Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.73 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, có tác động trực tiếp
đến những hoạt động cơ bản của con người, cũng như q trình phát triển của lồi người,
của mỗi quốc gia. Do đó, nghiên cứu, đánh giá về mối quan hệ giữa kinh tế, chính trị là
việc làm hết sức ý nghĩa, thiết thực. Trên cơ sở đó, bài tiểu luận này sẽ tập trung nghiên
cứu, phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị. Đồng thời, phân tích, đánh giá sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị trong giai đoạn từ 30/4/1975 đến nay.
I.

Khái niệm, đặc điểm kinh tế và chính trị theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin
1


Về khái niệm kinh tế: Theo C.Mác, muốn tồn tại, con người cần phải ăn, uống,
mặc, ở, đi lại,... Tất cả những hoạt động gián tiếp hoặc trực tiếp tạo ra những thứ thỏa
mãn nhu cầu đó đều thuộc về kinh tế. Trong q trình sản xuất, con người khơng thể tiến
hành sản xuất một cách biệt lập, riêng lẻ, ngược lại, muốn sản xuất, con người chẳng
những phải có quan hệ với tự nhiên mà cịn phải có quan hệ mật thiết, tương tác, hỗ trợ
nhau. “Người ta không thể sản xuất được, nếu không biết hợp tác với nhau theo một cách
nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người
ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự
nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã
hội đó”1. Khái niệm “kinh tế” theo quan điểm của C.Mác, chứa đựng trong nó cả những
quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con người với con người trong quá
trình sản xuất vật chất. Do đó, kinh tế là tồn bộ hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi
và tiêu dùng của cải và những quan hệ giữa con người với con người, giữa con người và
tự nhiên, giữa xã hội và tự nhiên.


Về khái niệm chính trị: C.Mác khẳng định: “Tồn bộ những quan hệ ấy hợp thành
cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng
tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở
hiện thực đó”2. Điều này cho thấy, theo C.Mác, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp,
giữa các dân tộc, giữa các quốc gia có liên quan đến vấn đề giành, giữ và sử dụng chính
quyền nhà nước.
Khái niệm về kinh tế và chính trị theo quan điểm của Lênin: Trong các tác phẩm
của mình, Lênin chưa nêu ra định nghĩa hồn chỉnh về kinh tế và chính trị, tuy nhiên căn
cứ vào những tư tưởng của ơng, có thể hiểu “kinh tế” là tổng thể các hoạt động sản xuất
của một cộng đồng người, một nước, liên quan đến các quá trình sản xuất, trao đổi, phân
phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội. Cịn “chính trị” bao gồm hệ tư tưởng chính trị, các
thiết chế chính trị cũng như những mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các tập
đoàn xã hội. Trên cơ sở kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Lênin đã cụ thể
hóa hơn khái niệm chính trị bằng các luận điểm: “Chính trị là cuộc đấu tranh giữa các giai
cấp; chính trị là thái độ của giai cấp vô sản đang đấu tranh tự giải phóng mình chống giai
cấp tư sản tồn thế giới” 3; hay “Chính trị là sự tham gia vào những công việc của nhà
nước, là việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 552.
2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 15.
3 V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t. 41, tr. 482.

2


dung hoạt động của nhà nước”4. Như vậy, theo quan điểm của Lênin, chính trị là nội dung
và phương hướng hoạt động của nhà nước; là sự phản ánh những quan hệ giữa các giai
cấp, các quốc gia, dân tộc.
II.
2.1.


Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị theo quan điểm của C.Mác
Thứ nhất, kinh tế có vai trị quyết định chính trị.

