“nịng cốt, dẫn dắt, hồ giải, sáng kiến, tích cực, có trách nhiệm” tại các diễn đàn, tổ
chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước, phù hợp với khả
năng và điều kiện cụ thể. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193
nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ tốt đẹp với tất cả nước lớn, các Uỷ viên
Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam có quan hệ đối tác chiến
lược với 17 quốc gia (trong đó có 3 đối tác chiến lược toàn diện), 13 đối tác toàn
diện. Năm 2020, Việt Nam đã phê chuẩn và triển khai có hiệu quả Hiệp định thương
mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA); tham gia ký Hiệp định
Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), tham gia hơn 500 hiệp định song phương
và đa phương trên nhiều lĩnh vực. Đã có 71 nước cơng nhận Việt Nam là một nền
kinh tế thị trường.
Việt Nam đã gia nhập ASEAN năm 1995; ASEM năm 1996; APEC năm 1998;
WTO năm 2007; CPTPP năm 2018. Đã đăng cai thành công Diễn đàn Hợp tác Kinh


1
2
tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 2006 và 2017; hội nghị Thượng đỉnh Mỹ
- Triều lần hai năm 2019...
Việt Nam là một thành viên tích cực của hầu hết các văn kiện cơ bản về quyền
con người của Liên hợp quốc và đã được bầu là thành viên của Hội đồng nhân quyền

Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 và tiếp tục ứng cử và đã được các nước
ASEAN đồng thuận đề cử là ứng cử viên của ASEAN tham gia ứng cử vị trí thành
viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025.
Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN 2010 và 2020. Trong đó, Năm
Chủ tịch ASEAN 2020 đã thành cơng tồn diện, vang dội, trọn vẹn và thực chất. Đã
thông qua hơn 550 cuộc họp, nhiều sáng kiến, ưu tiên của Việt Nam đã trở thành tài
sản chung của ASEAN; bảo đảm an ninh, an toàn, trọng thị về lễ tân; quảng bá hình
ảnh Cộng đồng ASEAN và Việt Nam hịa bình, ổn định phát triển thịnh vượng trong
tâm thức của bạn bè quốc tế.
Cụ thể, vị trí của Việt Nam tại một số tổ chức đa phương như Liên hợp quốc
(UN), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) hiện nay là:
* Trong Liên hợp quốc
Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức gia nhập LHQ, tổ chức đóng vai trị
trung tâm trong xây dựng luật pháp quốc tế, gìn giữ hịa bình, ngăn ngừa xung đột và
ứng phó với các thách thức tồn cầu. Trong hơn 40 năm qua, quan hệ hợp tác Việt
Nam - LHQ đã góp phần bảo vệ và thúc đẩy lợi ích quốc gia- dân tộc của ta, nhất là
duy trì, củng cố mơi trường hịa bình, an ninh và thuận lợi cho phát triển đất nước;
thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng hơn và góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của
Việt Nam trên trường quốc tế; làm sâu sắc hơn quan hệ của ta với các nước, các đối
tác chủ chốt và bạn bè và tranh thủ một nguồn lực quan trọng phục vụ công cuộc
phát triển đất nước.
Với những đóng góp của mình, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào nhiều vị
trí, cơ quan quan trọng của LHQ và ghi được nhiều “dấu ấn” Việt Nam tại các cơ
quan như tại HĐBA LHQ, Hội đồng Nhân quyền LHQ, Hội đồng Kinh tế - xã hội
(ECOSOC)...


