Quan niệm về phương thức thực hiện vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần
Để duy trì định hướng XHCN, phải đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó là xác đáng vì hầu hết
các thành phần kinh tế khác (trừ kinh tế tập thể) đều có xu hướng phát triển
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Để làm được điều đó mà không kìm hãm sự phát triển của các thành
phần kinh tế khác, kinh tế nhà nước, mà chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước
phải có hiệu quả kinh tế, có năng suất lao động và tốc độ tăng trưởng bằng
hoặc cao hơn doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong điều
kiện cạnh tranh bình đẳng.
Trong thực tiễn hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước phần lớn kém hiệu
quả hơn, có năng suất lao động, lợi nhuận trên vốn và tốc độ tăng trưởng
thấp hơn so với doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Các hiện tượng lãng phí, vô trách nhiệm, tham nhũng, tiêu cực phổ
biến chủ yếu trong hoặc liên quan đến khu vực kinh tế nhà nước. Thực tế ở
các nước phát triển cho thấy ngay cả trong điều kiện áp dụng chế độ quản lý
tiên tiến, doanh nghiệp nhà nước vẫn kém hiệu quả hơn so với doanh nghiệp
tư nhân.
Việc các doanh nghiệp nhà nước không thể có hiệu quả kinh tế bằng
doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì 3 lý do căn bản:
- Quan hệ sở hữu: Sở hữu nhà nước được đại diện bởi những người
không phải là chủ thực sự của tài sản được giao phó. Lợi ích của họ
không nhất thiết đồng nhất với lợi ích của nhà nước, thậm chí trong
nhiều trường hợp cụ thể còn mâu thuẫn.
- Cơ chế quản lý, phân phối chưa hoàn thiện để làm rõ trách nhiệm cá
nhân trên mỗi cương vị, chưa gắn đầy đủ quyền lợi của người lao
động với kết quả lao động, chưa đảm bảo vai trò làm chủ của người
lao động.
- Y thức tự giác, làm chủ của người lao động chưa cao.
Khắc phục những lý do này, nhất là hai lý do cuối là một quá trình còn
lâu dài, phải trên cơ sở sự phát triển của khoa học quản lý, của sự nghiệp
giáo dục con người, không thể giải quyết một sớm một chiều. Vì vậy, điều
1
dễ hiểu là trong thời gian trước mắt, đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước phải có
hiệu quả kinh tế cao hơn các khu vực khác là không thực tế.
Vậy làm thế nào vừa đảm bảo được giải phóng sức sản xuất, vừa đảm
bảo lâu dài vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước?
Một trong những giải pháp cơ bản là Nhà nước phải hành động như một
nhà tư bản lớn nhất trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế.
Trong giai đoạn hiện nay, không một nhà tư bản lớn nào lại đầu tư và quản
lý 100% vốn của doanh nghiệp. Phương châm chủ yếu là dính líu, tham gia
sơ hữu để chi phối cả quá trình quản lý lẫn phân phối lợi nhuận. Nhà nước
không nên là chủ đầu tư 100% vốn của doanh nghiệp (trừ lĩnh vực an ninh,
quốc phòng và một số lĩnh vực đặc thù khác) mà nên trở thành cổ đông,
trong nhiều trường hợp là cổ đông chi phối của các doanh nghiệp có vị trí và
ảnh hưởng quan trọng trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp lớn đó, đến lượt
mình, có thể đầu tư vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ có hiệu quả kinh tế và
năng suất lao động cao, tạo ra những mạng lưới kinh tế thống nhất. Kinh tế
Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo thông qua khả năng chi phối các mạng
lưới kinh tế này.
Ưu điểm của phương thức này so với mô hình chủ yếu dựa vào các doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước là:
- Với sự tham gia quản lý của các cổ đông, nhất là của người lao động
là cổ đông trực tiếp, sẽ hạn chế và khắc phục được tình trạng lãng
phí, vô trách nhiệm, tham nhũng và tiêu cực, từ đó nâng cao được
hiệu quả đầu tư của Nhà nước.
