BÀI THU HOẠCH/ TIỂU LUẬN
TÊN MÔN HỌC:
KHOA HỌC LÃNH ĐẠO
TÊN BÀI THU HOẠCH/ TIỂU LUẬN:
VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH CƠNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG..................................................................................................2
1. Một số vấn đề lý luận về chính sách cơng ở Việt Nam hiện nay............................2
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chính sách cơng........................................................2
1.2. Vai trị của chính sách cơng và đổi mới chính sách cơng.................................3
1.3. Quan điểm của Đảng ta về đổi mới chính sách cơng.......................................6
2. Thực trạng và ngun nhân thực trạng trong q trình đổi mới chính sách cơng
ở Việt Nam hiện nay.....................................................................................................8
2.1. Những thành tựu trong quá trình đổi mới chính sách cơng ở Việt Nam trong
những năm qua..........................................................................................................8
2.2. Khó khăn, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến khó khăn, hạn chế trong q
trình đổi mới chính sách cơng ở Việt Nam trong những năm qua......................12
3. Một số giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện trong q trình đổi mới
chính sách cơng ở Việt Nam hiện nay........................................................................13
PHẦN III: KẾT LUẬN..............................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo sâu sắc và
toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn dân xây
dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
đồng thời tổ chức đề xướng đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với vai trò lãnh đạo Nhà nước và cả hệ thống chính
trị, xã hội thì đường lối, chủ trương của Đảng là căn cứ quan trọng trong q trình
chính sách [5, tr.241], theo đó, chính sách cơng xuất hiện là sự cụ thể hoá và thực hiện
đường lối chủ trương của Đảng, nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân
dân lao động.
Chính sách cơng là một trong những cơng cụ quản lý vĩ mơ quan trọng của nhà
nước, chính sách công được nhà nước ban hành trên cơ sở pháp luật và có tính pháp lý
nhằm chuyển tải ý chí, quan điểm của Đảng và Nhà nước thành chính sách, công cụ
quan trọng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Chính sách cơng thể hiện
qua ý nghĩa xã hội của nó, nhằm phục vụ lợi ích của nhà nước và phục vụ, quảng đại
quần chúng nhân dân tạo điều kiện định hướng cho xã hội phát triển. Việc đổi mới
chính sách cơng trong bối cảnh tồn cầu hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế cũng rất
cần được chú trọng trong chiến lược phát triển. Nhận thấy được tầm quan trọng đó, bài
nghiên cứu của tác giả sẽ góp phần làm rõ một số vấn để lý luận về chính sách cơng ở
Việt Nam hiện nay, điểm lại những thành tựu đạt được cũng như một số hạn chế, khó
khăn của q trình đổi mới chính sách cơng ở nước ta trong những năm vừa qua, từ đó
luận giải nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn và kiến nghị một số giải pháp tiêp
tục nâng cao hiệu quả thực hiện trong quá trình đổi mới chính sách cơng.
2
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về chính sách cơng ở Việt Nam hiện nay
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chính sách cơng
Thuật ngữ “chính sách công” là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong khoa
học chính sách cơng, trong khoa học chính trị và trong ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày;
trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước ta cũng xuất hiện
khá phổ biến dưới dạng thuật ngữ “chính sách”. “Chính sách cơng là cơng cụ của Nhà
nước, do Nhà nước xây dựng, ban hành và thực thi nhằm giải quyết vấn đề thuộc lợi
ích cơng cộng theo mục tiêu đã lựa chọn” [5, tr.244]. Cụ thể, chính sách cơng là những
hành động ứng xử có chủ đích mang tính quyền lực của Nhà nước, được ban hành theo
những trình tự thủ tục nhất định, nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề phát sinh trong
thực tiễn cuộc sống người dân và tồn xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm cải
thiện đời sống người dân và thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng đó. Về bản chất
chính sách cơng thuộc về chính trị, do đó q trình ra quyết định chính sách được xác
định là một q trình chính trị. Chính sách cơng được thể hiện chính thức thành các
văn bản pháp luật hay cịn cịn gọi là chính sách pháp luật mang tính pháp lý cho việc
thực thi, đồng thời bao gồm những hành động khơng mang tính pháp lý, nhưng có tính
định hướng, kích thích phát triển. Từ khái niệm và bản chất của chính sách cơng nêu
trên, có thể thấy được chính sách cơng có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chủ thể ban hành và thực thi chính sách cơng là Nhà nước. Điều này
có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước là chủ thể có thẩm quyền
quyết định ban hành chính sách cơng, với những nguồn lực cơng để đảm bảo chính
sách được làm ra theo cách tốt nhất có thể, và thực thi sao cho hiệu lực, hiệu quả. Trên
thực tế, chính sách công chủ yếu được ban hành bởi cơ quan nhà nước cấp trung ương
và cấp tỉnh; còn việc thực thi chính sách cơng được thực hiện bởi cơ quan nhà nước
của tất cả các cấp bao gồm trung ương và cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
3
Thứ hai, chính sách cơng có định hướng giải quyết vấn đề. Chính sách cơng
được trải qua q trình nghiên cứu, lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề
công mà thực tiễn xã hội đang đặt ra hoặc sẽ đặt ra [5, tr.243]. Cơ quan nhà nước sẽ có
thẩm quyền quyết định chính sách thích hợp để áp dụng giải quyết một vấn đề phát
sinh trong thực tiễn. Chính sách cơng ln địi hỏi sự thay đổi theo thời gian đề phù
hợp với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước hoặc đơn giản là do có sự thay
đổi so với định hướng ban đầu trong chính sách theo hướng ngày càng hồn thiện hơn
trên thực tế. Tuy nhiên, khơng phải lúc nào chính sách được đưa ra cũng phù hợp mà
chính sách giải quyết một hay một số vấn đề cũng có thể thay đổi qua từng thời kỳ, sự
thay đổi chính sách có thể diễn ra nhanh, cũng có thể kéo dài hàng thập kỷ.