1
3
Đặc biệt, trong giai đoạn 2017-2021, Việt Nam đã tích cực tham gia vào nỗ

lực chung của LHQ trong giải quyết các vấn đề hịa bình, an ninh khu vực và quốc tế,
thúc đẩy quyền con người; tích cực tham gia thương lượng và ký Hiệp ước cấm vũ
khí hạt nhân và ngày 17/5/2018 trở thành nước thứ 10 phê chuẩn Hiệp ước. Trong
lĩnh vực gìn giữ hịa bình LHQ, Việt Nam đã cử 169 lượt sĩ quan, cán bộ tham gia
Phái bộ LHQ ở Nam Sudan và Cộng hòa Trung Phi; triển khai thành công Bệnh viện
dã chiến cấp 2 tham gia Phái bộ gìn giữ hịa bình ở Nam Sudan.
Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục hợp tác tích cực với các cơ chế LHQ về quyền
con người, đồng thời đang ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm
kỳ 2023-2025; phối hợp tốt với LHQ trong cơng cuộc chống đại dịch COVID-19,
trong đó có đóng góp 50.000 USD cho Quỹ ứng phó COVID- 19 của WHO.
Được bầu là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ (nhiệm kỳ
2020 - 2021) với với số phiếu cao kỷ lục 192/193 phiếu ủng hộ, Việt Nam đã đảm
nhiệm tốt vai trị của mình, góp phần nâng cao vị thế, tạo dựng môi trường quốc tế và
khu vực thuận lợi cho công cuộc phát triển, hội nhập của đất nước, đồng thời tiếp tục
tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước vì mục tiêu chung là hịa bình, ổn
định và thịnh vượng.
Trên tinh thần độc lập, tự chủ, tích cực, trách nhiệm và cân bằng, Việt
Nam cũng đã đóng góp thực chất vào quá trình thương lượng, tìm giải pháp, đáp ứng
quan tâm chung của cộng đồng quốc tế; thúc đẩy quan hệ song phương với các nước
thành viên Hội đồng Bảo an LHQ; tập trung ưu tiên thúc đẩy một số vấn đề chủ đề
được sự quan tâm, ủng hộ của nhiều nước thành viên như: Khắc phục hậu quả bom
mìn phục vụ tái thiết hậu xung đột; Bảo vệ thường dân trong xung đột vũ trang; An
ninh và biến đổi khí hậu; Phụ nữ, hịa bình và an ninh; Hợp tác giữa LHQ với các tổ
chức khu vực, tiểu khu vực; Trẻ em và xung đột vũ trang và hoạt động gìn giữ hịa
bình LHQ.
* Trong Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á (ASEAN)


1
4

Kể từ khi chính thức gia nhập ASEAN vào ngày 28/7/1995, đường lối, chính
sách đối ngoại của Việt Nam trong ASEAN đã trở thành một bộ phận quan trọng
trong chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ mới.
Trong 26 năm qua, Việt Nam đã tích cực cùng với các nước triển khai các thỏa
thuận và kế hoạch hợp tác quan trọng của ASEAN, đặc biệt là việc xây dựng Cộng
đồng ASEAN. Việt Nam được đánh giá là thành viên chủ động, tích cực, có trách
nhiệm trong ASEAN.
Sự kiện Cộng đồng ASEAN chính thức hình thành vào cuối năm 2015 có
những đóng góp đáng ghi nhận của Việt Nam, trong đó có các sáng kiến, đề xuất như
Chương trình Hành động Hà Nội 2010. Việt Nam cũng là một trong những nước đi
đầu trong việc thực hiện các mục tiêu của Cộng đồng ASEAN.
Dấu ấn của Việt Nam trong ASEAN cịn được thể hiện qua những đóng góp
đối với q trình mở rộng hợp tác của ASEAN. Khi giữ chức Chủ tịch ASEAN 2010,
Việt Nam đã đưa ra sáng kiến mở rộng thành viên của Hội nghị cấp cao Đông Á
(EAS) bằng việc thúc đẩy kết nạp Nga và Mỹ. Việt Nam cũng đề xuất sáng kiến mở
rộng cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+).
Đặc biệt, năm 2020, đánh dấu 25 năm gia nhập ASEAN, cũng là lần thứ ba
đảm đương cương vị Chủ tịch ASEAN, Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung khi
đó phải đối mặt với những thách thức to lớn do đại dịch viêm đường hô hấp cấp
COVID-19 gây ra.
Tuy nhiên, Việt Nam đã chứng tỏ bản lĩnh và vai trò dẫn dắt, chủ động của
nước Chủ tịch luân phiên. Dưới sự chủ trì của Việt Nam, ASEAN đã tổ chức một loạt
hội nghị trực tuyến nhằm thảo luận cách ứng phó với dịch, như tổ chức thành cơng
hai hội nghị cấp cao ASEAN 36 và ASEAN 37; Hội nghị cấp cao đặc biệt ASEAN và
ASEAN+3 về đại dịch COVID-19.
Nhiều sáng kiến về hợp tác ứng phó với COVID-19 và phục hồi sau đại dịch
đã được công bố và đưa vào triển khai trong năm 2020 như Quỹ ASEAN ứng phó
COVID-19, Kho dự phịng vật tư y tế khẩn cấp ASEAN, Khung chiến lược ASEAN
về các tình huống khẩn cấp, Khung phục hồi tổng thể ASEAN và Kế hoạch triển



