Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Mối quan hệ giữa kinh tế, chính trị và biểu hiện của nó trong chế độ tư bản chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.43 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
__________________________________________

TIỂU LUẬN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊ-NIN

Đề tài:
Mối quan hệ giữa kinh tế, chính trị và biểu hiện của nó trong chế độ
tư bản chủ nghĩa. Từ đó rút ra ý nghĩa và liên hệ với thực tế
Tác giả: Phạm Mạnh Cường
Mã SV: 11130593
Hướng dẫn khoa học: Lê Ngọc Thông

Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2014
1


Lời mở đầu
Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan hệ cơ bản, tồn tại khách quan
trong mọi xã hội có phân chia giai cấp và được tổ chức thành nhà nước;
là mối quan hệ mật thiết giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng;
quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan; giữa cái tất yếu và cái có
thể… Nhận thức đúng và giải quyết thành công quan hệ giữa kinh tế và
chính trị là vấn đề có ý nghĩa quyết định chiều hướng, nội dung, nhịp độ,
hiệu quả và mức độ bền vững của sự phát triển nói chung.Để hiểu thêm
các vấn đề về này,tôi biên soạn bài luận này để làm rõ thêm về mối quan
hệ giữa kinh tế,chính trị và biểu hiện của nó trong chế độ tư sản. Từ đó
giúp mọi người có thể hiểu rõ về ý nghĩa và cách áp dụng của nó vào
thực tế để đạt được hiệu quả tối ưu nhất.


Lần đầu viết luận nên khó tránh khỏi sai sót,rất mong nhận được sự đóng
góp của thầy giáo bộ môn để lần sau được hoàn thiện hơn.
Xin cảm ơn thầy Lê Ngọc Thông đã giúp em hoàn thành bài tiều luận
này.

2


Tác giả:Phạm Mạnh Cường
Mục lục:
I.

Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế
1. Khái niệm “chính trị” và “kinh tế”
2. Quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế
3. Mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị là mối quan hệ
khách quan
4. Mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị cũng là mối quan

II.
1.
2.
3.

III.

hệ giữa xã hội với chính trị
Sự biểu hiện trong chế độ tư bản
Chủ nghĩa tư bản
Biểu hiện của kinh tế trong chế độ tư bản

Biểu hiện của chính trị trong chế độ tư bản
Tổng kết

Phần nội dung
3


I. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế
1. Khái niệm “chính trị” và “kinh tế”
“Chính trị” theo nghĩa chung nhất được hiểu như hoạt động liên
quan đến mối quan hệ giữa các nhóm xã hội lớn, trước hết là
giữa các giai cấp, xét rộng hơn nữa là quan hệ giữa các dân tộc,
giữa các quốc gia trên thế giới. Xét về thực chất,chính trị là
quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp,các nhóm xã hội,các quốc
gia dân tộc, trong đó trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế trong
việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Ph.Ăng ghen
khẳng định rằng: chính trị là sự thống nhất của giai cấp này đối
với các giai cấp khác trong xã hội, là việc một giai cấp hay liên
minh giai cấp nào đó nắm quyền lực để cai trị các giai cấp
khác, để lãnh đạo các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Còn theo
LêNin, trong chính trị vấn đề cốt lõi nhất là” thiết chế quyền
lực nhà nước”. Phạm vi của chính trị, trước hết bao hàm “sự
tham gia vào các công việc nhà nước, đinh hướng hoạt động
của nhà nước, xác định hình thức, nhiệm vụ,nội dung hoạt động
của nhà nước”. Như vậy, một vấn đề sẽ mang tính chính trị,
nếu việc giải quyết nó động chạm đến lợi ích của giai cấp xa
hội, đến quyền lực nhà nước. Do chính trị là quan hệ giữa các
giai cấp xã hội, tức là sản phẩm của xã hội có giai cấp gắn liền
với sự ra đời, phát triển của nhà nước,nên nó là hiện tượng lịch
sử. Điều đó có nghĩa, nó có quá trình hình thành, phát triển và

tiêu vong như mọi quá trình,hiện tượng lịch sử xã hội khác. Đã
có lúc xã hội loài người tồn tại mà không có chính trị và cũng
sẽ có lúc xã hội không cần đến chính trị với tư cách cơ quan
quyền lực nhà nước nữa.
Trong chính trị , vấn đề nắm quyền lực chính trị (biểu hiện tập
trung ở quyền lực nhà nước) là một mục tiêu trọng tâm trực tiếp
mà giai cấp, nhóm xã hội nào cũng hướng tới. Bởi vì, giai cấp,
4