Trong những tác phẩm đầu tiên của mình, theo C.Mác, trước hết con người phải có
khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết
cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Để có thức ăn,
thức uống, nhà ở, quần áo để mặc; con người phải lao động sản xuất để tạo ra những tư
liệu nhằm thoả mãn những nhu cầu tối thiểu ấy.
Theo C.Mác: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có
những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan
hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực
lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh
tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng
pháp lý và chính trị”. Như vậy, kinh tế có vai trị quyết định chính trị.
Trên cơ sở những quan điểm trước đó của C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng tất cả các
yếu tố của chính trị, từ giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhà nước, chính đảng và hoạt động
nhà nước, đến những quan điểm chi phối các hoạt động đó đều có nguồn gốc từ kinh tế.
Vì thế, cần phải lấy những quan hệ kinh tế và sự tiến triển của những quan hệ ấy để giải
thích chính trị và lịch sử chính trị, thay vì ngược lại. Điều đó cho thấy quan điểm duy vật
triệt để của C.Mác và Ph.Ăngghen khi xem xét các vấn đề lịch sử, xã hội, về vai trò của
kinh tế đối với chính trị - điều mà các nhà triết học duy vật trước đó chưa có được.
Thứ hai, chính trị có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với kinh tế.
Khơng chỉ khẳng định vai trị quyết định của kinh tế với chính trị; C.Mác ln
nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế. Điều
này trước hết được thể hiện ở chỗ, thắng lợi của chính trị là tiền đề, điều kiện tiên quyết
cho phát triển kinh tế. Việc giành lấy lợi ích chính trị khơng có mục đích tự thân, mà chỉ
4 V.I. Lê-nin: Tồn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, t. 33, tr. 404.


3


là phương thức, phương tiện để đạt lợi ích kinh tế và củng cố lợi ích kinh tế. Nói cách
khác, đấu tranh giành lợi ích chính trị cũng nhằm phục vụ cho việc giành lợi ích kinh tế,
bảo vệ lợi ích kinh tế. Do đó, C.Mác đã cho rằng, trong cách mạng vô sản, để bảo đảm sự
thống trị về mặt kinh tế của giai cấp công nhân, điều kiện đầu tiên là phải đập tan bộ máy
nhà nước tư sản, thiết lập quyền lực nhà nước của giai cấp vơ sản, vì “việc giải phóng giai
cấp cơng nhân về mặt kinh tế là mục tiêu vĩ đại mà bất kỳ phong trào chính trị nào cũng
đều phải phục tùng”5.
Tính độc lập tương đối của chính trị so với kinh tế cịn được thể hiện ở chỗ, chính
trị tạo mơi trường ổn định, đáp ứng những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của kinh
tế. Nói cách khác, chính trị lãnh đạo kinh tế, vạch hướng đi cho kinh tế, tạo những điều
kiện chính trị, xã hội cho kinh tế phát triển. C.Mác khẳng định: “Tất cả các chính phủ,
ngay cả những chính phủ chuyên chế nhất, xét đến cùng, chỉ là người thực hiện tính tất
yếu kinh tế bắt nguồn từ tình hình đất nước,... họ có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm sự phát
triển kinh tế cùng với những hệ quả về chính trị và pháp luật bắt nguồn từ sự phát triển
kinh tế ấy”6.
2.2.

Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị theo quan điểm của Lênin

Thứ nhất, cũng giống như C.Mác, Lênin khẳng định vai trị quyết định của kinh tế đối
với chính trị. Quan điểm của ơng về vai trị quyết định của kinh tế đối với chính trị được
thể hiện trong luận điểm: “Trong sản xuất vật chất, con người ở trong những mối quan hệ
nhất định với nhau, những quan hệ sản xuất. Những quan hệ này bao giờ cũng phù hợp
với trình độ phát triển của năng suất mà những lực lượng kinh tế của các quan hệ ấy có
được trong thời kỳ đó. Tồn bộ những quan hệ sản xuất đó tạo thành cơ cấu kinh tế của xã
hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng chính trị và
pháp lý và phù hợp với cơ sở đó là những hình thức ý thức xã hội nhất định. Như vậy,

phương thức sản xuất quyết định các quá trình của đời sống xã hội, chính trị và thuần tuý
tinh thần”7.
Khi phân tích bản chất của nhà nước vô sản, Lênin chỉ ra rằng, kinh tế quyết định
chính trị là vì, dù đã nắm trong tay chính quyền nhà nước, giai cấp vơ sản vẫn phải căn cứ
vào nhu cầu phát triển khách quan của kinh tế để xác định phương hướng hoạt động của
bộ máy chính trị, của cả hệ thống chính trị và lúc này kinh tế cũng quyết định tính chất,
5 C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, t.16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.24.
6 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.38, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.488.
7 V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tr. 160.