1
5
khai, Tuyên bố ASEAN về Khung thỏa thuận hành lang đi lại ASEAN. Những sáng
kiến này đã góp phần giúp ASEAN đứng vững trước đại dịch COVID-19 và sớm đi
vào phục hồi, bảo đảm cho định hướng phát triển của ASEAN. Quan trọng hơn,
thông qua hợp tác chống COVID-19 và phục hồi kinh tế, sự gắn kết trong ASEAN
càng bền chặt. Đây là những “dấu son” mang đậm dấu ấn của Việt Nam và góp phần
tơ đẹp bức tranh thành cơng tồn diện của ASEAN.
2. Đường lối đối ngoại của Việt Nam tại Đại hội XIII
2.1.

Mục tiêu
Đại hội XIII đã xác định mục tiêu: “Bảo đảm cao nhẩt lợi ích quốc gia - dân

tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp
quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định; phấn đấu đến gỉữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, Đại hội tiếp tục khẳng định mục tiêu hàng đầu
của hoạt động đối ngoại là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Lợi ích tối
cao quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc xuyên suốt của đối ngoại.
2.2.

Nguyên tắc
Có hai loại nguyên tắc trong hoạt động đối ngoại:
Một là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt, bao trùm trong đường lối đối ngoại của

Đảng và Nhà nước ta là hịa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội;
đồng thời, phải sáng tạo, năng động, lỉnh hoạt trong xử lỷ các tình huống, phù hợp
với hồn cảnh cụ thể, với vị trí của Việt Nam cũng như diễn biến củ a tình hình thế

giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm của từng đối tác. Trong xử lý tình huống, cần
“ba tránh”: tránh bị cô lập, tránh xung đột và tránh đối đầu.
Hai là các nguyên tắc cụ thể. Gồm: Tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn
lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Không dùng vũ lực hoặc đe
doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thơng
qua thương lượng hịa bình. Tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
2.3. Nhiệm vụ đối ngoại


1
6
Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh,
tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia
- dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục phát huy
vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững mơi trường hịa bình,
ổn định, huy động các nguồn lực bên ngồi để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và
uy tín của đất nước. Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối
ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.
Thể hiện trên bốn vấn đề sau:
Một là, nhiệm vụ đối ngoại trước hết phải bảo vệ được lợi ích tối cao quốc gia
- dân tộc, bảo vệ Tổ quốc bao gồm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để giữ vững hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, vấn đề đầu tiên phải xây dựng nền quốc phịng chính quy, ngày
càng hiện đại. Tuy nhiên, trong điều kiện thế giới ngày nay, để bảo vệ đất nước theo
quan điểm chỉ đạo của Đảng là giữ nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước cịn
chưa nguy thì cịn cần phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sử dụng
sức mạnh trong nước và sức mạnh bên ngồi và do đó, đối ngoại có tầm rất quan
trọng.
Hai là, nhiệm vụ đối ngoại là phải tạo lập được mơi trường hịa bình để phục