- Tạo được sự gắn bó, thống nhất lợi ích giữa kinh tế nhà nước với các
thành phần kinh tế khác. Khắc phục được tình trạng hình thành chiến
tuyến riêng biệt giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế
khác.
- Mở rộng được quy mô ảnh hưởng chi phối của kinh tế nhà nước. Với
cùng một số vốn, nhà nước sẽ có thể chi phối nhiều doanh nghiệp
hơn so với việc sử dụng số vốn đó tập trung 100% vào doanh nghiệp
nhà nước.
Để làm như vậy, Nhà nước cần lựa chọn và chỉ giữ lại một số doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước thực sự cần thiết trong một số lĩnh vực, khâu
nhất định; mạnh dạn cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước còn lại, trong
đó chỉ giữ lại cổ phần chi phối trong các doanh nghiệp có hiệu quả hoặc có
2
vai trò kinh tế-xã hội quan trọng; ban hành Luật cổ phần hoá bắt buộc các
doanh nghiệp phát triển đến quy mô nhất định phải thực hiện cổ phần hoá;
thành lập các công ty tài chính để chủ động đầu tư vào các doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển tốt (khắc phục tình
trạng hiện nay là thực hiện đa dạng hoá sở hữu chỉ chủ yếu thông qua cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước); Có chiến lược đào tạo cán bộ giỏi, có cơ
chế và chính sách đãi ngộ phù hợp để tuyển chọn và sử dụng cán bộ đại diện
cho lợi ích của Nhà nước trong các doanh nghiệp tư bản nhà nước. Làm
được điều đó, chúng ta sẽ vừa giải phóng được sức sản xuất, phát triển được
kinh tế, vừa có thể đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền
kinh tế làm công cụ kinh tế giữ vững định hướng XHCN.
Không gian phi Thị trường - tiêu chí của tiến bộ xã hội
Thị trường là công cụ cần thiết để phát triển kinh tế trong thời kỳ kinh
tế hàng hoá. Thị trường là một cơ chế khách quan có những quy luật, đặc thù
riêng. Thị trường đích thực có vai trò tích cực trong việc thúc đẩy tăng năng
suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế, kịp thời đáp ứng nhu cầu sản xuất
và tiêu dùng. Về phương diện kinh tế, chủ nghĩa tư bản đã khai thác và phát
huy khá thành công vai trò tích cực đó của thị trường trong gần 3 thế kỷ qua.
Tuy nhiên, ở lĩnh vực này, một trong các nguyên nhân thuộc về bản chất tạo
nên sự bế tắc không thể khắc phục được của chủ nghĩa tư bản là sự tuyệt đối
hoá vai trò của thị trường. Dưới chế độ tư bản, thị trường từ cơ chế để thực
hiện việc trao đổi hàng hoá đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng lại trở
thành cơ chế chung chi phối hầu hết các mặt của đời sống xã hội. Xu hướng
thương mại hoá lan tràn sang cả các khu vực phi kinh tế. Về cơ bản, mọi
không gian của đời sống đều bị biến thành không gian cạnh tranh dưới sự
chi phối của sức mạnh đồng tiền. Cơ chế đó đảm bảo quyền lực thống trị
tuyệt đối và toàn diện của giai cấp tư sản đối với toàn xã hội. Khái niệm "tự
do" được truyền bá nhưng thực chất cuối cùng là tự do của những ai giàu có,
là tự do của "con thú tư bản" trong "khu rừng xã hội". Cùng có quyền được
sống nhưng ai có tiền thì có thể mua các bộ phận thân thể của người khác để
thay thế cho mình; cùng với quyền được bình đẳng trước pháp luật nhưng
kết quả xử án lại phụ thuộc vào khả năng có tiền để thuê được luật sư giỏi;
3
tự do báo chí thực chất chỉ là tự do phát ngôn của các ông chủ các phương
tiện thông tin đại chúng; bầu cử tự do nhưng khả năng tranh cử cũng như kết
quả bầu cử phụ thuộc một phần lớn vào số tiền đóng góp của các trùm tư
bản. Về hình thức, ai cũng có quyền, nhưng trên thực tế, việc có thực hiện
được các quyền đó hay không lại phụ thuộc vào khả năng tài chính của mỗi
người. Đó là bản chất và là bi kịch của chủ nghĩa tư bản.