4


quy mô, mức độ và khả năng ảnh hưởng của bộ máy chính trị đối với sự phát triển tiếp
theo của kinh tế. Sự quyết định và chi phối của kinh tế đối với chính trị lúc này thường
thơng qua việc xác lập các chính sách, đường lối, cơ cấu và bộ máy tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế, xã hội và chính trị. Theo nghĩa đó, “chính trị là sự thể hiện tập trung của
kinh tế”.
Thứ hai, kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin bổ sung luận điểm
quan trọng về ảnh hưởng và tác động của kinh tế đối với chính trị: Sự phát triển của kinh
tế trong một xã hội nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến sự xuất hiện của chế độ chính trị - xã
hội mới trong lịng xã hội cũ. Ơng đã luận chứng về điều này trong điều kiện thực tiễn của
cuộc cách mạng vô sản ở Nga. Theo ông, rõ ràng là cách mạng chính trị lại diễn ra trước
khi có những biến đổi về kinh tế. Giai cấp vơ sản phải giành được chính quyền rồi mới có
thể tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời
sau khi giai cấp vơ sản nắm chắc được chính quyền, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và
thực thi các cải biến cách mạng trong lĩnh vực kinh tế. Nhưng cũng rõ ràng là trước đó,
ngay trong lịng xã hội tư bản, những cơ sở khách quan về kinh tế, xã hội, chính trị, văn
hóa cho cách mạng chính trị đã xuất hiện. Đó là hệ quả của những mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa các giai cấp đối kháng và đặc biệt là giữa kinh tế

với chính trị. Mặt khác, Lênin chỉ ra rằng, chỉ khi giai cấp vô sản nắm được tư liệu sản
xuất, biến các tư liệu sản xuất thành tài sản chung của xã hội, dựa vào đó để cải tạo nền
kinh tế theo chủ nghĩa xã hội thì nền chính trị của họ mới được bảo đảm. Như vậy, trong
thực chất, dù cách mạng chính trị diễn ra trước các cải biến kinh tế xã hội chủ nghĩa,
nhưng kinh tế vẫn quyết định chính trị, chứ khơng phải là ngược lại.
Thứ ba, Lênin luôn nhấn mạnh đến sự tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế.
Ơng khẳng định: “Khơng có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào
đó, khơng thể nào giữ vững được sự thống trị của mình, và do đó, cũng khơng thể hồn
thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”8. Với luận điểm này, ơng đã chỉ ra
vai trị của chính trị đối với kinh tế trong việc lãnh đạo, dẫn dắt các chủ thể tham gia hoạt
động kinh tế để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Thứ tư, cụ thể hóa mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Lênin đã viết: “Từ chỗ quyền lợi kinh tế đóng một vai trị quyết định, tuyệt
nhiên không thể kết luận được rằng cuộc đấu tranh kinh tế (= có tính chất nghiệp đồn) lại
có một tầm quan trọng bậc nhất, vì những quyền lợi chủ yếu, “quyết định” của các giai
8 V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t. 42, tr. 350.

5


cấp, nói chung, chỉ có thể thỏa mãn được bằng những cuộc cải biến chính trị căn bản; cịn
quyền lợi kinh tế trọng yếu của giai cấp vơ sản, nói riêng, chỉ có thể thỏa mãn được bằng
một cuộc cách mạng chính trị thay thế chuyên chính của giai cấp tư sản bằng chun
chính vơ sản”9. Qua đây, có thể thấy, khi chưa nắm được chính quyền, giai cấp vơ sản
khơng thể đạt được mục tiêu kinh tế. Chỉ có bằng việc nắm lấy quyền lực chính trị thì họ
mới có thể đạt được những quyền lợi kinh tế căn bản. Như thế có nghĩa rằng, chính trị có
tác động to lớn đến kinh tế.
Ngồi ra, Lênin cịn nhấn mạnh vị trí ưu tiên của chính trị đối với kinh tế khi đấu
tranh chống những biểu hiện khác nhau của “chủ nghĩa kinh tế”. Ơng viết: “Chính trị
khơng thể khơng chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế. Lập luận một cách khác đi, tức là

quên mất những điều sơ đẳng của chủ nghĩa Mác” 10. Vị trí hàng đầu ở đây trước hết phải
được hiểu là việc giành chính quyền nhà nước và củng cố, giữ vững chính quyền đó phải
đuợc xem là nhiệm vụ hàng đầu thì mới có thể giải quyết được các nhiệm vụ kinh tế. Nếu
khơng có đường lối chính trị đúng đắn, giai cấp vô sản không thể giữ vững được sự thống
trị của mình, và do đó, cũng khơng thể hồn thành nhiệm vụ kinh tế của mình. Nhưng khi
giai cấp vơ sản đã nắm được chính quyền thì những vấn đề về kinh tế, tổ chức và quản lý
sản xuất, tổ chức lại nền kinh tế quốc dân lại trở thành nhiệm vụ hàng đầu.
III.

Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị từ năm 1975 đến nay

Khi nghiên cứu về sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị, theo tác giả, ta nên bắt đầu phân tích từ thời điểm 30/4/1975, bởi vì kể
từ thời điểm đó non sơng Việt Nam được nối liền một dải, cùng dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nền kinh tế và chính trị của Việt Nam từ sau thời điểm thống
nhất đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trải qua nhiều thay đổi, cải cách, chuyển
biến quan trọng. Có giai đoạn chúng ta đã có những chính sách khơng phù hợp dẫn đến
nền kinh tế trì trệ, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, Đảng ta với tinh
thần nhìn thẳng vào sự thật đã chỉ ra những sai lầm về đường lối, chính sách và kịp thời
khắc phục, sửa chữa để có được thành tựu như hơm nay. Có thể tạm chia thành 02 giai
đoạn để thấy rõ được mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị Việt Nam có những thay đổi,
chuyển biến tích cực dưới sự lãnh đạo của Đảng như sau:
9 V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t. 6, tr. 59.
10 V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977 t. 42, tr. 349

6


Giai đoạn 1: Từ 30/4/1975 đến trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của

Đảng năm 1986;
Giai đoạn 2: Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 đến nay.
3.1.

Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị từ 30/4/1975 đến trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng năm 1986

Sau ngày 30/4/1975, đất nước hồn tồn giải phóng, Đảng và nhân dân ta bước vào
thời kỳ mới, thời kỳ khôi phục, xây dựng, kiến thiết, sớm đưa đất nước tiến lên xã hội chủ
nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, các chủ trương, chính sách,
biện pháp của Đảng ở một số mặt trong thời kỳ này chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt
ra, đặc biệt là những chủ trương, đường lối trong lĩnh vực kinh tế (những vấn đề liên quan
đến lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất).
Trong giai đoạn này, có thể thấy rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính
trị tác động trở lại đối với kinh tế, tuy nhiên sự tác động này mang tính chất tiêu cực, dẫn
đến nhiều hệ lụy không tốt. Giai đoạn này, Đảng chủ trương tập trung phát triển kinh tế
theo hướng xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân và thiết lập chế độ sở hữu Nhà nước. Theo đó, ở
miền Bắc, Đảng chủ trương củng cố và hoàn thiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
dưới hai hình thức tồn dân và tập thể. Ở miền Nam, Đảng chủ trương tiến hành cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
các thành phần kinh tế ở đây là: sử dụng, hạn chế và cải tạo cơng nghiệp tư bản tư doanh
chủ yếu bằng hình thức cơng tư hợp doanh; chủ trương hợp tác hố nông nghiệp; cải tạo
thủ công nghiệp bằng con đường hợp tác hoá là chủ yếu; cải tạo thương nghiệp nhỏ chủ
yếu bằng cách chuyển dần sang sản xuất,…11.
Tuy nhiên, việc tiến hành cải tạo một cách ào ạt các thành phần kinh tế, cũng như
việc quá coi trọng thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng việc
giải quyết các khâu tổ chức, quản lý sản xuất và phân phối đã dẫn tới việc khơng tìm ra cơ
chế gắn người lao động với sản xuất. Tính chủ động, sáng tạo của người lao động bị giảm
đi vì mọi tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội phải được sử dụng theo phương hướng và

nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước. Tư liệu lao động từ chỗ là tài sản riêng của người lao
động bỗng chốc trở thành những tư liệu được tập thể hoá nên đã làm suy yếu đi một lực
lượng sản xuất to lớn, lợi ích cá nhân khơng được coi trọng đúng mức.
11 Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, , truy cập ngày 17/11/2022.