vụ cho sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Giữ vững mơi trường hịa bình bao gồm hịa bình, ổn định trên tất cả lĩnh
vực ở trong nước, là mơi trường hịa bình ở khu vực, trước hết là khu vực Đông Nam
Á, tiếp đến là khu vực Đông Á và rộng hơn là khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Chỉ trên cơ sở giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, chúng ta mới có điều kiện mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước.
Điều này càng quan trọng trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi tồn cầu hóa và cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ và tác động sâu rộng.
Ba là, đối ngoại có nhiệm vụ nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường
quốc tế. Trong các văn kiện Đại hội, Đảng ta đã khẳng định Việt Nam là bạn, là đối


1
7
tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Do đó,
hoạt động đối ngoại nhằm tăng cường quan hệ hịa bình, hữu nghị với các nước, đẩy
mạnh quan hệ hợp tác cùng có lợi với các đối tác trên các lĩnh vực khác nhau, đồng
thời làm tròn nghĩa vụ của nước thành viên và có đóng góp tích cực cho sự phát triển
của tổ chức quốc tế mà Việt Na m tham gia. Đây chính là tiền đề quan trọng để,
chúng ta có thể huy động được nguồn lực bên ngoài cùng với nguồn lực bên trong
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, đối ngoại đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là cao nhất, song Việt Nam vẫn
ln kiên trì chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Đảng và Nhà nước Việt Nam
luôn khẳng định nhiệm vụ của đối ngoại là góp phần vào cuộc đấu tranh vì mục tiêu
của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
3. Một số kết quả trong công tác đối ngoại của Việt Nam sau Đại hội XIII
3.1.

Chiến dịch ngoại giao vaccine
Ngoại giao vaccine là tìm kiếm và mở rộng nguồn cung để các đối tác song


phương và đa phương chia sẻ, cung cấp sớm nhất và nhiều nhất cho Việt Nam
vaccine, thuốc, các trang thiết bị cần thiết và chuyển giao công nghệ sản xuất
vaccine.
Dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, vừa qua các hoạt động đối
ngoại cấp cao qua kênh đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân,
đã được triển khai hết sức thần tốc, khẩn trương, quyết liệt, hiệu quả và đã đem lại
những kết quả rõ rệt.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội đã quan
tâm, chỉ đạo và tham gia trực tiếp trong các hoạt động từ ngoại giao song phương hay
đa phương, điện đàm hay viết thư cho lãnh đạo các nước, lãnh đạo các tổ chức quốc
tế và cả các hãng sản xuất vaccine... để có thể hỗ trợ cung cấp nhanh nhất vaccine
cho Việt Nam. Mọi nỗ lực đều được tập trung mạnh mẽ với những bước đi được định
hình quyết liệt ngay từ những ngày đầu bùng phát đại dịch.
Một dấu mốc quan trọng trong cơng tác Ngoại giao vaccine, đó là ngày
13/8/2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký quyết định về việc thành


1
8
lập Tổ cơng tác của Chính phủ về ngoại giao vaccine. Ngồi Bộ Ngoại giao, Bộ Y tế,
thì Tổ cơng tác có thêm các cơ quan khác như: Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an, Văn
phịng Chính phủ, Bộ Cơng Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ.
Theo thống kê của Bộ Ngoại giao, tính đến tháng 9/2021, Việt Nam đã tiếp
nhận 54 triệu liều vaccine phịng COVID-19. Trong đó, tháng 8 là hơn 16 triệu liều,
gấp đôi số lượng vaccine về trong tháng 7. Tháng 9 là hơn 20 triệu liều, gần gấp 3
lượng vaccine về trong tháng 7. Đó là kết quả của chiến dịch ngoại giao chưa từng có
tiền lệ với những nỗ lực to lớn của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội,
Bộ Ngoại giao, Bộ Y tế, các cơ quan liên quan và hơn 90 cơ quan đại diện ngoại giao
Việt Nam tại nước ngoài.