Thứ ba, chính sách được làm ra thơng qua một quá trình tương tác lẫn nhau giữa
các chủ thể theo những quy tắc, trình tự, thủ tục, cấu trúc quyền lực phức tạp. Chính
sách cơng được coi là đầu ra của quá trình quản lý nhà nước, là sản phẩm trí tuệ của
một đội ngũ nhất định tham gia vào q trình xây dựng chính sách cơng. Các chủ thể
tham gia vào q trình làm chính sách đến từ khu vực công và cả khu vực tư là những
nhà chính trị, nhà nghiên cứu chính sách, đội ngũ cán bộ, cơng chức, các nhóm lợi ích
khác nhau trong xã hội. Thơng thường thì trình tự, thủ tục được quy định rõ trong luật,
kể cả thủ tục trưng cầu dân ý.
Thứ tư, chính sách cơng hướng đến mục tiêu tạo ra những thay đổi để đạt được
các mục tiêu phát triển đất nước. Chính sách cơng là hoạt động có chủ đích nhằm giải
quyết vấn đề cơng của chính quyền, hướng tới sự cơng bằng, hài hồ, dân chủ, ổn định
để phát triển xã hội [5, tr.244]. Cụ thể, chính sách cơng được nhà nước đề ra nhằm
phục vụ lợi ích chung của cộng đồng hoặc của cả quốc gia.
1.2. Vai trị của chính sách cơng và đổi mới chính sách cơng
4
Vai trị cơ bản của chính sách cơng thể hiện ở khía cạnh đây là cơng cụ hữu hiệu
chủ yếu để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, duy trì sự tồn tại và
phát triển của nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ người dân. Dưới góc độ
quản lý, quản trị quốc gia, nhà nước sử dụng chính sách cơng như một công cụ quan
trọng tác động vào các lĩnh vực đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định hướng của
nhà nước. Cụ thể hố hơn vai trị của chính sách cơng, có thể liệt kê các vai trị như
sau:
Thứ nhất, định hướng mục tiêu cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế - xã
hội. Một trong những vai trị quan trọng của chính sách cơng là định hướng cho các
hoạt động của các thực thể kinh tế - xã hội. Nếu các chủ thể kinh tế, xã hội hoạt động
theo định hướng tác động của chính sách thì khơng những dễ dàng đạt được mục tiêu
phát triển mà cịn nhận được những ưu đãi từ phía nhà nước hay xã hội. Điều đó có
nghĩa là, cùng với mục tiêu định hướng, cách thức tác động của chính sách cơng cũng
có vai trị định hướng cho các chủ thể hành động, cụ thể là bản thân các giải pháp chính
sách cũng có vai trị định hướng cho các thực thể kinh tế - xã hội trong việc đề ra biện
pháp
Thứ hai, tạo động lực cho các chủ thể trong xã hội. Để đạt được các mục tiêu
của chính sách công, nhà nước phải ban hành nhiều giải pháp, trong đó mỗi giải pháp
có những cách thức tác động mang tính khuyến khích và hỗ trợ đối với các chủ thể như
miễn giảm thuế, tạo cơ hội tiếp cận với nguồn vốn có lãi suất ưu đãi, ban hành những
thủ tục hành chính đơn giản và các chế độ ưu đãi đặc biệt khác,… Chẳng hạn, để tăng
cường đầu tư vào nền kinh tế, Nhà nước ta ban hành chính sách khuyến khích các chủ
thể trong nước và nước ngồi tích cực đầu tư vào các ngành, lĩnh vực hay những vùng
cần được ưu tiên phát triển. Việc này giúp tạo động lực mạnh mẽ đến các chủ thể trong
q trình hoạt động và thực hiện chính sách cơng.