7


Bên cạnh đó, các cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía
Bắc trong giai đoạn này cũng ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc khôi phục, xây dựng và
phát triển đất nước của Đảng ta. Đất nước vừa trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, đang bước vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, kiến thiết đất nước, lại
phải tiếp tục huy động sức người, sức của để bước vào cuộc kháng chiến ở biên giới Tây
Nam và phía Bắc cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến tình hình kinh tế của đất nước ở giai
đoạn này.
Đảng ta cũng đã nhận ra và những có những chấn chỉnh để phù hợp với tình hình
kinh tế tại giai đoạn này, tuy nhiên việc tổ chức thực hiện còn mắc quá nhiều sai lầm, tư
tưởng nóng vội muốn xố bỏ ngay chế độ tư hữu để mau chóng xác lập một quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến khơng ít tổ chức kinh tế được gọi là công tư hợp doanh,
hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất, chỉ có hình thức, khơng có thực chất của quan hệ sản xuất
mới.
Từ những chính sách kinh tế khơng hợp lý, tình hình xung đột ở biên giới Tây
Nam và biên giới phía Bắc, cùng sự chống phá của các thế lực trong và ngồi nước đã dẫn
đến tình trạng kinh tế của nước ta bị trì trệ khơng đáp ứng nhu cầu của nhân dân, nhiều
nhu cầu chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất tinh thần chưa được đảm
bảo.
3.2.

Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 đến nay


Trước tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng
chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thơng có nhiều rối ren; những mất
cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm
được củng cố; đời sống nhân dân lao động cịn nhiều khó khăn,… Tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ
sự thật. Cùng với việc đánh giá đúng những thành tích đã đạt được, ở Đại hội này, chúng
ta chú trọng kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích sâu sắc những sai lầm và khuyết
điểm, vạch rõ nguyên nhân, nêu ra biện pháp khắc phục, xác định nhiệm vụ và mục tiêu
phấn đấu cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ”12.
Đại hội hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI nhận định, trong những năm 1976 - 1980,
trên thực tế ta đã chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hố trong khi chưa có đủ các tiền đề
12 Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V, truy cập ngày 17/11/2022.

8


cần thiết; vừa nóng vội, vừa bng lỏng trong cơng tác cải tạo xã hội chủ nghĩa; chậm đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế khơng cịn phù hợp. Trong những năm 1981 - 1985, Đảng
chưa cụ thể hoá đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên, chưa kiên quyết khắc phục
chủ quan, nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa
và quản lý kinh tế, lại phạm sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu
thơng, đã bng lỏng chun chính vơ sản trong quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh
tư tưởng, văn hoá, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại thâm độc của
kẻ thù. “Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về
chỉ đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện”.
Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm
về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn,
nóng vội, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng. Những sai lầm và khuyết điểm trong

lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức
và công tác cán bộ của Đảng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã đề ra những quyết sách hết
sức quan trọng về kinh tế như:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu,...;
- Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xun với những
hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất,...;
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
- Giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực và có hiệu quả các chính sách
xã hội.
- Tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại.
Trong chủ trương xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, Đảng
xác định rõ: xây dựng quan hệ sản xuất mới cả ba mặt, làm cho nó thật sự mang bản chất
xã hội chủ nghĩa, gắn với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất, là công việc to lớn,
không thể làm xong trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, khác với những năm trước đây,
là những năm mà trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa
9


nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối
dài. Từ Đại hội VI trở đi, nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần. Các thành phần kinh tế đó là:
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng
với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó;
- Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hố (thợ thủ cơng,
nơng dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là cơng tư hợp

doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên và các vùng khác.
Từ sự thay đổi về chính sách, chủ trương của Đảng tại Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ VI có thể thấy rõ được quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về kinh tế quyết
định chính trị là hồn tồn phù hợp. Tại giai đoạn này, nhận thấy nền kinh tế đất nước bị
ảnh hưởng nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, Đảng ta đã phải thay đổi
cho phù hợp, vừa đảm bảo con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa, vừa hoàn thành mục tiêu
kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ấm no.
Có thể thấy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI là bước ngoặc đối với đất nước
ta. Tinh thần nhìn thẳng sự thật, chỉ rõ những khuyết điểm của Đảng và điều chỉnh chủ
trương, chính sách nhằm khắc phục của Đảng đã dẫn đến những chuyển biến tích cực về
tình hình kinh tế của đất nước ta. Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã
thu được những thành tựu quan trọng, tình hình lương thực, thực phẩm có chuyển biến
tốt. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1989 còn phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, đến thời
điểm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Việt Nam đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong
nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân và cải thiện
cán cân xuất nhập khẩu; hàng hoá thị trường, nhất là hàng tiêu dùng, dồi dào, đa dạng, lưu
thông thuận lợi.
Kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã luôn xác định
vận dụng tư duy đổi mới, sáng tạo, đưa ra những chủ trương chính sách pháp luật về kinh
tế phù hợp để đưa phát triển nền kinh tế đất nước, hội nhập cùng các nền kinh tế trên thế
giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Có thể kể đến các sự kiện quan
trọng như: bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ (1995); gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) năm 2006; ban hành, sửa đổi, bổ sung các Bộ luật, Luật điều chỉnh
các quan hệ về kinh tế cho phù hợp với mỗi giai đoạn. Qua đó, chỉ ra Đảng ta luôn lấy
10