Một xã hội lành mạnh, có mục tiêu phát triển vì con người phải là một
xã hội vừa đảm bảo sự bình đẳng của con người trên những nhu cầu cơ bản,
thiết yếu, vừa tạo cơ hội để con người thể hiện sự khác nhau trong năng lực
có thể phát huy, nghĩa là vừa có không gian của thị trường và có không gian
phi thị trường. Không gian thị trường là không gian của cạnh tranh, là không
gian với thước đo là hiệu quả kinh tế, là không gian thể hiện sự chênh lệch,
khác nhau của năng lực con người và do đó, con người có thể không bình
đẳng. Không gian phi thị trường là không gian của sự bình đẳng, đảm bảo
đáp ứng các quyền và nhu cầu cơ bản cho tất cả mọi người. Không gian thị
trường bị chi phối bởi các quy luật kinh tế. Không gian phi thị trường gắn
với các giá trị thể hiện bản chất xã hội, là biểu hiện của mức độ tiến bộ xã
hội.
Một xã hội thực sự dân chủ thì phải luôn luôn đảm bảo cho một số
lĩnh vực tuyệt đối không bị thương mại hoá, không chịu sự tác động, chi
phối của đồng tiền tư nhân như hoạt động của bộ máy nhà nước, an ninh,
quốc phòng, v.v nghĩa là phải hoàn toàn là không gian phi thị trường.
Bên cạnh đó, không gian thị trường và không gian phi thị trường có
thể cùng tồn tại trong một lĩnh vực nhất định. Thí dụ:
- Giáo dục: con người phải bình đẳng về cơ hội và điều kiện để học
tập, tiếp thu những tri thức cần thiết cho cuộc sống và lao động phù hợp với
năng lực của mình. Thương mại hoá giáo dục là triệt tiêu sự bình đẳng đó, là
làm cho những người nghèo, dù có khả năng trí tuệ cũng không được học
đúng năng lực. Nhà nước cần đảm bảo hệ thống các trường công lập ở tất cả
các cấp mà việc theo học các trường này không phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế của gia đình học sinh, chỉ phụ thuộc vào khả năng học tập của học
sinh. Số lượng các trường và học sinh được vào học các trường này phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế của đất nước. Kinh tế càng phát triển, số lượng
các trường này phải càng nhiều tiến tới đảm bảo giáo dục miễn phí ở tất cả
các cấp cho mọi người. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không thể
4
để tình trạng những người thông minh, ham học không thể theo học vì
không có tiền.
- Y tế: con người phải bình đẳng về cơ hội và điều kiện để được cứu
sống và sống không có bệnh hiểm nghèo. Chữa bệnh mà bắt buộc phải trả
tiền dưới bất cứ hình thức nào đều triệt tiêu đi sự bình đẳng đó, là tước đi
quyền cơ bản đó của những người nghèo. Việc đảm bảo chữa bệnh, trước
hết là các bệnh đe doạ tính mạng con người, một cách miễn phí và rộng rãi
là điều kiện để thực hiện quyền bình đẳng của con người trong lĩnh vực này.
Với sự phát triển của nền kinh tế, phạm vi các nhu cầu chữa bệnh được
miễm phí phải được mở rộng tương xứng để tiến tới mọi nhu cầu đều được
miễn phí hoàn toàn, thậm chí không cần bảo hiểm y tế.