lực lượng nắm quyền lực chính trị cũng đồng nghĩa với việc
nắm được công cụ cơ bản để giải quyết quan hệ lợi ích với các
giai cấp, nhóm xã hội khác theo hướng có lợi cho giai cấp
nhóm mình. Nắm được quyền lực nhà nước giai cấp thống trị
có điều kiện thực hiện lợi ích giai cấp mình bằng cách xây
dựng hệ thông pháp luật phản ánh ý chí nguyện vọng của bản
thân triển khai thực hiện đường lối chính sách và quan điểm lợi
ích của chính nó.
“Kinh tế” là một phạm trù dung để chỉ tổ hợp tất cả các quan hệ
kinh tế ( quan hệ giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất)
của một xã hội ở thời điểm lịch sử xác định, để chỉ cơ sở kinh
tế của xã hội. Trong tổ hợp tất cả các quan hệ ấy thì quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai quyết định, chi phối các
quan hệ kinh tế khác, như quan hệ tổ chức sản xuất xã hội,
quan hệ phân phối sản phẩm. Như vậy, lực lượng, giai cấp xã
hội nào nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất cơ bản, thì
cũng có quyền quyết định trong tổ chức quản lý sản xuất và
phân phối sản phẩm.
Khái niệm kinh tế còn được đùng để chỉ toàn bộ các lĩnh vực,
các ngành khác nhau của 1 nền kinh tế quốc dân ( như công

nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…). Ngoài ra, khái niệm kinh tế
cũng có thể được dung ở nghĩa: chỉ một tính chất đặc trưng thể
hiện mục tiêu then chốt, đó là tính hiệu quả ( năng suất, chất
lượng, giải hao phí….) của mọi quá trình sản xuất kinh doanh.
Từ việc phân tích nội hàm của các khái niệm “chính trị” và
“kinh tế”,
Khi nghiên cứu vai trò của chính trị đối với kinh tế, chúng ta có
thể tiếp cận từ những phương tiện sau:
Thứ nhất, từ quan hệ của các lĩnh vực cơ bản của chính trị,
quyền lực chính trị( đường lối, chính sách; tổ chức, thiết chế
5


chính trị; người lãnh đạo chính trị ) với toàn bộ nền kinh tế nói
chúng.
Thứ hai, từ quan hệ của chính trị, quyền lực chính trị nói chung
với các lĩnh vực kinh tế cơ bản ( nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ…) hoặc với các quan hệ kinh tế cơ bản , như quan hệ
sở hữu, quan hệ quản lý quan hệ phân phối, hoặc với các hoạt
động kinh tế, như hoạt động kinh tế trong nước hoạt động kinh
tế đối ngoại.
Thứ ba, từ cấp độ quan hệ hẹp, cụ thể hơn, như chính sách về
nhông nghiệp chính sách về sở hữu…..
2. Quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế
Có thể khẳng định rằng, quan hệ giữa chính trị với kinh tế bao
hàm những nội dung và hình thức khác nhau,tùy thuộc vào góc
độ nghiên cứu khác nhau, đặc trưng bản chất của quan hệ này
được biểu hiện ở quan hệ của việc nắm và thực hiện quyền lực
chính trị với tính hiệu quả của nền kinh tế.
Quan điểm mác-xít về quan hệ biện chứng giữa chính trị và

kinh tế cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu vai trò của chính
trị đối với kinh tế. Khi phân tích mối quan hệ này, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định rằng, thực chất đây
là bộ phận cốt lõi, quan trọng nhất của quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng, thể hiện ở vai trò
quy định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng và
tính độc lâp tương đối, sự tác động trở lại của kiến trúc thượng
tầng với cơ sở hạ tầng. Trong tất cả các bộ phận của kiến trúc
thượng tầng, chính trị là yếu tố liên quan,tác động trực tiếp đến
hạ tầng cơ sở của xã hội.Trong khi khẳng định kinh tế đóng vai
trò cơ sở, nền tảng, cốt lõi, vật chất khách quan của chính trị,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê nin đánh giá rất cao
vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế. Sự tác động
của chính trị đối với kinh tế được thể hiện ở nhiều phương diện
6


khác nhau bao hàm cả yếu tố tích cực lẫn tiêu cực, quy lại có ba
chiều hướng: thúc đẩy kinh tế phát triển; kìm hãm sự phát triển
của kinh tế; thúc đẩy phương diện này; kìm hãm phương diện
kia của kinh tế. Sự tác động của chính trị đối với kinh tế được
thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau, bao hàm cả yếu tố tích
cực lẫn tiêu cực, quy lại có ba chiều hướng: thúc đẩy kinh tế
phát triển; kìm hãm sự phát triển của kinh tế; thúc đẩy phương
diện này, kìm hãm phương diện kia của kinh tế.
Kế thừa tư tưởng cơ bản của C.Mác và Ăng ghen về quan hệ
của chính trị với kinh tế, trong quá trình trực tiếp lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới ở Liên Xô, V.I.Lê nin tiếp
tục phát triển những luận điểm lý luận về quan hệ của chính trị
với kinh tế. Thống nhất với C.Mác và Ph. Ăng ghen, V.I.Lê nin