Ngoài ra, Việt Nam còn là thành viên của cơ chế COVAX và đã đóng góp
500.000 USD cho cơ chế COVAX, là một trong số ít các nước đang phát triển đóng
góp tài chính cho COVAX. Cơ chế này sẽ đảm bảo cho 20% dân số các quốc gia
tham gia được tiếp cận vaccine trong năm 2021.
Chủ động tiến công, phối hợp chặt chẽ, sáng tạo, hiệu quả, Ngoại giao vaccine
trở thành điểm sáng của ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn lịch sử hiện nay; thể
hiện quán triệt đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII, phát huy vai trò tiên phong
của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; đặc biệt
là huy động các nguồn lực bên ngồi để phịng chống dịch bệnh, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao vị thế và uy tín đất nước.
3.2. Kết quả chuyến thăm châu Âu của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ
đầu tháng 9/2021
Từ ngày 5-11/9/2021, Chủ tịch Quốc hội đã đến thăm Cộng hòa Áo, Bỉ, Liên
minh châu Âu (EU) và thăm chính thức Phần Lan. Chuyến thăm đầu tiên tới châu Âu
của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ trên cương vị Chủ tịch Quốc hội khóa XV,
thể hiện sự coi trọng quan hệ của Việt Nam đối với Liên minh châu Âu và các nước
thành viên, với tư cách là những đối tác hàng đầu của Việt Nam trong các lĩnh vực,
đặc biệt là kinh tế, thương mại và đầu tư...


1
9
Với lịch trình 5 ngày cơng tác tại 3 nước, 5 đối tác và tổng số hơn 70 hoạt
động liên tục trong đó có nhiều cuộc cấp cao và chương trình nghị sự phong phú,
chuyến thăm đã khẳng định chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước
Việt Nam, thể hiện sự chủ động, tích cực và trách nhiệm; nâng cao vị thế của Việt
Nam, đóng góp vào các nỗ lực ngoại giao chung của Đảng, Nhà nước vì lợi ích quốc
gia, dân tộc. Kết quả chuyến đi thể hiện ở 4 phương diện.
Trước hết là ngoại giao chính trị, Đồn cơng tác đã thực hiện các nhiệm vụ
theo u cầu chuyến đi và thơng qua đó đóng góp vào ngoại giao nghị viện cũng như
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được khẳng định và nâng cao. Sự

tham gia của Chủ tịch Quốc hội tại Hội nghị các Chủ tịch Quốc hội thế giới lần thứ 5
(WCSP5) khẳng định sự chủ động, trách nhiệm của Quốc hội Việt Nam vào các hoạt
động ngoại giao nghị viện đa phương.
Thứ hai là ngoại giao kinh tế, Đồn cơng tác đã thúc đẩy việc các nước của
Liên minh châu Âu tiếp tục xem xét để phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA)
cùng với Hiệp định thương mại tự do (EVFTA); đã thúc đẩy việc gỡ bỏ thẻ vàng IUU
(Khai báo hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo
quy định) đối với Việt Nam, cũng như thương mại hai bên.
Thứ ba là ngoại giao vaccine, ngoại giao vaccine đã được triển khai một cách
quyết liệt trong tất cả các hoạt động, từ phát biểu của Chủ tịch Quốc hội ở Hội nghị
các Chủ tịch Quốc hội thế giới cho đến các cuộc gặp gỡ song phương bên lề hội nghị
và các cuộc gặp gỡ ở ba quốc gia (Áo, Bỉ và Phần Lan). Trong chuyến công tác, Chủ
tịch Quốc hội đã chứng kiến các doanh nghiệp Việt Nam và đối tác nước ngoài ký kết
để sản xuất các bộ test virus SARS-CoV-2 cũng như vaccine ở Việt Nam. Đây là
những kết quả lớn và quan trọng.
Thứ tư là ngoại giao văn hóa. Bạn bè thế giới đánh giá cao phong cách, phong
thái làm việc năng động, trí tuệ, sáng tạo của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam.
Chuyến thăm đã làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ đối tác toàn
diện Việt Nam-EU trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế-thương
mại-đầu tư, khoa học-cơng nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục,
giao lưu văn hóa và phòng, chống đại dịch COVID-19.