- Việc làm: loại việc làm cụ thể với điều kiện làm việc và thu nhập
khác nhau phụ thuộc vào năng lực của từng người, nhưng có việc làm và thu
nhập là nhu cầu cơ bản của mỗi một người có khả năng lao động. Xã hội
luôn luôn có nhu cầu về lao động nhưng có loại lao động tạo ra lợi nhuận và
lao động không tạo ra lợi nhuận. Nếu phó mặc việc giải quyết lao động cho
thị trường tức là chỉ sử dụng lao động tạo ra lợi nhuận thì không thể giải
quyết vấn đề thất nghiệp, là sự lãng phí xã hội và gạt một số người ra khỏi
đời sống xã hội. Mở rộng dịch vụ cộng đồng, các doanh nghiệp và hoạt động
lao động công ích, các cơ sở vừa học vừa làm, đào tạo và đào tạo lại là giải
pháp để thực hiện quyền bình đẳng của con người trong lĩnh vực này. Đối
với những người già yếu, tàn tật, không có khả năng lao động, Nhà nước
phải có chương trình chăm sóc riêng để đảm bảo các nhu cầu cơ bản cho họ.
- Nhà ở: là một trong những nhu cầu tối thiểu của con người. Phó mặc
cho thị trường có nghĩa là sẽ có những người không có nhà ở. Nhà nước phải
có chính sách đảm bảo tiêu chuẩn nhà ở phù hợp cho người nghèo, không
thể để thị trường quyết định toàn bộ.
- Văn hoá: tiếp cận với các giá trị văn hoá là nhu cầu của mỗi con
người. Nếu thương mại hoá mọi dịch vụ văn hoá thì sẽ làm nghèo nàn đời
sống tinh thần của đa số người nghèo. Xã hội phải đảm bảo bao cấp phần
văn hoá đại chúng để vừa đáp ứng nhu cầu văn hoá cơ bản của nhân dân vừa
phổ cập các giá trị văn hoá chân chính. Kinh tế càng phát triển thì mức độ và
phạm vi bao cấp phải càng cao. Chỉ cho phép thương mại hoá một số hoạt
động, lĩnh vực văn hoá đáp ứng một số thị hiếu và nhu cầu nhất định.
- Thể thao, rèn luyện thân thể: là nhu cầu của số đông. Cần đảm bảo
không gian và điều kiện để rèn luyện thân thể, phát triển thể thao đại chúng
tại mọi địa bàn dân cư. Chỉ cho phép thu tiền dịch vụ đối với một số dịch vụ
hoặc cơ sở, loại hoạt động thể thao nhất định đáp ứng cho các nhu câù cao
hơn.
5
Cách phân tích tương tự có thể tiếp tục phát triển đối với các lĩnh vực
khác như dịch vụ luật pháp, khoa học-công nghệ, thông tin,môi trường,
chính sách đối với các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, miền núi Các
không gian thị trường và phi thị trường này có mối quan hệ phụ thuộc, tác
động lẫn nhau nhưng không thể đồng nhất hoá. Tỷ trọng so sánh giữa không
gian thị trường và không gian phi thị trường trong mỗi lĩnh vực cần phù hợp
với trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Một xã hội thực sự vì con
người, hướng tới tiến bộ xã hội thì khi kinh tế càng phát triển cao, không
gian phi thị trường phải càng được mở rộng tương ứng, các nhu cầu của
quần chúng càng phải được đáp ứng ở mức càng cao hơn và đầy đủ hơn.
Nếu không gian thị trường lấn át không gian phi thị trường thì xã hội sẽ tha
hoá, bất công. Còn nếu không gian phi thị trường chiếm tỷ trọng quá lớn so
với trình độ phát triển của kinh tế thì sẽ kìm hãm sự phát triển.
Ơ các nước tư bản phát triển hiện nay, điều kiện kinh tế lẽ ra đã có thể
cho phép mở rộng đáng kể không gian phi thị trường, đáp ứng khá đầy đủ
các nhu cầu cơ bản của mọi người dân ở mức tương đối cao. Trong những
thập kỷ qua, do kết quả đấu tranh của nhân dân lao động và để ổn định xã
hội, chính phủ một số nước đã phải điều chỉnh để phi thị trường hoá, tăng
phúc lợi xã hội trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, tuy nhiên, về cơ bản là
chưa tương xứng với mức phát triển kinh tế. Nhưng ngay những thành tựu
có được đó vẫn luôn luôn bị thách thức trước những biến động chính trị và
kinh tế, bởi mục tiêu lợi nhuận trên hết. Và trong thế giới tư bản nói chung,
giai cấp tư sản về bản chất luôn có xu hướng cắt giảm các chương trình xã
hội, hạn chế vai trò của nhà nước, thả nổi cho thị trường. Như ở Mỹ, ngay cả
nhà tù cũng trở thành đối tượng kinh doanh.