cho rằng, phát triển LLSX, phát triển sản xuất là một trong
những cơ sở, tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tác động của chính
trị đối với kinh tế. Với tư cách là một lý luận cách mạng bằng
con đường hiện thực,học thuyết mác xít đặt mục tiêu căn bản
và quan trọng là giải phóng sức sản xuất. Trong lý luận đó giai
cấp tư sản trở thành đối tượng của cách mạng vô sản không
phải chỉ do đối lập tình cảm giai cấp, mà căn bản là do trong
những điều kiện đương thời, giai cấp tư sản đã trở thành một
trong những lực lượng xã hội chủ yếu cản trở sự phát triển của
LLSX nói riêng, của toàn bộ nền sản xuất nói chung. Theo tinh
thần đó, nhận thức và giải quyết quan hệ chính trị với kinh tế
bên cạnh việc phải xý thức tới vị trí và lợi ích của giai cấp cầm
quyền thì yêu cầu cơ bản, nền tảng cần phải tính tới là quan hệ
và sự tác động của chính trị với kinh tế phải vì mục tiêu phát
triển sức sản xuất. Điều này có nghĩa, xét từ phương diện vai
trò của chính trị đối với kinh tế thì một giai cấp xã hội, một
thiết chế chính trị xã hội, một đường lối chính sách nào đó chỉ
7


được coi là tiến bộ, là phù hợp với xu thế phát triển, khi sự tồn
tại và hoạt động của nó tạo điều kiện thúc đẩy và tạo đã cho sức
sản xuất phát triển.
Sự phát triển, bổ sung của V.I.Lê nin vào quan điểm của C.Mác
và Ph. Ăng ghne về vai trò của chính trị đối với kinh tế được
thể hiện đặc biệt rõ nét ở hai luận điểm kinh điển của Người: “
Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” và “chính trị
không thể không chiếm địa vị hang đầu so với kinh tế”
Về luận điểm thúc nhất: “ Chính trị là sự biểu hiện tập trung
của kinh tế”. Luận điểm này có cơ sở từ chính thực tiễn của quá

trình phát triển lịch sử xã hội loài người, nó chỉ rõ nguồn gốc
và bản chất của chính trị. Luận điểm này cần được hiểu như sau
:
Sự hình thành, tồn tại và phát triển của chính trị là trên cơ sở
những đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế, của thực
trạng kinh tế, của sự liên hệ những lợi ích kinh tế căn bản của
các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong nên kinh tế. Chẳng hạn,
phong trào công nhân, công đoàn, các đảng cộng sản… như là
sự phản ánh trực tiếp vị trí, những lợi ích cơ bản của giai cấp
công nhân công nghiệp trong thời kỳ cách mạng công nghiệp.
Sự phản ánh đó có tính chất tập trung, thông qua việc hình
thành những tổ chức chính trị, những chính sách để từ đó giải
quyết những vấn đề quyết định mục tiêu và động lực của sự
phát kinh tế, tạo điều kiện, tạo môi trường và đảm bảo cho hoạt
động kinh tế diễn ra suôn sẻ. Điều này được thể hiện rõ qua vai
trò và tác dụng rất lớn của phát luật, chính sách kinh tế trong
hoạt động kinh tế ở xã hội tư bản hiện đại. Hoặc qua vai trog
quyết định, khởi xướng của các quyết sách chính trị đổi mới,cải
cách kinh tế ở các nước XHCN. Ở đây, sự thay đổi căn bản và
đáng kể trong kinh tế bao giờ cũng được bắt đầu bằng những
quyết định chính trị.
8


Là “ sự biểu hiện tập trung của kinh tê”, nền chính trị phải
mang trong mình quy định kinh tế khách quan. Nghĩa là, phải
phản ánh nó trong cấu trúc, trong phương thúc hoạt động của
các thành tố cấu thành nên hệ thống chính trị, trong các quyết
sách chính trị. Những yêu cầu, điều kiện của quy luật kinh tế
khách quan cần phải được tôn trọng và tuân thủ, kể cả tri

trường hợp những yêu cầu đó trước mắt có thể mâu thuẫn, trái
ngược với mong muốn, mục đích chủ quan của giai cấp, nhóm
xã hội cầm quyền. Điều này thường xảy ra ở các nước đang
phát triển. Tại đây, nhà nước thông qua các chính sách của
mình phải chấp nhận và duy trì sự bát bình đẳng trong thu nhập
ở mức độ nào đó để có sự tăng trưởng, phát triển. Bời vì, sự bất
bình đẳng trong kinh tế ở mức nhất định lại là nhân tố thúc đẩy
sự đổi mới sản xuất và công nghệ, tức là có tác dụng thúc đảy
sự phát triển. do những nguyên nhân khách quan của sự vận
động và phát triển kinh tế, sự bất bình đằng rất có thể lạ là bước
tất phải qua đẻ đạt tới sự bình đẳng hơn. Hay như ở thực tế
nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản và Nhà nước CHXHCN Việt
Nam chấp nhận, tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của
các thành phần kinh tế ohi XHCN( kinh tế tư bản tư nhân, kinh
tế tư bản nước ngoài….), mặc dù xét về bản chất, các thành
phần kinh tế đó không phù hợp với bản chất chế độ chính trị
XHCN của chúng ta.
Về luận điểm thứ hai : “Chính trị không thể không chiếm địa vị
hang đầu so với kinh tế”. Có được nhận thức đúng “ Chính trị
là biểu hiện tập trung của kinh tế”, vì thế cơ bản là có đủ cơ sở
để khẳng định “ Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng
đầu so với kinh tế”.
Về phương diện nhận thức, việc khẳng định sự ưu tiên của
chính trị so với kinh tế là đúng, hợp lý. Bởi vì, ưu tiên cho
9


chính trị là ưu tiên cho những vấn đề căn bản, quyết định đối
với sự phát triển của bản thân kinh tế.
Về phương diện thực tiễn, giành, nắm quyền lực chính trị là