5
Thứ ba, phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục những hạn chế của nền kinh
tế thị trường. Ở góc độ tồn xã hội, kinh tế thị trường góp phần vào việc phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực của xã hội và gia tăng phúc lợi xã hội, tạo động lực thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên, bản thân kinh tế thị trường cũng có nhiều khiếm
khuyết, tác động tiêu cực như độc quyền trong sản xuất, chênh lệch giàu nghèo và thất
nghiệp gia tăng, bất ổn kinh tế vĩ mô, gia tăng bất bình đẳng… những vấn đề đó ảnh
hưởng khơng tốt lên xã hội và người dân. Vì vậy, nhà nước phải sử dụng hệ thống
chính sách cơng để giải quyết những vấn đề bất cập về kinh tế, khắc phục những thất
bại của thị trường thông qua trợ cấp, cung ứng dịch vụ công cho người dân do các
doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công hay hội, tổ chức phi chính phủ thực
hiện.
Thứ tư, tạo lập và điều tiết sự cân đối trong phát triển. Thông qua các chính sách
cơng, Nhà nước đưa ra những điều kiện cần thiết nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho
các thực thể kinh tế - xã hội tiến hành các hoạt động. Để kinh tế - xã hội phát triển một
cách ổn định bền vững, nhà nước phải dùng chính sách để tạo lập các cân đối vĩ mô cơ
bản như cân đối giữa hàng - tiền, cung - cầu, xuất - nhập khẩu, tiết kiệm - tiêu dùng,..
Đồng thời, nhà nước cịn dùng chính sách để điều tiết đảm bảo cho sự phát triển cân
đối như điều tiết thu nhập giữa các cá nhân và doanh nghiệp trong xã hội, điều tiết các
thị trường lao động, vốn… như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp,
quy định giá cả một số hàng hóa thiết yếu, bình ổn giá trên thị trường, chính sách tiền
lương, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá,…; ngồi ra Nhà nước cịn dùng các chính
sách để bảo bảo sự phát triển đồng đều giữa các vùng, miền thông qua việc phân bổ và
tái phân bổ các nguồn lực của xã hội.
6
Thứ năm, tạo mơi trường thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội. Thơng
qua các chính sách, nhà nước tạo những điều kiện cần thiết để hình thành môi trường
thuận lợi cho các chủ thể xã hội hoạt động như chính sách phát triển thị trường lao
động, thị trường vốn, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường bất động sản, phát
triển cơ sở hạ tầng,... Điều này sẽ mang lại động lực mạnh cho các thực thể có chỗ
đứng trong mơi trường cạnh tranh, góp phần thống nhất tư tưởng và hành động của mọi
người trong xã hội, đẩy nhanh và hữu hiệu sự tiến bộ của các hoạt động thuộc mục tiêu
bộ phận mà chính sách hướng tới và thực hiện các mục tiêu chung của phát triển kinh
tế quốc dân.
Thứ sáu, thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành. Nhà nước đề
ra mục tiêu chính sách để thống nhất mọi thành phần xã hội đều hướng tới mục tiêu
chung trên cơ sở thực hiện tốt những mục tiêu bộ phận của mình. Do nắm chắc được
mục tiêu chung các bộ phận sẽ tự biết được vai trị, vị trí, thời gian và mức độ hoàn
thành các mục tiêu cụ thể của mình để tự giác phối hợp thực hiện mục tiêu chung. Việc
thực hiện các giai đoạn trong chu trình chính sách khơng chỉ và khơng thể do một cơ
quan nhà nước đảm nhiệm, mà cần có sự tham gia của nhiều cơ quan thuộc các cấp,
các ngành khác nhau hay của nhiều tổ chức, cá mân. Vì vậy, thơng qua q trình chính
sách sẽ thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân, góp phần tạo nên sự nhịp nhàng, đồng bộ trong hoạt
động thực thi chính sách cơng.
7
Thứ bảy, tác động tích cực đến pháp luật. Chính sách cơng bao giờ cũng đi trước
pháp luật, mang tính định hướng và là nền tảng để xây dựng pháp luật, cụ thể chính
sách phản ánh một cách trung thực, khách quan điều kiện kinh tế – xã hội tại thời điểm
cụ thể và dự báo xu thế, khả năng phát triển trong tương lai, nếu chính sách khơng làm
tốt vai trị này thì việc thể chế hố các chính sách thành các quy phạm pháp luật hoặc
văn bản quy phạm pháp luật sẽ khơng có tính khả thi. Chính sách có tính ổn định tương
đối để pháp luật có điều kiện đi vào thực tế cuộc sống vì pháp luật luôn hướng tới mục
tiêu chung, thống nhất nên trong mỗi giai đoạn nhất định, pháp luật có tính đồng bộ và
ổn định. Ngồi ra, chính sách là một trong các nguồn tạo ra những thể chế pháp luật
mới, hay nói cách khác, do chính sách là cơng cụ thể hiện thái độ chính trị của Đảng
lãnh đạo để điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra theo định hướng, nên pháp luật được
ban hành cùng các quy định cụ thể cho mỗi loại quan hệ, thông thường sau khi Nhà
nước ban hành chính sách mới trên cơ sở định hướng chính sách của Đảng, chính sách
này được thực thi thơng qua việc cụ thể hố thành các quy phạm pháp luật.