Đối với một nước đinh hướng XHCN, quyền lợi của quần chúng lao
động là mục tiêu trên hết. Do đó, cần đảm bảo không gian phi thị trường và
chủ động điều chỉnh để mở rộng không gian phi thị trường một cách tương
xứng với sự tăng trưởng kinh tế. Sự mở rộng quá mức hay tuyệt đối hoá
không gian phi thị trường như thời kỳ bao cấp trước đây là không phù hợp.
Mặt khác, để thị trường bành trướng quá mức trong nhiều lĩnh vực đời sống
xã hội sẽ tạo ra bất công, tiêu cực xã hội, đe doạ ổn định chính trị và trật tự
xã hội, là đi chệch định hướng XHCN.
Thị trường là công cụ cần thiết để phát triển kinh tế nhằm tạo tiền đề
vật chất để thực hiện các mục tiêu xã hội vì con người. Sử dụng nó ra sao sẽ
là một trong những yếu tố quyết định định hướng phát triển và bản chất của
mỗi xã hội.
6
Một số vấn đề về xây dựng Đảng
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cần có chuyên chính của
nhân dân lao động được đảm bảo một phần quyết định thông qua vai trò lãnh
đạo của Đảng. Đảng chỉ có thể đảm đương và thực hiện có hiệu quả vai trò
này nếu Đảng luôn luôn biết tự nâng mình lên tầm đỉnh cao của "lương tâm
và trí tuệ của thời đại"
Ơ thời kỳ đầu, các Đảng cộng sản thường tập hợp được rất nhiều
người thực sự là tiêu biểu cho "lương tâm và trí tuệ", có uy tín và sức thu hút
mạnh mẽ, có năng lực lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi thử thách hiểm
nghèo. Nhưng sau đó, trong thời gian cầm quyền, hầu hết các Đảng dần dần
có biểu hiện trì trệ, quan liêu, xa rời quần chúng, trong bộ phận lãnh đạo
luôn có xu hướng tham quyền cố vị. Việc đổi mới đường lối chính sách cơ
bản và nhân sự của Đảng thường diễn ra rất khó khăn, chủ yếu là sau khi
phải trả giá bằng những giai đoạn khủng hoảng, thậm chí sụp đổ. Uy tín thực
sự của lãnh đạo trong đảng viên và nhân dân không cao, không còn "tâm
phục, khẩu phục".
Tại sao lại có những hiện tượng đó? Tại sao lý luận của Đảng không
thể thường xuyên đi trước thực tiễn để dẫn lối, soi đường? Tại sao Đảng rất
đông đảng viên, tập hợp những người ưu tú nhất nhưng Đại hội nào cũng
"đốt đuốc tìm nhân sự"? Tại sao việc thay đổi nhân sự của chúng ta, thậm
chí thay đổi những đồng chí lãnh đạo mà mọi người đều biết là không đủ
trình độ, kiến thức lại diễn ra một cách khó khăn, đôi khi thậm chí là đau
đớn như vậy? Tại sao các vụ tham nhũng, tiêu cực không hề được các chi bộ
phát hiện và ngăn chặn? Tại sao đảng viên không còn có thể thẳng thắn,
chân tình trong sinh hoạt Đảng? Tính hệ thống, phổ biến và kéo dài của các
hiện tượng này đòi hỏi chúng ta phải xem xét một cách rất nghiêm túc và
căn bản những nguyên nhân và tìm ra cho mình câu trả lời thực sự khoa học
và cách mạng. Nhắm mắt trước thực tiễn đó hoặc tự ru ngủ đều là như thấy
bệnh mà không chữa, chắc chắn sẽ dẫn đến tự diệt vong.