kinh tế làm gốc rễ, kịp thời điều chỉnh, hoạch định các chính sách, đường lối ngoại giao
phù hợp để đưa nền kinh tế nước ta từng bước phát triển, nâng tầm vị thế trong khu vực

và trên thế giới.
Thế và lực của đất nước sau 35 năm đổi mới đã lớn mạnh hơn nhiều cả về quy mô
và sức cạnh tranh của nền kinh tế; tình hình chính trị - xã hội, kinh tế vĩ mô ổn định, niềm
tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội tăng lên; tính tự chủ được cải thiện; tích luỹ và
nâng cao năng lực quản trị nhà nước, điều hành phát triển kinh tế - xã hội; uy tín, vị thế
đất nước ngày càng được củng cố trên trường quốc tế. Chất lượng tăng trưởng kinh tế
từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch sang chiều sâu, hiệu quả
sử dụng các yếu tố đầu vào cho nền kinh tế được cải thiện đáng kể. Nguồn lao động dồi
dào, có khả năng thích nghi tốt với những thay đổi khoa học và công nghệ. Kinh tế hội
nhập ngày càng sâu rộng, một số hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới quan trọng
như Hiệp định đối tác tồn diện và tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định
đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU
(EVFTA),... đòi hỏi phải cải cách thể chế kinh tế mạnh mẽ hơn nữa, tạo cơ hội mở rộng
thị trường, đầu tư cho phát triển công nghiệp và thực hiện cơng nghiệp hố. Khu vực tư
nhân đóng góp ngày càng lớn vào phát triển kinh tế đất nước. Các lĩnh vực văn hố, xã
hội, mơi trường, quốc phịng, an ninh, đối ngoại được quan tâm và có sự chuyển biến tích
cực; tầng lớp trung lưu gia tăng nhanh; vẫn còn cơ hội cơ cấu dân số vàng; thành quả xây
dựng nông thôn mới được củng cố, đời sống mọi mặt của người dân không ngừng được
cải thiện13.
Trong thời gian đến, mặc dù tình hình trong nước và thế giới sẽ gặp nhiều khó
khăn, biến động bởi đại dịch Covid-19, suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, Đảng ta, với tinh
thần không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong
từng giai đoạn; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đường lối đổi mới
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trên cơ sở tiếp tục kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả ln tin rằng nền kinh tế đất
nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ ngày càng phát triển vượt bậc, vị trí Việt Nam trên
trường quốc tế sẽ ngày càng được nâng tầm.

13 Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII,

truy cập ngày
18/11/2022.

11


KẾT LUẬN
Vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị để kịp thời có những điều chỉnh, bước đổi mới phù hợp với
thực tiễn là hết sức cần thiết, địi hỏi tinh thần dám nhìn nhận những sai lầm khuyết điểm
của người cộng sản. Đảng ta đã với tinh thần đó, đã có những quyết sách phù hợp, kịp
thời, vận dụng linh hoạt giữa vấn đề đổi mới tư duy kinh tế và đổi mới tư duy về nền tảng
tư tưởng trên cơ sở kế thừa những giá trị cốt lõi về chủ nghĩa Mác – Lênin đã từng bước
khắc phục sai lầm, yếu kém, đưa đ ất nước vượt qua những khó khăn và đạt được nhiều
thành tựu đáng tự hào. Nhờ có đường lối kinh tế đúng đắn đó đất nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng: đất nước thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội,
tăng trưởng kinh tế ln ở mức cao, tình hình chính trị ổn định, quốc phòng an ninh vững
chắc, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, vị thế đất nước ngày càng được
nâng cao trên trường quốc tế,… Những thành tựu đó chính là cơ sở để khẳng định đường
lối kinh tế đúng đắn của đảng ta trong giai đoạn hiện nay.

12



×