Với những vai trò cơ bản lẫn cụ thể vừa nêu, rõ ràng, vấn đề đổi mới chính sách
công trong hoạt động ban hành quyết định lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đóng vai
trị cực kỳ quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Bởi lẽ, trong thời gian vừa
qua, có nhiều chính sách mà Đảng và Nhà nước ban hành vẫn còn bộc lộ nhiều hạn
chế, đặc biệt là khả năng dự báo. Do đó, việc đổi mới chính sách cơng, đặc biệt là đổi
tư mới tư duy nhằm tạo ra các chính sách phù hợp, kịp thời, đồng bộ, hiệu quả trong
phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, ngành vừa trở thành nhu cầu lẫn yêu cầu
của quá trình kiến tạo xã hội và phát triển bền vững của Đất nước.
1.3. Quan điểm của Đảng ta về đổi mới chính sách công
8
Trên cơ sở định vị thế và lực của đất nước, Đảng đưa ra tầm nhìn mục tiêu phát
triển chiến lược, không chỉ 10 năm trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2030, là mốc quan trọng kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng mà tầm nhìn cịn vươn xa
đến năm 2045 - năm kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. So với các kỳ Đại hội trước, chưa
bao giờ Đảng ta lại vạch ra con đường phát triển dài hơi với mục tiêu phát triển cụ thể,
rõ ràng và quyết tâm cao độ đến vậy. Con đường dài với những mốc mục tiêu cao mà
Đảng vạch ra nhưng hoàn tồn khơng chủ quan, duy ý chí mà dựa trên cơ sở khoa học,
thực tiễn, khách quan và khát vọng, mong mỏi của nhân dân, của dân tộc. Điều đó cũng
thể hiện năng lực, phẩm chất, trí tuệ của Đảng cho phép có tầm nhìn xa, lãnh đạo đất
nước thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, một số vấn đề trọng tâm trong
đổi mới chính sách công ở Việt Nam được đề cập như sau:
Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 về phát triển nền kinh tế
thị trường là hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Theo đó, “Nhà
nước có chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mơ hình kinh tế hợp tác,…
Hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân” [2, tr.134].
Về giáo dục, tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Cụ thể là
“Xây dựng và hồn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục Việt Nam trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, lấy chất lượng và hiệu quả đầu ra làm
thước đo,…” và “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh xã hội hố giáo dục và
đào tạo đúng hướng. Thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội trong giáo dục và
đào tạo” [2, tr.138] làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và
vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.
9
Về xây dựng và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam cần “có
cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng mơi trường văn hố thật sự trong sạch, lành
mạnh, cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hoá của nhân dân” [2, tr.142] nhằm phát triển
con người tồn diện và xây dựng nền văn hố Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và
bảo vệ Tổ quốc.
Về phát triển khoa học và công nghệ, “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ thể
chế, chính sách ứng dụng, phát triển khoa học và cơng nghệ… Rà sốt, sắp xếp lại hệ
thống tổ chức khoa học và công nghệ gắn với đổi mới tồn diện chính sách nhân lực
khoa học và công nghệ” [2, tr.140] nhằm đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế
số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Về xây dựng và thực hiện hệ thống pháp luật cần tổ chức xây dựng, thực hiện
tốt hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để phát triển đất nước, cụ thể là “Hoàn thiện
đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã
hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp
chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực
hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng
cường đại đoàn kết toàn dân tộc”.
2. Thực trạng và nguyên nhân thực trạng trong q trình đổi mới chính sách cơng
ở Việt Nam hiện nay
2.1. Những thành tựu trong quá trình đổi mới chính sách cơng ở Việt Nam trong
những năm qua
10
Nhìn chung các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp cũng như các cơ
quan, tổ chức trong hệ thống chính trị đã nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của
tổ chức thực hiện chính sách và đề cao trách nhiệm trong tổ chức thực hiện chính sách.
Do việc tổ chức thực hiện tốt nên các chính sách của nhà nước đã kịp thời đi vào cuộc
sống, phát huy được vai trị quan trọng của chính sách trong sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ và phát triển đất nước, cụ thể đã đạt được một số thành tựu nhất định như sau:
Đối với đổi mới chính sách về hồn thiện mơ hình kinh tế thị trường: Đảng ta
nhận định: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày
càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hồn thiện phù
hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu
tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường
khu vực và thế giới” [2, tr.59] và “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập” [3, tr.31].
Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức
sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của
nhân dân được cải thiện rõ rệt, cụ thể: từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top 10
nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành cơng
nhất [6]; năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 3.500 USD [8]; tỷ lệ nghèo
giảm mạnh từ hơn 70% năm 1990 xuống còn dưới 6% năm 2018 [7]; chỉ số đổi mới
sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020 được xếp thứ 42/131 nước, đứng đầu nhóm
29 quốc gia có cùng mức thu nhập [1],…
11
Đối với đổi mới chính sách về khoa học, cơng nghệ: những đổi mới mạnh mẽ về
chính sách để khoa học và công nghệ trở thành khâu đột phá đưa đất nước phát triển
mạnh mẽ, cụ thể trong những năm qua, khoa học và công nghệ Việt Nam đã đạt được
nhiều tiến bộ và thành tựu nổi bật, đóng góp thiết thực cho cơng cuộc cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, củng cố quốc phòng và an ninh, cải thiện an sinh xã hội và chất
lượng cuộc sống người dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đến nay, cả
nước có 687 tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, 236 trường đại học,
ba khu công nghệ cao quốc gia, 13 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tám khu
công nghệ thơng tin tập trung và gần 67 nghìn cán bộ nghiên cứu. Đã hình thành các
viện nghiên cứu cơng nghệ cơng nghiệp theo mơ hình tiên tiến thế giới ở khu vực cơng
lập và tư nhân. Nguồn lực tài chính cho khoa học và công nghệ từ ngân sách nhà nước
được duy trì mức 2% tổng chi hằng năm; đầu tư từ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
quy mô lớn ngày càng tăng mạnh (chiếm 48% tổng chi xã hội cho khoa học và công
nghệ). Số lượng bài báo, công trình khoa học cơng bố quốc tế và sáng chế của người
Việt Nam tăng hằng năm; tốc độ đổi mới công nghệ, năng lực công nghệ của quốc gia
và doanh nghiệp được tăng cường. Năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam liên tục
tăng, năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng thêm ba bậc, năm 2019 và 2020 đạt thứ
hạng tốt nhất từ trước tới nay, xếp thứ 42 trên 131 quốc gia, dẫn đầu nhóm quốc gia thu
nhập trung bình thấp [4].
12
Đối với đổi mới chính sách về giáo dục: Sau quá trình thực hiện Nghị quyết số
29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, được sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước; chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp có hiệu quả của
các bộ, ngành và địa phương, đặc biệt là sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục các cấp, giáo dục đào tạo đã có những chuyển biến tích cực. Cụ thể về hệ
thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cơ bản được hoàn thiện,
thời gian vừa qua, các quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển giáo dục, đào tạo đã
được thể chế hóa, Bộ Giáo dục và đào tạo đã rà sốt, trình Chính phủ, Quốc hội ban
hành và đã trực tiếp ban hành theo thẩm quyền các cơ chế, chính sách nhằm khắc phục
những hạn chế, bất cập từ nhiều năm trước; trong đó, nổi bật là Bộ đã tham mưu Chính
phủ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại
học năm 2018 và Luật Giáo dục 2019, tháo gỡ được những “nút thắt”, tạo hành lang
pháp lý thuận lợi cho các hoạt động đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Đáp
ứng tình hình mới khi Luật Giáo dục năm 2019 được ban hành, các đề án khoa học và
công nghệ về nghiên cứu luận cứ khoa học sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục đã đề xuất
được những kiến nghị có tầm nhìn xa, có những đóng góp liên quan đến những kiến
nghị quan trọng về triết lý giáo dục; về phát triển hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó
nhấn mạnh tới yếu tố phân luồng và liên thơng giáo dục; về sách giáo khoa; về phương
pháp đánh giá trình độ học sinh phổ thơng; về chính sách đối với nhà giáo; về các loại
hình nhà trường và vấn đề quản trị nhà trường và các cơ sở giáo dục trong bối cảnh xã
hội hóa giáo dục; về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục.
13
Đối với đổi mới chính sách về xây dựng và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh
con người: Nhận thức về vị trí, vai trị của văn hóa được nâng lên trong tồn hệ thống
chính trị và nhân dân; thể chế văn hóa, chính sách văn hóa dần được hồn thiện. Hệ
thống thiết chế văn hóa tăng về số lượng và từng bước cải thiện về chất lượng ; sản
phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật phong phú, đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn
hóa của nhân dân; nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể được nghiên cứu, nhận diện,
bảo vệ và phát huy giá trị, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, khơi dậy lòng tự
hào trong nhân dân. Đồng thời, vai trị của văn hố trong phát triển kinh tế được chú
trọng, kết hợp khai thác tiềm năng của văn hóa với phát triển kinh tế, du lịch; đời sống
văn hoá ở cơ sở có bước phát triển về chiều rộng và chiều sâu.