Trước hết về mặt lý luận, chúng ta cần thực sự giải phóng tư duy.
Sức mạnh của chủ nghĩa cộng sản là tính khoa học và tính cách mạng.
Sức mạnh của người cộng sản là sự thật, là chân lý. Để vươn tới chân lý, tới
đỉnh cao của "trí tuệ thời đại" cần luôn luôn có tư duy mở, tiếp cận với
những thành tựu và kể cả những vấn đề mới nhất của trí tuệ nhân loại. Chính
7
Mác và Lê Nin là những tấm gương của tự phủ định, không ngần ngại công
nhận những khiếm khuyết, sai lầm của mình để phát triển không ngừng học
thuyết của mình. Tuyệt đối hoá, tạo ra những vùng cấm trong tư duy là đi
ngược lại với các nguyên lý của Mác, của Lê Nin, của Hồ Chí Minh. Việc
tìm kiếm chân lý, hoàn thiện lý luận phải được thực hiện thường xuyên, một
cách chủ động có ý thức. Để làm được điều đó, phải có không khí sáng tạo,
phải có không gian tranh luận thường trực trong Đảng về mặt lý luận, tuyệt
đối tránh việc quy chụp, đóng khung quan điểm. Khi đấu tranh chống chủ
nghĩa bè phái trong Đảng Bôn-sê-vich, chính Lê Nin đã nhận ra nguy cơ về
khả năng triệt tiêu không gian tranh luận đó trong Đảng nên đã đề xuất vai
trò của cơ quan Trung ương (báo) của Đảng. Đó là biện pháp chưa đủ nhưng
cũng đã chứng tỏ quan điểm của Lê Nin về sự cần thiết phải có không gian
tranh luận để thúc đẩy sự phát triển của lý luận. Sự áp đặt giới hạn cho phạm
vi tư duy không bao giờ là giải pháp tích cực, là nguyên nhân trực tiếp của
sự trì trệ, lạc hậu, bảo thủ. Trong bất cứ quá trình nhận thức nào, vai trò của
phản biện cũng hết sức cần thiết và quan trọng. Những người cộng sản cần
không chỉ giải phóng tư duy mà còn phải luôn chủ động tiên phong trong tìm
kiếm và khám phá ra những tri thức mới.
Cần phân biệt sự khác nhau giữa việc giải phóng tư duy, tạo không
gian tranh luận với chủ nghĩa bè phái, phá hoại sự thống nhất trong hành
động và chia rẽ dư luận xã hội. Đối với những người cộng sản, giải phóng tư
duy là cần thiết trong quá trình nhận thức nhưng trong hành động phải đảm
bảo sự thống nhất. Không nên tranh luận về quan niệm, đường lối cơ bản
trên công luận , chỉ đưa ra trước công luận những tư duy đã chín mùi, đã
được kết luận rõ ràng. Nhưng trong nội bộ Đảng, cuộc tranh luận này là hết
sức cần thiết. Cần chủ động tiến hành một cách thường xuyên, có tổ chức và
hiệu quả.