điều kiện cần có ý nghĩa quyết định đề giai cấp cách mạng triển
khai xây dựng một chế độ kinh tế - xã hội vì lợi ích của bản
thân và những giai cấp, lực lượng xã hội đồng minh với mình.
Hơn thế, trong thực tê nếu không có một đường lối chính trị
đúng đắn thì mội giai cấp nhất định không thể giữ vững được
sự thông nhất chính trị của mình và do vậy cũng không thể
hoàn thành được nhiệm vụ kinh tế. Như Lê nin đã khẳng định:
“không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất
định nào đó, không thể giữ vững được sự thống trị của mình và
do đó,cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình
trong lĩnh vực sản xuất”.
Ưu tiên chính trị còn với nghĩa chính trị là thành quả đạt được,
tức là sự vận động phát triển kinh tế phải tính đến việc bảo vệ
và phát triển thành quả chính trị đã đạt được, phải chịu sự chi
phối của thành quả chính trị. Một lực lượn, giai cấp xã hội khi
đã nắm được quyền lực chính trị trong tay, tất yếu phải sử dụng
quyền lực đó để điều hành, lái sự phát triển xã ội nói chung,
kinh tế nói riêng theo hướng đem lại lợi ích nhiều nhất, tạo ưu
thế cho chính bản thân giai cấp, nhóm mình. Đồng thời, mọi
hành động,chính sách phát triển kinh tế, xã hội do giai cấp nắm
quyền lực chính trị ấy đề xướng và khai triển, xét đến cùng, đều
hướng tới mục tiêu củng cố quyền lực chính trị của họ. Rõ
ràng, ở đây chính trị, nói cụ thể hơn là duy trì, bảo vệ quyền lực
chính trị của giai cấp, lực lượng nắm quyền, luôn là ưu tiên
hàng đầu.
Hiểu đúng hai luận điển nêu trên của V.I.Lê nin, sẽ giúp chúng
ta trong lý luận và thực tiễn, tránh được cả khuynh hướng tuyện
đối hóa chính trị lẫn khuynh hướng tuyệt đối hóa kinh tế 10



những sai lầm rất dễ mắc phải trong thời kì đổi mới CNXH
hiện nay.
Có thể khẳng định,các nhà kinh điển mác xít đều thống nhất
rằng, quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị được thể
hiện ở chỗ, kinh tế và chính trị là hai mặt thống nhất biện
chứng trong một hình thái kinh tế- xã hội nhất định. Trong sự
tác động qua lại giữa hai lĩnh vực này của đời sống xã hội thì
kinh tế giữ vai trò quy định đối với chính trị; quan hệ kinh tế,
quan hệ sản xuất là những quan hệ vật chất quy định quan hệ
chính trị. Vai trò quy định của kinh tế được thể hiện ở những
điểm sau: Thứ nhất, với tư cách nền tảng vật chất, cơ cấu kinh
tế hiện thực của xã hội, kinh tế sản sinh ra một kết cấu, thể chế
chính trị tương ứng. Thứ hai, xét đến cùng sự biến đổi căn bản
trong kinh tế dẫn đến sự biến đổi căn bản trong chính trị. Với
sự biến đổi căn bản của kinh tế, thì trong chính trị trước sau
cũng diễn ra những biến đổi tương ứng. Khi trong kinh tế chưa
diễn ra những thay đổi căn bản thì trong lĩnh vực chính trị cũng
khó xảy ra biến động gì đáng kể.
Quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị còn là sự tác động
trở lại của chính trị đối với kinh tế. Chủ nghĩa duy vật mác xít
chỉ ra rằng, chính trị nảy sinh nền tảng kinh tế, chịu sự quy định
của kinh tế, xong nó lại mang tính độc lập tương đối. Chính trị
không phải là sản phẩm thụ động của kinh tế mà nó tác động
trở lại rất mạnh đối với kinh tế. Trong hệ thống chính trị của xã
hội thì nhà nước có vai trò tất yếu đặc biệt quan trọng, quyết
định sự hiện thực hóa các tất yếu kinh tế, vì như Ph.Ăng ghen
chỉ rõ: “ Bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một
tiềm lực kinh tế”.
Khái quát lại, tác động của chính trị đối với kinh tế được biểu
hiện ở xu hướng chủ đạo: nếu sự tác độnh đó phù hợp với quy