14
Đối với đổi mới chính sách pháp luật: Trong những năm qua, Nhà nước ta đã
xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật ngày càng lớn, chất lượng ngày càng nâng
cao, hoàn thiện một bước quan trọng hệ thống pháp luật về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; về các lĩnh vực văn hóa, xã
hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học, cơng nghệ, mơi trường, quốc phịng, an ninh,
đối ngoại… đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hệ thống pháp luật đã thể chế hóa kịp thời chủ
trương của Ðảng, cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp năm 2013, bám sát yêu
cầu của cuộc sống và đáp ứng các tiêu chí của hệ thống pháp luật về “tính đồng bộ,
thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch”; xử lý tốt những vấn đề phức tạp của thực
tiễn. Qua đó, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền tự do kinh doanh, bình đẳng, theo pháp luật; bảo vệ, bảo
đảm quyền con người, quyền công dân; bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường;
thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân; đẩy mạnh cải cách tư pháp; tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm;
củng cố quốc phòng, bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, giữ vững
ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an tồn xã hội; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
sâu rộng.
2.2. Khó khăn, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến khó khăn, hạn chế trong q trình
đổi mới chính sách cơng ở Việt Nam trong những năm qua
Thời gian qua, các chủ thể chính sách cơng đã có nhiều nỗ lực trong việc xây
dựng và ban hành chính sách phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn một số
thiếu sót và bất cập, do sự hạn chế nhất định trong nhận thức về chính sách cơng và tư
duy xây dựng chính sách cơng có thể kể đến như:
15
Một là, hiện nay vẫn tồn tại những chính sách ban hành khơng sát với thực tiễn,
gây khó khăn và ảnh hưởng trực tiếp đến khâu tổ chức thực hiện, dẫn đến hiệu lực,
hiệu quả thấp. Việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách chưa chú ý đến các nguồn
lực như con người, kinh phí, điều kiện vật chất, thời gian để thực hiện chính sách; đặc
biệt là khâu phân cơng, phối hợp thực hiện chính sách chưa hợp lý, cịn biểu hiện của
tính cục bộ, khơng đề cao trách nhiệm, tinh thần phối kết hợp giữa các cơ quan hữu
quan trong tổ chức thực hiện chính sách.
Hai là, các văn bản hướng dẫn, phổ biến thực hiện chính sách nhiều khi không
cụ thể, rõ ràng và thống nhất, thậm chí mâu thuẫn, khơng phù hợp với các quy định
trong chính sách, dẫn đến việc triển khai thực hiện chính sách khó khăn và khơng chính
xác. Nhiều quy định, thủ tục trong q trình tổ chức thực hiện chính sách cịn phức tạp,
rắc rối gây khó khăn, cản trở việc thực hiện chính sách.
Ba là, nhiều cán bộ, cơng chức thực thi chính sách có trình độ năng lực yếu;
nắm và hiểu chính sách cịn hạn chế; tinh thần, thái độ thực thi chính sách thiếu khách
quan dẫn đến hạn chế, bất cập trong thực hiện và làm cho chính sách bị méo mó khơng
đúng với mục tiêu, mục đích ban hành chính sách. Việc theo dõi, kiểm tra, đơn đốc
thực hiện một số chính sách khơng được thực hiện thường xuyên, hoặc thực hiện hình
thức, chiếu lệ nên không phát hiện kịp thời những hạn chế, bất cập để kiến nghị sửa
đổi, bổ sung hoàn thiện, rút kinh nghiệm kịp thời cho việc tổ chức thực hiện chính
sách.
Bốn là, bên cạnh những kết quả đã đạt được hoạt động hoạch định chính sách
pháp luật cịn có những tồn tại: chất lượng xây dựng pháp luật còn hạn chế; các nhà
hoạch định chính sách pháp luật tại các bộ, ngành, địa phương còn thiếu so với nhu cầu
khối lượng cơng việc được giao; năng lực, trình độ chun mơn, nghiệp vụ nhất là khả
năng phân tích, dự báo, xây dựng chính sách, kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm
pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu… Đồng thời, việc bố trí kinh phí cho hoạt động
xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhất là trong giai đoạn lập đề nghị
còn chưa kịp thời, đầy đủ, thống nhất.
16
Năm là, việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật trong xây dựng văn bản ở một số nơi
còn chưa nghiêm. Cơng tác phối hợp giữa các bộ trong q trình xây dựng luật, pháp
lệnh, ban hành văn bản quy định chi tiết chưa thực sự chặt chẽ. Ở các địa phương chưa
huy động được sự tham gia tích cực của pháp chế các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh trong việc xây dựng, ban hành văn bản.
Sáu là, chính sách cơng cịn có những khoảng trống, chưa theo kịp tình hình
thực tiễn. Do đời sống kinh tế - xã hội luôn vận động, phát triển, nảy sinh nhiều vấn đề
mới, nhiều vấn đề bức thiết đặt ra cần tác động, giải quyết nên chính sách cơng chưa
theo kịp hoặc chưa đề cập, can thiệp. Có những chính scahs cơng đã được ban hành,
nhưng vì những lý do như việc hoạch định mang nặng tính chủ quan của cơ quan quản
lý Nhà nước, hạn chế trong nghiên cứu, cập nhật thực tế, tiếp thu ý kiến, đánh giá tác
động của chính sách cơng trước khi hoạch định, ban hành... nên ít hoặc khơng có hiệu
lực, cần phải điểu chỉnh, bổ sung, thay đổi.