Một vấn đề khác hết sức quan trọng là phải đảm bảo thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản để đảm bảo sức chiến đấu của
Đảng, đảm bảo phát huy trí tuệ và sự thống nhất trong hành động. Tuy
nhiên, trong thực tiễn sinh hoạt Đảng, nguyên tắc này đã và đang được áp
dụng sai, và đó là một trong những nguyên nhân chính làm suy yếu, tha hoá
Đảng. Các hội nghị, Đại hội, việc đa số trực tiếp quyết định tất cả các vấn đề
được thảo luận bị thay thế bởi hình thức "kết luận" hay "tiếp thu" bởi một
người hay số ít. Và kết quả là quá trình ra quyết định thường phụ thuộc vào
trình độ, ý chí, quan điểm chủ quan của người hoặc nhóm đứng đầu, không
8
phát huy được đầy đủ dân chủ của đa số trong từng quan điểm, trong mỗi
vấn đề. Do đó luôn có xu hướng tuyệt đối hoá vai trò người đứng đầu, không
phát huy được trí tuệ tập thể, không tạo được sự thống nhất cao trong Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng thường xuyên bị vi phạm trong công tác
chỉ đạo, điều hành trong công việc hàng ngày bởi có sự lẫn lộn, đồng nhất
hoá sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, của cấp trên với vai trò của cá nhân cán
bộ được phân công làm công tác chuyên trách Đảng. Y kiến cá nhân của các
cán bộ này, thậm chí nhiều khi không đúng chức năng, lại được coi là sự chỉ
đạo của Đảng, tạo nên thói quen tuỳ tiện, cảm tính trong công tác chỉ đạo,
điều hành, làm cho cán bộ, đảng viên coi trọng "tranh thủ ý kiến" và quan hệ
cá nhân hơn là chấp hành nghị quyết tập thể.
Chúng ta cần nghiên cứu, xem xét để sửa đổi phương pháp sinh hoạt
Đảng và phương pháp làm việc nhằm đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ từ khâu chuẩn bị, thảo luận và thông qua các quyết định
tập thể đến khâu điều hành, chỉ đạo hướng dẫn thực hiện.
Vấn đề then chốt ảnh hưởng quyết định đến sức chiến đấu của Đảng là
công tác cán bộ.
Làm thế nào để chọn và bố trí được cán bộ tốt nhất, giỏi nhất vào các
cương vị lãnh đạo? Vấn đề cơ bản là cần có tiêu chí và cơ chế đánh giá cán
bộ một cách khoa học và đúng đắn. Là một Đảng cầm quyền, mục tiêu bố trí
cán bộ là để phục vụ tốt nhất cho dân, cho sự nghiệp của Đảng. Vì vậy tiêu
chí quan trọng nhất là khả năng, mức độ hiệu quả cống hiến thực chất của
mỗi con người cụ thể trong công việc để chọn ra người có thể làm tốt nhất
mà đề bạt, bầu cử. Nếu làm được như vậy thì người trẻ như Pu-tin cũng có
thể làm Tổng thống, người cao tuổi như Cri-xtôp-phơ cũng có thể làm bộ
trưởng ngoại giao, người không có bằng đại học cũng có thể làm thủ tướng
Anh, Tổng thống Pháp vì điểm chung duy nhất của họ là có phẩm chất và
khả năng đảm đương trách nhiệm được giao. Nhiều đồng chí lãnh đạo kiệt
xuất của cách mạng Việt Nam cũng từng rất trẻ, không có bằng cấp, có vấn
đề về lý lịch, đời tư nhưng đã đóng góp hết sức xuất sắc suốt đời cho sự
nghiệp của Đảng. Khi không có khả năng đánh giá thực chất phẩm chất và
năng lực cán bộ thì người ta mới phải sử dụng các yếu tố bên ngoài, hình
thức để quy định như tuổi tác, bằng cấp, đời tư, v.v lựa chọn những người
đáp ứng các tiêu chí này và không bị "nhiều ý kiến" để đề bạt. Đó là sự dọn
đất cho những kẻ trung bình "vô thưởng vô phạt" hoặc cơ hội, không làm
được gì có ích cho dân mà suy cho cùng thì có hại cho uy tín của Đảng. Hiện
tượng nhiều đồng chí lãnh đạo ở các cấp hiện nay mặc dù đáp ứng đủ các
9
yêu cầu về tiêu chuẩn, quy trình nhưng thực chất là bất tài và không có uy
tín trong quần chúng, đảng viên là hệ quả của phương pháp này. Và chúng ta
lại không có cơ chế đào thải có hiệu quả đối với những loại người này. Đưa
họ lên thì dễ nhưng đưa xuống thì rất khó. Năng lực lãnh đạo và uy tín của
Đảng do đó bị giảm sút.
Đó chính là "lương tâm và trí tuệ của thời đại".
10