luật vận động của kinh tế, yêu cầu của LLSX, thì thúc đẩy kinh
11


tế phát triển. Nếu tác động không phù hợp với quy luật vận
động kinh tế, thì sẽ cản trở, kìm hãm sự phát triển kinh tế. Nếu
nhận thức đúng và hành động phù hợp với những quy luật kinh
tế, thì chính trị thực hiện được vai trò định hướng những hoạt
động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế.
Có thể nói, xã hội ngày càng phát triển, thì vai trog của chủ thể
xã hội càng tăng. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vai trò của chính
trị trở nên đặc biệt quan trọng, nếu không nói là quyết định.
3. Mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị là mối quan hệ giữa
khách quan với chủ quan
Như chúng ta đó biết, mỗi hình thái kinh tế vận động phát
triển dưới hình thức một phương thức sản xuất nhất định, bao
gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Lực
lượng sản xuất trong kinh tế thị trường dựa trên nền tảng cơ sở
kỹ thuật nhất định do đòi hỏi của cạnh tranh. Ngày nay, sự phát
triển của lực lượng sản xuất nhờ những tiến bộ và cách mạng
khoa học và công nghệ, nhờ sự phù hợp của thể chế kinh tế và
quản lý. C.Mác coi đó là "quá trình lịch sử - tự nhiên". Những
thời kỳ phồn vinh hay suy thoái kinh tế đều có chung nguồn
gốc từ mối quan hệ giữa yêu cầu của lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất và thể chế quản lý. Đó là mối quan hệ giữa
khách quan (kinh tế) với chủ quan (chính trị) thể hiện trong
suốt tiến trình đổi mới vừa qua.
Trong những năm thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP)
Lênin đó rút ra nguyên lý về mối quan hệ giữa kinh tế với

chính trị:
"Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính trị không
thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế"

12


Nguyên lý đó chỉ ra rằng: đường lối chính sách phải phản ánh
được nhu cầu và quy luật kinh tế. Chỉ trong điều kiện đó, chính
trị mới lãnh đạo, quản lý kinh tế có hiệu quả, mới giữ được vai
trò chính trị. Thực tiễn những thời kỳ sau này đó xác nhận tính
đúng đắn của nguyên lý ấy biểu hiện ở những thất bại của các
đảng cầm quyền rơi vào chủ quan duy ý chí trong lãnh đạo và
quản lý kinh tế - xã hội.
4. .Mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị cũng là mối quan hệ
giữa xã hội với chính trị
Qúa trình phát triển kinh tế thị trường tác động đến phát triển
xã hội từ hai mặt:
Một là,sự phát triển phân công lao động xã hội dần dần làm
thay đổi cơ cấu xã hội dân cư. Xãhội Việt Nam sau hơn 20 năm
chuyển sang kinh tế thị trường đó khác xã hội trước đổi mới
về phân tầng xã hội và cơ cấu xã hội dân cư. Sự biến đổi này sẽ
dẫn đến những thay đổi về yêu cầu việc làm và hưởng thụ, về
nhân sinh quan, thế giới quan của xã hội, trước hết là thế hệ trẻ.
Hai là,sự phát triển kinh tế sẽ dần dần làm thay đổi nhu cầu
của dân cư về cơ cấu và chất lượng sản phẩm. Do đó làm thay
đổi mức sống và lối sống của dân cư, sự phát triển xó hội và cá
nhân. Như vậy, sự phát triển kinh tế thị trường nảy sinh những
đòi hỏi mới về mặt xã hội mà chính trị phải giải quyết.
Do phân công lao động phát triển, nên xã hội dần dần được tổ

chức thành các Hội nghề nghiệp, đại biểu cho lợi ích và nguyện
vọng của hội viên. Đó là xã hội dân sự, đóng góp ngày càng
tăng cho phát triển kinh tế và ổn định xã hội... ở các nước phát
triển kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa chính trị và xã hội thể
hiện ở mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và xã hội dân
sự. Đó là một trong ba trụ cột của nền dân chủ.

13


Như vậy, mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị còn bao gồm
cả mối quan hệ xã hội với chính trị. Nếu chỉ quan tõm chạy theo
tăng trưởng kinh tế một chiều, không đồng hành với phát triển
xã hội thì chính trị sẽ kìm hãm phát triển kinh tế và tạo ra nguy
cơ mất ổn định xã hội.

II. Sự biểu hiện trong chế độ tư bản chủ nghĩa
1.

Chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội của xã hội
loài người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển
từ trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác
lập như một hình thái xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 17.
Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18 hình thái chính trị của "nhà
nước tư bản chủ nghĩa" dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu
Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong
kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư
bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới. Sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản (với tư cách một hình thái kinh tế) từ chủ nghĩa