3. Một số giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện trong quá trình đổi mới
chính sách cơng ở Việt Nam hiện nay
Để chính sách cơng thực sự bám sát, đáp ứng u cầu thực tiễn, khẳng định tính
chất và bản chất chính sách công của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì
dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, địi hỏi chính sách cơng ở Việt Nam phải có sự đổi
mới, sự đổi mới xuất phát từ các giải pháp cụ thể như là:
Thứ nhất, công tác tham mưu thiết kế chính sách phải xuất phát từ thực tiễn,
phải cơng khai, minh bạch, hài hịa, hợp lý, ổn định và đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên
trên hết; phải bám sát thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo, phải xuất phát từ thực tiễn,
tôn trọng thực tiễn để điều chỉnh, hồn thiện cơ chế, chính sách; việc thiết kế, xây dựng
cơ chế, chính sách phải tham khảo ý kiến các đối tượng bị tác động và dự báo, đánh giá
đầy đủ những tác động, ảnh hưởng… Chỉ có làm được như vậy thì “chính sách mới đi
vào cuộc sống, mới sống được lâu dài”, có sức lan tỏa rộng lớn và hiệu ứng tốt.
17
Thứ hai, cần tiếp tục nghiên cứu, thiết kế chính sách để thu hút mạnh mẽ các
nguồn lực như nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực,… trên tinh thần phát huy tối đa sự
sáng tạo, tự lực, tự cường của các cấp, các ngành; dứt khốt xóa bỏ cơ chế xin – cho để
mọi cơ quan, đơn vị, địa phương phải tự lực, tự cường phấn đấu với tinh thần cao nhất,
bảo đảm cơng bằng, hợp lý, hài hịa lợi ích các bên và cá thể hóa trách nhiệm cá nhân.
Thứ ba, nâng cao năng lực chính sách cơng cho chủ thể chính sách cơng, đồng
thời, phải cương quyết chống tham nhũng chính sách, lãng phí, tiêu cực “trục lợi chính
sách”, bóp méo chính sách hay vận động chính sách theo nghĩa tiêu cực, chống lợi ích
nhóm và những biểu hiện tiêu cực khác “lách chính sách”, “chạy chính sách”, “bn
chính sách”,… Đồng thời, khơng ngừng nâng cao nhận thức cho các chủ thể xây dựng
chính sách cơng, loại trừ các lỗi thường gặp trong tư duy chính sách. Theo đó, cần đào
tạo, bồi dưỡng về năng lực chính sách cơng cho cán bộ, cơng chức để hình thành tư
duy xây dựng chính sách tốt dựa trên nền tảng khoa học và gắn liền với thực tiễn cuộc
sống. Cán bộ, cơng chức có vai trị rất quan trọng trong việc hoạch định, triển khai và
tổ chức thực hiện chính sách công; quyết định sự thành công hay thất bại của chính
sách do cơ quan, tổ chức vạch ra.
Thứ tư, cần quy định rõ ràng, hợp lý hơn trách nhiệm của cơ quan trình văn bản
trong suốt quá trình xây dựng, ban hành văn bản, đặc biệt là trách nhiệm bảo vệ, giải
trình các chính sách do mình đề xuất. Việc quy định trách nhiệm đến cùng của cơ quan
trình sẽ tăng cường tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan này, đồng thời, bảo
đảm tính liên tục trong suốt quá trình xây dựng dự án luật, pháp lệnh từ giai đoạn đề
xuất chính sách, soạn thảo cho đến giai đoạn chỉnh lý dự thảo.
18
Thứ năm, tăng cường công tác đối thoại, tuyên truyền qua các kênh, hình thức
khác nhau, vai trị của báo chí, các thiết chế dân chủ cơ sở, dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong việc tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận của Nhân dân với đường lối, định
hướng mới trong phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết các vấn đề chính sách, nhất là
trong khâu xây dựng, hoạch định chính sách, tổ chức thực thi chính sách, tăng cường
và thực chất công khai, minh bạch, tiếp cơng dân và đề cao trách nhiệm giải trình.
Đồng thời, tăng cường lắng nghe dư luận, sâu sát cơ sở để kịp thời nắm bắt diễn biến tư
tưởng, nhu cầu, nguyện vọng, khúc mắc và mâu thuẫn để kịp thời giải quyết.
Thứ sáu, cần có sự thay đổi nhận thức và quan tâm nhiều hơn về vấn đề vận
động chính sách cơng trong giai đoạn hiện nay. Vận động chính sách cơng là hoạt động
có chủ đích, có hệ thống và mang tính chuyên nghiệp để tiếp cận, thuyết phục, gây ảnh
hưởng, tác động đến những chủ thể có thẩm quyền hoạch định, ban hành chính sách
cơng để họ ủng hộ hoặc khơng ủng hộ một chính sách, dự luật, chương trình, kế
hoạch... của nhà nước hoặc của đảng cầm quyền, từ đó xác lập, bảo vệ hay củng cố lợi
ích của một nhóm xã hội nào đó.