2
0
KÉT LUẬN
Cục diện thế giới về tình hình chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội. đang có nhiều
biến động. Cuộc chạy đua về khoa học - công nghệ, sự hồi sinh của Nga, sự trỗi dậy
mạnh mẽ của Trung Quốc, Ân Độ và nhiều quốc gia mới nổi đã dẫn đến sự dịch
chuyển tương quan sức mạnh toàn cầu. Trào lưu dân chủ hóa đời sống quốc tế, sự

hợp tác ngày càng có hiệu quả của các tổ chức khu vực và liên khu vực... đã mở ra kỷ
nguyên đa phương trong mọi hoạt động của thế giới ngày nay. Nền kinh tế thế giới
đang phải đương đầu với khủng hoảng tài chính lớn, ảnh hưởng của đại dịch tồn cầu
Covid 19.
Bên cạnh đó với xu thế hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn tuy
còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định như tranh chấp về ảnh hưởng và quyền
lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên; xung đột sắc tộc, tơn giáo... Sự phát
triển mạnh mẽ của tồn cầu hóa làm cho tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia
ngày một tăng lên, và thế giới dường như thu hẹp lại trước những vấn đề toàn cầu
như: biến đổi khí hậu, bùng nổ dân số, dịch bệnh hay khủng hoảng... Có thể nhận
thấy, mọi sự biến đổi dù lớn hay nhỏ của cục diện thế giới đều tác động trực tiếp đến
việc điều chỉnh chính sách của các quốc gia. Vì vậy, cục diện thế giới là một vấn đề
mà mọi quốc gia đều phải quan tâm nghiên cứu khi hoạch định chiến lược phát triển
đất nước của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam “kiên trì, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; nâng cao khả năng thích ứng năng động và linh
hoạt xử lý hài hịa lợi ích quốc gia với quan tâm chung, tùy theo đối tượng, vấn đề,
thời điểm, phù hợp với luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử tại khu vực, trên tinh
thần lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết”. Mặt khác “Nâng cao mức độ và chất
lượng hội nhập quốc tế để mở rộng thị trường, thanh thủ nguồn vốn, công nghệ, kiến
thức và kỹ năng quản lý; nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh
nghiệp và sản phẩm; thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp trong nước, xác lập
vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị tồn cầu, đóng góp tích cực vào q trình đổi mới


2
1
mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, thu hẹp khoảng cách phát triển hơn trong khu vực và thế giới” I.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII là kim chỉ nam cho việc triển

khai công tác đối ngoại, thể hiện mạnh mẽ tính kế thừa và tinh thần đổi mới tư duy,
phù hợp thực tiễn, cũng như với thế và lực mới của đất nước. Các cơ quan trong lĩnh
vực đối ngoại và hội nhập quốc tế cần tiếp tục phải làm rõ nội hàm đường lối đối
ngoại, Tổ chức Đảng các cấp phải làm tốt công tác tổ chức quán triệt Nghị quyết Đại
hội sâu sát đến các cơ sở đảng ở trong nước và nước ngoài. Chỉ với bảo đảm sự lãnh
đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước, sự phối hợp
chặt chẽ, đồng lòng nhất trí của tồn hệ thống chính trị và tồn dân, chúng ta mới
thực hiện được thắng lợi đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi
các mục tiêu phát triển của đất nước trong những năm tới./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Quan hệ quốc tế
(Dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), NXB. Lý luận chính trị,
năm 2021.

2.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, NXB.Chính trị quốc gia Sự thật, năm 2021, tập I, II.
3.

Tạp chí cộng sản.

4.

Truyền hình đối ngoại-VTV1.

5.


Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam

6.

Bài giảng của giảng viên Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

I Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, tr.282, 283.



×