phong kiến không do một lý thuyết gia nào xây dựng. Tuy
14


nhiênA.Smith là người có đóng góp to lớn nhất xây dựng một
hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự
do hay tự do kinh tế. Chủ nghĩa tư bản không đồng nhất với chủ
nghĩa tự do dù nền tảng là kinh tế tư hữu, nói cách khác chủ
nghĩa tư bản là một trong các hình thái kinh tế của sản xuất tư
hữu, và đối lập với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng sở hữu công
cộng. Các chính sách an sinh xã hội trong nền kinh tế tư bản
không phải là thành tố của chủ nghĩa tư bản, và cũng không phải
biểu hiện đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Chính xác hơn là nó là
một biểu hiện của một nền kinh tế được điều chỉnh ít nhiều bởi
nhà nước.
Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là nhìn
nhận quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do sản xuất và kinh
doanh được xã hội bảo vệ về mặt luật pháp và được coi như
một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của con người. Trong
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không loại trừ hình thức sở hữu
nhà nước và sở hữu toàn dân và đôi khi ở một số nước tại một
số thời điểm tỷ trọng của các hình thức sở hữu này chiếm không
nhỏ (hay còn gọi là mô hình kinh tế hỗn hợp), nhưng điều cơ
bản phân biệt xã hội của chủ nghĩa tư bản với xã hội đối lập với
nó là xã hội cộng sản là trong xã hội tư bản chủ nghĩa quyền tư
hữu đối với phương tiện sản xuất được xã hội và pháp luật bảo
vệ, sự chuyển đổi quyền sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự
được pháp luật và xã hội quy định. Còn chủ nghĩa cộng sản và
phần lớn trường phái chủ nghĩa xã hội công nhận quyền sở hữu
tập thể và nhà nước đối với phương tiện sản xuất.

Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở
hữu tư nhân để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư
nhân để thu lợi nhuận thông qua cạnh tranh trong các điều kiện
của thị trường tự do: mọi sự phân chia của cải đều thông qua
quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình
kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành thành phần kinh tế tư
nhân là thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ
15


nghĩa. Có thể nói các yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư
nhân, kinh doanh tự do,cạnh tranh, động lực lợi nhuận, tính tự
định hướng tự tổ chức, thị trường lao động, định hướng thị
trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải là các khái niệm
gắn liền với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
2.

Biểu hiện của kinh tế trong chế độ tư bản
"Chủ nghĩa tư bản" hay các định nghĩa, lý thuyết liên quan
đến "chủ nghĩa tư bản" (CNTB) có thể được hiểu là một hệ
thống các quan điểm, các định nghĩa được những người cộng
sản, những chính khách theo phe cộng sản và các chính khách
cánh tả khác đưa ra để xác định một chế độ xã hội trong đó có
sự sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất gắn với nền công nghiệp
có năng suất lao động cao làm bộc lộ bản chất "bóc lột" lao
động làm thuê của các "nhà tư bản". Do ảnh hưởng lý luận theo
quan điểm duy vật biện chứngvà duy vật lịch sử, nhiều lý thuyết
gia khái quát "chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa". Trong khi đó
nhiều học giả khác không coi chủ nghĩa tư bản là một hình thái
kinh tế xã hội hay gắn nó với chế độ chính trị. Quan niệm của

họ chủ nghĩa tư bản chỉ phản ánh một quan hệ sản xuất trên nền
tảng chế độ tư hữu hay nguyên tắc vốn và lãi khi tham gia vào
thị trường. Ở các nước mà những người cộng sản gọi là theo chế
độ chính trị "tư bản chủ nghĩa" (đối lập với xã hội chủ nghĩa) thì
không có định nghĩa rõ ràng thế nào là CNTB trong các văn
kiện pháp luật hay các văn kiện mang tầm cỡ quốc gia (không
quy định trong Hiến pháp,...). Về mặt chính trị, ở những "quốc
gia tư bản" quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt
không hề bị nghi ngờ, họ không đưa ra khái niệm thế nào là nhà
nước CNTB mà chỉ định nghĩa các chế độ chính trị như thế nào
thì được gọi là một nhà nước quân chủ lập hiến, quân chủ hợp
hiến, nhà nước dân chủ, quân phiệt, chế độ độc tài, chế độ cộng
hòa.v.v..Không có đảng nào mang tên Đảng tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên những người theo phái xã hội chủ nghĩa,... thường
cho là các cuộc bầu cử của chế độ tư bản đem lại lợi thế cho giai
16


cấp tư sản, và bảo vệ chế độ tư bản nên khái quát thành "chính
trị tư bản chủ nghĩa".
Do nhận thức khác nhau trên cơ sở kinh tế hay chính trị, "các
nước tư bản" thường tự gọi họ là các nước thuộc "Thế giới tự
do", trong khi gọi các nước đảng cộng sản lãnh đạo là "các nước
cộng sản"; trong khi đó các nước đảng cộng sản lãnh đạo gọi
nước họ là "các nước xã hội chủ nghĩa", và các nước kinh tế tư
bản chủ đạo là "các nước tư bản", và không gọi các nước tuyên
bố "xã hội chủ nghĩa" (trong Hiến pháp,v.v.) nhưng không do
đảng cộng sản lãnh đạo là "các nước xã hội chủ nghĩa".
Có thể nói rằng hình thái kinh tế xã hội mà những người cộng
sản gọi là "CNTB" tồn tại dựa trên quan hệ cho vay lãi và cho