Về mặt lý thuyết, vận động chính sách cơng cũng bắt nguồn từ các nguyên lý cơ
bản của một nền dân chủ, đó là quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, nhà nước là
một thiết chế được Nhân dân lập ra để cung cấp các dịch vụ công cho xã hội chứ không
phải một chủ thể tự sinh, đứng trên Nhân dân. Về mặt pháp lý, vận động chính sách
cơng bắt nguồn từ các quyền dân sự, chính trị cơ bản của công dân được khẳng định
trong Hiến pháp của tất cả các quốc gia; đó là các quyền tự do tư tưởng, biểu đạt, tự do
hiệp hội, hội họp và quyền tham gia quản lý nhà nước. Về mặt thực tiễn, vận động
chính sách cơng bắt nguồn từ nhu cầu của cả nhà nước và xã hội; đơi với nhà nước, do
chức năng quản lý nên cần phải xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ xã hội và một trong những yêu cầu với việc này là phải “kết nối lợi
ích, duy trì đồng thuận xã hội của hệ thống chính trị và nhà nước”.
19
Những khía cạnh tích cực của vận động chính sách cơng chính là ý nghĩa của nó
với nhà nước và xã hội, trong đó tiêu biểu là: vận động chính sách công là một kênh
cung cấp thông tin quan trọng cho các cơ quan hoạch định chính sách cơng; góp phần
chuyển tải ý chí, nguyện vọng của người dân đến các cấp chính quyền; góp phần thúc
đẩy sự giám sát, phản biện và thảo luận dân chủ trong xã hội; vận động chính sách
cơng là một trong những cách thức hiệu quả nhất để các nhóm xã hội thể hiện mối quan
tâm và bảo vệ, địi hỏi lợi ích chung chính đáng của mình.
20
PHẦN III: KẾT LUẬN
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đời sống
kinh tế – xã hội thay đổi ngày một nhanh chóng; trước yêu cầu đổi mới của nền kinh tế
Việt Nam để đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững, Đảng và Nhà nước đang nghiên
cứu, xem xét những vấn đề đặt ra để hoàn thiện hơn thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bên cạnh đó, trong bối cảnh tồn cầu hố và hội
nhập quốc tế đã tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống người dân; theo đó xu hướng dân chủ hóa đời sống xã hội và trình độ dân trí ngày
càng cao đã đặt ra đòi hỏi ngày càng lớn đối với Nhà nước. Mỗi chính sách khi ban
hành đều có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế – xã hội của đất nước và
của người dân. Do đó, đổi mới và hồn thiện chính sách cơng nhằm nâng cao hiệu lực
và hiệu quả của chính sách là một yêu cầu quan trọng đòi hỏi mỗi cấp, mỗi ngành phải
nỗ lực khơng ngừng.
Việt Nam cần hồn thiện thể chế, đổi mới phương thức hoạch định và thực thi
chính sách cơng. Việc ban hành và thực thi chính sách cơng xuất phát từ nhu cầu và
điều kiện trong nước, song phải chú ý đến bối cảnh quốc tế. Trên cơ sở tìm hiểu, phân
tích kết quả, hạn chế ở của Việt Nam trong q trình đổi mới chính sách cơng những
năm vừa qua, bài viết đã tổng hợp, đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy, nâng cao
hiệu quả của việc đổi mới chính sách cơng hiện nay ở nước ta.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
BT, Việt Nam giữ thứ hạng cao về Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu, Nguồn:
Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hồ xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, (truy cập ngày 26/11/2021).
2.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Năm 2021, Tập 1.
3.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Năm 2021, Tập 2.
4.
Huỳnh Thành Đạt (2021), Đổi mới tư duy, cơ chế, chính sách để khoa học và
công nghệ trở thành khâu đột phá đưa đất nước phát triển mạnh mẽ, Nguồn:
Tạp
chí điện tử Nhân dân (truy cập ngày 26/11/2021).
5.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Khoa học lãnh đạo (Dùng
cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, Năm 2021.
6.
Nguyễn Minh Phong, Nguyễn Trần Minh Trí (2021), Vị thế và cơ đồ kinh tế Việt
Nam, Nguồn: />Tạp chí điện tử Nhân dân (truy cập ngày 26/11/2021).
7.
Tổng cục Thống kê (2021), Kinh tế Việt Nam năm 2020: Một năm tăng trưởng
đầy
bản
lĩnh,
Nguồn:
/>
ke/2021/01/kinh-te-viet-nam-2020-mot-nam-tang-truong-day-ban-linh/, Trang thông
tin điện tủ Tổng cục Thống kê (truy cập ngày 26/11/2021).
8.
Đức Tuân (2021), GDP bình quân đầu người đạt 3200-3500 USD vào năm
2020, Nguồn: Báo điện tử Chính
phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (truy cập ngày 26/11/2021).