thuê, điều này hoàn toàn đối lập với quy luật bảo toàn và chuyển
hóa của thế giới vật chất (một trong ba "chân vạc" trong hệ
thống lý luận của những người cộng sản): vật chất không thể tự
sinh ra vật chất, tiền không thể đẻ ra tiền.
Thành phần kinh tế tư nhân: Trong giai đoạn phát triển đầu
tiên tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản thành phần kinh tế tư
nhân chiếm toàn bộ nền kinh tế. Sau này cùng với mô hình kinh
tế chủ nghĩa tư bản nhà nước với sự can thiệp điều phối của nhà
nước vào quá trình kinh tế thì tỷ trọng của thành phần tư nhân
có giảm xuống nhưng đối với một nền kinh tế tư bản đặc trưng
nó luôn chiếm tỷ trọng là thành phần lớn nhất trong nền kinh tế.
Thành phần kinh tế tư nhân đóng vai trò năng động, lực đẩy
quyết định tính hiệu quả của nền kinh tế tư bản, còn thành phần
kinh tế nhà nước chủ yếu để giải quyết các vấn đề xã hội đảm
bảo công ăn việc làm cho lực lượng lao động, tránh gây xáo trộn
lớn trong xã hội và để kinh doanh trong các ngành cần thiết
nhưng khó sinh lời. Theo thời gian giữa hai thành phần này
thỉnh thoảng lại có sự hiệu chỉnh bằng các quá trình tư nhân
hoá hoặc quốc hữu hoá doanh nghiệp thông qua việc bán và
mua các cổ phần của doanh nghiệp.
17


Nền sản xuất lớn và động lực lợi nhuận: Khác với nền sản
xuất phong kiến là nền sản xuất lấy ruộng đất làm phương tiện
sản xuất cơ bản và sở hữu ruộng đất là đặc quyền của vua, quý
tộc và lãnh chúa, ngành kinh tế chính là nông nghiệp vàthương
mại. Kinh tế tư bản chủ nghĩa bác bỏ đặc quyền về ruộng đất
hoặc bất cứ độc quyền của tầng lớp quý tộc, thượng lưu nào.
Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là tự do kinh doanh lấy công

nghệ, máy móc, và chất xám làm phương tiện sản xuất chính và
là nền kinh tế định hướng sang công nghiệp, dịch vụ và thương
mại. Sự định hướng này hoàn toàn do yếu tố lợi nhuận vàthị
trường điều phối. Do phương tiện sản xuất là công nghệ, tri thức
nên nền sản xuất tư bản chủ nghĩa để có lợi nhuận tối đa luôn có
xu hướng hướng đến "nền sản xuất lớn" với sự tái đầu tư mở
rộng và gắn liền với cách mạng khoa học-công nghệ. Việc nâng
cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh là lợi ích sống
còn của các chủ sở hữu doanh nghiệp trong cạnh tranh giành lợi
nhuận.
Mua bán sức lao động (thị trường lao động): đây là đặc
điểm rất nổi bật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong nền
kinh tế phong kiến và các nền kinh tế cấp thấp lực lượng nhân
công (nông dân, nông nô) bị phụ thuộc vào chủ đất (địa chủ,
lãnh chúa) và quý tộc về mặt pháp lý, họ bị gắn chặt vào ruộng
đất và ý chí của chủ đất và quý tộc. Còn nhân công (người lao
động) trong kinh tế tư bản chủ nghĩa về mặt pháp lý là hoàn
toàn bình đẳng với chủ sở hữu doanh nghiệp (người thuê lao
động). Giữa người thuê lao động và người lao động ràng buộc
kinh tế với nhau bằng hợp đồng lao động: người lao động và
chủ doanh nghiệp mua bán sức lao động theo các yếu tố của thị
trường. Công nhân có thể thanh lý hợp đồng lao động với người
thuê lao động này và sang làm việc cho người thuê lao động
khác và nếu muốn cùng với có khả năng hoặc may mắn thì cũng
có thể trở thành chủ doanh nghiệp.Cả xã hội TBCN là một thị
trường lao động lớn và thường thì cung ứng lao động nhiều hơn
yêu cầu lao động, do vậy trong xã hội tư bản chủ nghĩa thường
18



tồn tại nạn thất nghiệp. Do vậy, người lao động thường bị "mua
rẻ" sức lao động của mình, một phần giá trị thặng dư mà họ tạo
ra bị nhà tư bản chiếm đoạt, dẫn đến tình trạng công nhân bịbóc
lột trong xã hội tư bản. Điều này những người cánh tả (xã hội,
cộng sản...) ra sức loại bỏ bằng việc chủ trương áp dụng các
chính sách về giờ lao động, trả lương... Tuy nhiên nguy cơ của
nạn thất nghiệp cũng đóng vai trò kích thích người lao động
nâng cao kỹ năng và kỷ luật lao động trong cuộc chạy đua bảo
vệ chỗ làm việc.
Kinh tế thị trường và cạnh tranh: Vì nền kinh tế được điều
hành bởi cá nhân và các doanh nghiệp tư nhân định hướng đến
quyền lợi cá nhân nên kinh doanh trong kinh tế tư bản chủ nghĩa
về cơ bản là tự điều hành, tự phát sinh theo quy luật của thị
trường tự do và quy luật cạnh tranh hay đó là nền kinh tế thị
trường tự do (để phân biệt với nền kinh tế thị trường nhưng có
sự can thiệp của Nhà nước - kinh tế hỗn hợp).

3.

Biểu hiện của chính trị trong chế độ tư bản
Chính vì đặc điểm kinh tế cơ bản là quyền tư hữu đối với
phương tiện sản xuất và kinh tế thị trường tự do kinh doanh nên
đã kéo theo các đặc điểm khác về mặt luật pháp, triết học và tâm
lý của xã hội tư bản chủ nghĩa:
Tính năng động và tự phát của thị trường: Mọi giá trị kinh
tế, văn hoá, chính trị, xã hội đều có thể và phải được lượng giá
bằng tiền tệ trong các mối quan hệ xã hội, dựa trên sự lượng giá
đó để đánh giá giá trị đối với xã hội, do đó sự lượng giá các giá
trị này hoàn toàn mang tính thị trường và thay đổi rất nhanh
19



theo thời gian, xã hội chuyển biến như một thị trường các giá trị
lên giá và xuống giá rất nhanh. Một mặt, nó khuyến khích các
chủ thể sáng tạo nhằm mục tiêu thu lợi cho mình, mặt khác, nó
cũng gây ra sự hỗn loạn của nền kinh tế (đầu cơ trục lợi, khủng
hoảng thừa, đầu tư mất cân đối, cạnh tranh tư bản dẫn tới độc
quyền...). Sự hỗn loạn này đã tạo ra các cuộc khủng hoảng kinh
tế theo chu kỳ trong suốt quá trình lịch sử của chủ nghĩa tư bản.
Quyền cá nhân: Đối với xã hội tư bản chủ nghĩa cá nhân là
chủ thể trung tâm của xã hội: là người sáng tạo ra của cải vật
chất và tinh thần, là lực lượng lao động chính của xã hội. Cá
nhân có trách nhiệm hoàn toàn trước xã hội và có các quyền bất
khả xâm phạm. Quyền lợi của cá nhân trong xã hội tư bản chủ
nghĩa được khẳng định nếu nó không phủ định quyền của cá
nhân khác hoặc xâm phạm đến trật tự của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa, quyền lợi của giai cấp tư sản (chủ thuê lao động). Ở
đây khái niệm cá nhân là rất cụ thể.
Đa đảng và đa nguyên chính trị: Vì nền tảng kinh tế tư bản
chủ nghĩa khước từ mô hình chỉ huy tập trung, kinh tế tư bản đề
cao sự hành động của cá nhân nên trong xã hội cũng hiếm có
với những quan điểm hoặc tín lý mang tính chi phối áp đảo. Các
quốc gia tư bản chủ nghĩa không có giáo lý chung cho "chủ
nghĩa" của hệ thống này. Xã hội tư bản chủ nghĩa không bắt
buộc công nhận bất cứ "chủ nghĩa", học thuyết hoặc nhân vật
thần thánh nào. Tôn giáo cũng bị phán xét, mọi lý thuyết xã hội,
chính trị hoặc lý luận của các tổ chức và cá nhân đều phải qua
thực tế kiểm nghiệm và phán xét công khai và được chấp nhận
hoặc loại bỏ. Do đó chế độ chính trị của xã hội tư bản chủ nghĩa
thường dựa trên chế độ đa đảng cạnh tranh và đa nguyên chính

trị. Đây là đặc điểm tư tưởng chính trị khác nhau cơ bản của
một "nhà nước tư bản chủ nghĩa" với một "nhà nước xã hội chủ
nghĩa", cộng sản chủ nghĩa hoặc một nhà nước thần quyền.
Tuy nhiên không phải chủ nghĩa tư bản luôn đi kèm với đa
nguyên, đa đảng, mà nó có thể len lỏi vào các chế độ nhất
20


nguyên, hay độc tài - chuyên chế, mà biểu hiện của nó thường
kinh tế thị trường không hoàn thiên, sự tồn tại của chủ nghĩa tư
bản nhà nước, tư nhân và nước ngoài, hạn chế cạnh tranh hay
cạnh tranh không bình đẳng.

III. Tổng kết
Việc nghiên cưu mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị có ý
nghĩa rất quan trọng và nhiều ứng dụng trong thực tế. Dựa vào
các học thuyết kinh tế chính trị nói chung giúp chúng ta trong
việc mở rộng và nâng cao hiểu biết về nền kinh tế thị trường,
trang bị những kiến thức cần thiết trong việc nghiên cứu, xây
dựng đường lối, chiến lược phát triển kinh tế của đất nước,
chiến lược kinh doanh…..
Trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới và hội nhập, đổi mới tư duy kinh tế có một ý nghĩa vô
cùng quan trọng để có thể nhận thức và phân tích những mặt
mạnh, mặt yếu của các chính sách kinh tế đã và đang được thực
hiện tại nhiều quốc gia. Từ đó mới có thể đề xuất để hoạch định,
nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo những chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình
xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.


21


22



×